Trong tổng thể 7 khu du lịch trọng điểm trên, động lực chính để du lịch Ninh Bình phát triển chính là khu du lịch Tam Cốc – Bích Động – Tràng An – Hoa Lư. Với đặc điểm tài nguyên nổi trội về văn hóa và cảnh quan, hiện khu du lịch này đang thu hút được một lượng lớn khách du lịch đến Ninh Bình. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn khu du lịch chính là “ Thương hiệu du lịch” của khu du lịch này đã được khẳng định. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam được thủ tướng chính phủ phê duyệt đã xác định Tam Cốc – Bích Động là một trong 17 khu du lịch chuyên đề quốc gia đầu tiên ở Việt Nam . Việc phát hiện ra các giá trị di tích lịch sử văn hóa và hệ thống các hang động (đến nay bao gồm 21 hang) tại Tràng An đã nâng vị trí và sức hấp dẫn của khu du lịch này và càng khẳng định ảnh hưởng có tính quốc gia của khu.
Nhận thấy được ý nghĩa của khu Tam Cốc – Bích Động – Tràng An – cố đô Hoa Lư trông quá trình phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt gắn với sự kiện 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, thời gian gần đây Chính phủ đã có sự quan tâm hỗ trợ đầu tư nâng cấp và phát triển hạ tầng du lịch ở khu vực này, đặc biệt là khu Tràng An. Dự án xây dựng CSHT khu du lịch Tam Cốc – Bích Động: Các hạng mục đã được đưa vào phục vụ khách du lịch như: đường, cầu, cống từ cầu Ba Vuông vào bến thuyền Đình Các. Xây dựng xong bến xe Đồng Gừng, sân Đình Các, bến thuyền cây Đa và nạo vét xong tuyến giao thông đường thủy từ Đình Các đi Tam Cốc – Suối Tiên. Đang tiếp tục thi công đường vào Bích Động, điện Thái Vi.
Dự án đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Tràng An và chùa Bái Đính: Hiện đang hoàn thiện tuyến đường trục chính từ Thành phố Ninh Bình đi chùa Bái Đính, các hạng mục còn lại cơ bản hoàn thành như: san lấp mặt bằng khu trung tâm, nạo vét các thung hang chính, hệ thống đường bộ, đường thủy của 9 tuyến du lịch trong hang động, khu vực núi chùa Bái Đính đã hoàn thành giai đoạn 1 và phục vụ thành công Chương trình Đại Lễ Phật Đản – Liên Hiệp quốc, năm 2008. Đây là tuyến đường có cảnh quan hấp dẫn, góp phần nâng cao rõ rệt vụ trí và thay đổi hình ảnh của du lịch Ninh Bình
56 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5710 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó nghiệp vụ du lịch tổng hợp ( Lễ tân, buồng, bàn, bar và bếp) cho 275 lao động, nghiệp vụ hướng dẫn viên thuyết minh cho 163 lao động, đào tạo ngoại ngữ du lịch tiếng Anh và tiếng Pháp trình độ A và B cho 126 lao động. Công tác đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp làm du lịch đã được tổ chức và thực hiện sát với nhu cầu đào tạo thực tế qua đó đã cập nhật và làm mới lại kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, thái độ làm việc và tăng cường khẳ năng giao tiếp ngoại ngữ của đội ngũ lao động góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ và hình ảnh du lịch Ninh Bình trong thời gian qua.
Năm 2008, Sở văn hoá - thể thao - du lịch Ninh Bình đã mở tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch cho hơn 1000 người. Trong đó sở đã mở 2 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch và 2 lớp đào tạo tiếng Anh, tiếng Pháp giao tiếp du lịch cho trên 100 học viên tại khu du lịch Tam Cốc- Bích Động và khu du lịch sinh thái Vân Long; 10 lớp bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng cho hơn 900 cán bộ và nhân dân làm du lịch tại xã Gia Sinh (Gia Viễn) và thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải (Hoa Lư). Ngoài ra Sở còn tổ chức nhiều buổi tư vấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho các doanh nghiệp, khách sạn, đoàn khách du lịch, công ty lữ hành trong nước và quốc tế.
Một trong những đặc điểm của du lịch Ninh Bình là phát triển dựa vào cộng đồng do yếu tố xen ghép và hòa quyện giữa tài nguyên du lịch và cộng đồng dân cư. Nên số lượng lao động gián tiếp (bán chuyên nghiệp) hiện nay chiếm tỷ trọng khá lớn, với trên 6250 lao động, chiếm 86,4% tổng số lao động làm du lịch. Nhưng hầu hết chưa qua các lớp đào tạo về nghiệp vụ du lịch từ sơ cấp trở lên, do vậy nhận thức, hiểu biết về du lịch và giao tiếp ứng xử trong quá trình phục vụ khách du lịch còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và chất lượng phục vụ tại các khu, điểm du lịch trong tỉnh. Với mục đích nâng cao nhận thức của nhân dân địa phương về phát triển du lịch, từ năm 2003 Sở Du lịch đã phối kết hợp với các cơ sở đào tạo và chính quyền địa phương nơi có khu, điểm du lịch mở các lớp bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng cho các lao động tham gia làm dịch vụ du lịch (chụp ảnh, chèo đò, bán hàng lưu niệm,…) cho 4.050 người.
Bảng 2.5. Tổng hợp lao động được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức du lịch
giai đoạn 2004 - 2008
Đơn vị: người
Nội dung đào tạo
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng LĐ được đào tạo từ 2002-2008
Nghiệp vụ tổng hợp
0
115
116
0
0
275
Nghiệp vụ hướng dẫn viên
0
0
0
0
60
163
Ngoại ngữ Anh - Pháp
0
0
0
60
66
126
Kiến thức du lịch cộng đồng
450
300
1000
1000
1000
4050
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Tổ chức các lớp học nghiệp vụ cho các học viên là cán bộ, công nhân viên đang công tác tại các đơn vị kinh doanh du lịch. Đến nay đã có 25 lượt cán bộ của các khách sạn nhà hàng trong tỉnh được tham gia các lớp học về chế biến món ăn, 20 học viên tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, 55 hướng dẫn viên được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ. Năm 2004, 2005, ngành du lịch tỉnh đã phối hợp với khoa Du lịch – Khách sạn của trường đại học Kinh tế quốc dân tổ chức 3 lớp đào tạo kiến thức về du lịch cộng đồng cho hơn 300 cán bộ quản lí của các huyện Hoa Lư và Yên Mô, 1.500 người dân tham gia làm du lịch, nội dung chương trình bồi dưỡng được phát liên tục trên hệ thống loa truyền thanh công cộng cho toàn thể người dân ở các huyện trên nghe.
Với quan điểm “mưa dầm thấm lâu”, các bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng được ngành du lịch tổ chức liên tục hàng năm, luân phiên giữa các khu, điểm du lịch đã từng bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân địa phương trong quá trình phục vụ khách du lịch và xây dựng hình ảnh điểm đến của địa phương mình. Tuy nhiên, lực lượng lao động gián tiếp này chủ yếu là những người có độ tuổi từ 40 trở lên, trình độ học vấn thấp, nên khẳ năng tiếp thu kiến thức và thay đổi tư duy còn chậm, do đó chất lượng của lực lượng lao động này vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn và tiếp tục phải được đào tạo bồi dưỡng trong những năm tới.
Mặc dù ngành du lịch Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp trong ngành và bồi dưỡng kiến thức du lịch cho nhân dân địa phương tham gia làm du lịch nhưng chất lượng đội ngũ lao động du lịch còn rất yếu, cả về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ các thị trường khách du lịch có khẳ năng chi trả cao, đặc biệt là thị trường khách quốc tế. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với du lịch Ninh Bình là phải có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, đủ tài, đủ tầm để đưa du lịch Ninh Bình từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
III. Thực trạng đầu tư vào một số khu du lịch của tỉnh
1. Khu du lịch suối nước nóng Kênh Gà - động Vân Trình, Vân Long, chùa Ðịch Lộng
Sự phát triển nổi trội của khu vực này với “hiện tượng” Vân Long trong những năm qua là yếu tố đặc biệt của du lịch Ninh Bình hiện nay. Với những nỗ lực của người dân địa phương, các nhà khoa học, các nhà quản lí, các giá trị tự nhiên, văn hóa của khu vực đã được “phát lộ” và nghiên cứu, đồng thời việc phát triển du lịch của khu vực đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, lượng khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế, đã gần tương đương với khu du lịch Tam Cốc – Bích Động – Tràng An – cố đô Hoa Lư cho đến thời điểm hiện nay.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Vân Long: Dự án đá đầu tư xong đường, cầu cống từ đường 477A qua 2 xã Gia Vân và Gia Lập, san nền xong 2 bến xe, nạo vét xong 2 tuyến đường thủy trong khu du lịch sinh thái Vân Long.
Một số vấn đề cần quan tâm đối với phát triển du lịch khu vực Vân Long là việc đầu tư của một số cơ sở công nghiệp, đặc biệt là hoạt động của nhà máy xi măng nằm gần khu du lịch. Do đó đã xuất hiện một số dao động trong ý chí quyết tâm của các nhà đầu tư du lịch. Việc phối hợp với Hà Nam trong công tác bảo tồn và phát triển du lịch cần được quan tâm.
Bảng 2.6. Tổng hợp những dự án đầu tư vào khu du lịch Vân Long
Đơn vị: triệu đồng
STT
Tên dự án
Chủ đầu tư
Vốn đầu tư
Thời gian
1
Khu du lịch nước nóng Kênh Gà
CTCP Việt - Thái
180.000
2004-2012
2
XD cơ sở dịch vụ du lịch
CTNHH Thảo Sơn
22.250
2005-2006
3
XD khu du lịch dịch vụ thể thao văn hóa
DNTN Duy Quang
16.767
2006-2009
4
XD nhà hàng, khách sạn và khu giải trí
DNTN Song Hào
10.913
2007-2008
5
XD khu nghỉ dưỡng ANA MANDARA Nb Resort
CTCP Tân Phú
255.000
2008-2010
Tổng vốn đầu tư tư nhân
484.930
1
Trùng tu di tích đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng
UBND Tỉnh
19.323
2007-2008
2
Tu bổ di tích động Hoa Lư
UBND Tỉnh
12.000
2008-2009
3
Bảo tồn, tôn tạo Khu Di tích lịch sử văn hóa đền Thung Lá
UBND Tỉnh
11.966
2006-2009
Tổng vốn đầu tư Ngân sách
43.289
Tổng vốn đầu tư vào Khu
528.219
Nguồn: Phòng Thẩm định, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình
Các sản phẩm du lịch tiêu biểu:
- Tham quan, nghiên cứu cảnh quan núi, hệ sinh thái ngập nước.
- Tham quan di tích lịch sử - văn hóa.
- Nghỉ dưỡng, chữa bệnh.
Ngoài những dự án đầu tư trong nước như được trình bày ở bảng tổng hợp dưới đây, khu du lịch suối nước nóng Kênh Gà và bảo tồn đất ngập nước Vân Long còn có dự án FDI. Đó là dự án khu du lịch sinh thái Đông Phương Sư ( 100% vốn của Đài Loan), tổng vốn đầu tư là 32 triệu USD ( tại Vân Long, Gia Viễn)
Đối với khu vực Đầm Cút, Kênh Gà, việc thu hút đầu tư du lịch còn nhiều khó khăn. Khu du lịch nước khoáng nóng hiện nay đang được đầu tư xây dựng, tuy nhiên còn nhiều khó khăn do khả năng tài chính hạn chế. Một số nhà đầu tư nước ngoài đã bày tỏ ý định đầu tư xây dựng những khu du lịch lớn nhưng việc triển khai cụ thể chưa được rõ ràng. Nếu hoạt động du lịch được khai thác bền vững, kết hợp với những giá trị tự nhiên cao của khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long, thì khi đó việc lập hồ sơ đề nghị công nhận di sản thế giới cho Vân Long sẽ rất thuận lợi.
2. Khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình với Dục Thuý Sơn, Ngọc Mỹ Nhân và hồ Kỳ Lân:
Đây là khu du lịch trung tâm đóng vai trò điều phối hoạt động chung của du lịch Ninh Bình trên cơ sở sử dụng hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch vốn tương đối phát triển của đô thị. Tại khu du lịch này, du khách còn có thể tham quan các điểm danh thắng nổi tiếng như: núi Dục Thúy, sông Vân Sàng, núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Kì Lân. Với định hướng phát triển thành phố thành đô thị loại ba, việc xây dựng các khu du lịch này, kết hợp với các sản phẩm du lịch khác ở khu vực phụ cận theo qui hoạch, trong đó xác định vị trí trọng tâm của du lịch thì trong tương lai này có thể trở thành đô thị du lịch khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết được qui định theo Luật Du lịch.
Để đạt được những mục tiêu trên, thành phố cần có qui hoạch chung phát triển đô thị bền vững, với du lịch là trọng tâm phát triển làm cơ sở cho việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vât chất, các điểm tham quan, vui chơi giải trí phù hợp, đặc biệt là hệ thống khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3 – 4 sao trở lên.
Các sản phẩm du lịch chủ yếu gồm:
- Tham quan các di tích lịch sử văn hóa
- Hội nghị, hội thảo
- Vui chơi giải trí
Bảng 2.7. Tổng hợp dự án đầu tư vào khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình
Đơn vị : triệu đồng
Tên dự án
Chủ đầu tư
Vốn đầu tư
Thời gian
XD công trình NB Complex building
CT ĐTPTTM Hoàng Phát
199.053
2005-2008
XD nhà nghỉ, dịch vụ du lịch
CTTNHH Thiên Trường An
6.450
2006-2007
XD Khách sạn, khu công viên cây xanh Hồ Biển Bạch
DNTN Minh Đức
15.490
2006-2007
XD Khách sạn tiêu chuẩn 3 sao
DNTN Hoàng Sơn
27.987
2007-2009
XD dịch vụ du lịch sinh thái và nuôi trồng thủy sản
CTTNHH Thái Thịnh
14.578
2007-2008
XD nhà hàng khách sạn và dịch vụ du lịch
DNTN Chính Tâm
13.947
2007-2008
XD khu liên hợp khách sạn nhà hàng
CTCP Long Thúy Đằng
12.500
2007-2009
XD Trung tâm vui chơi giải trí và ẩm thực Minh Phố
CTTNHH Minh Phố
79.999
2008-2010
XD Khách sạn 5 sao Quang Dũng
DNTN Quang Dũng
553.092
XD Khu nuôi trồng thủy sản kết hợp nhà nghỉ
CTTNHH Xuân Đạt
50.064
2007-2009
Tổng vốn đầu tư vào Khu
973.160
Nguồn: Phòng Thẩm định, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ninh Bình
Khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình có nhiều lợi thế hơn so với các khu du lịch khác trong tỉnh. Tuyến du lịch nội thành đã được qui hoạch đầu tư xây dựng đường xá, phố phường từ rất lâu, chính vì thế khu đã có một cơ sở hạ tầng ổn định, sẽ tiết kiệm được lượng vốn đầu tư rất lớn từ phía ngân sách tỉnh và Nhà nước. Lượng vốn đầu tư xây dựng ở đây trong giai đoạn này chủ yếu thuộc thành phần tư nhân và sản phẩm của những dự án này là khách sạn cao cấp, nhà hàng và nhà nghỉ và các khu vui chơi.
3.Khu du lịch Tam Cốc - Bích Ðộng, Tràng An, núi chùa Bái Đính và Cố đô Hoa Lư
Trong tổng thể 7 khu du lịch trọng điểm trên, động lực chính để du lịch Ninh Bình phát triển chính là khu du lịch Tam Cốc – Bích Động – Tràng An – Hoa Lư. Với đặc điểm tài nguyên nổi trội về văn hóa và cảnh quan, hiện khu du lịch này đang thu hút được một lượng lớn khách du lịch đến Ninh Bình. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn khu du lịch chính là “ Thương hiệu du lịch” của khu du lịch này đã được khẳng định. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam được thủ tướng chính phủ phê duyệt đã xác định Tam Cốc – Bích Động là một trong 17 khu du lịch chuyên đề quốc gia đầu tiên ở Việt Nam . Việc phát hiện ra các giá trị di tích lịch sử văn hóa và hệ thống các hang động (đến nay bao gồm 21 hang) tại Tràng An đã nâng vị trí và sức hấp dẫn của khu du lịch này và càng khẳng định ảnh hưởng có tính quốc gia của khu.
Nhận thấy được ý nghĩa của khu Tam Cốc – Bích Động – Tràng An – cố đô Hoa Lư trông quá trình phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt gắn với sự kiện 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, thời gian gần đây Chính phủ đã có sự quan tâm hỗ trợ đầu tư nâng cấp và phát triển hạ tầng du lịch ở khu vực này, đặc biệt là khu Tràng An. Dự án xây dựng CSHT khu du lịch Tam Cốc – Bích Động: Các hạng mục đã được đưa vào phục vụ khách du lịch như: đường, cầu, cống từ cầu Ba Vuông vào bến thuyền Đình Các. Xây dựng xong bến xe Đồng Gừng, sân Đình Các, bến thuyền cây Đa và nạo vét xong tuyến giao thông đường thủy từ Đình Các đi Tam Cốc – Suối Tiên. Đang tiếp tục thi công đường vào Bích Động, điện Thái Vi.
Dự án đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Tràng An và chùa Bái Đính: Hiện đang hoàn thiện tuyến đường trục chính từ Thành phố Ninh Bình đi chùa Bái Đính, các hạng mục còn lại cơ bản hoàn thành như: san lấp mặt bằng khu trung tâm, nạo vét các thung hang chính, hệ thống đường bộ, đường thủy của 9 tuyến du lịch trong hang động, khu vực núi chùa Bái Đính đã hoàn thành giai đoạn 1 và phục vụ thành công Chương trình Đại Lễ Phật Đản – Liên Hiệp quốc, năm 2008. Đây là tuyến đường có cảnh quan hấp dẫn, góp phần nâng cao rõ rệt vụ trí và thay đổi hình ảnh của du lịch Ninh Bình
Bảng 2.8. Tổng hợp vốn các dự án đầu tư vào khu tính đến hết năm 2008
Đơn vị: triệu đồng
Tên dự án
Chủ đầu tư
Vốn đầu tư
Thời gian
1.XD Khu du lịch Hồ trung tâm Tam Cốc- Bích Động
CTCP Du lịch Ninh Bình
2.946
2004-2005
2.XD Nhà nghỉ, dịch vụ, ăn uống khu Tam Cốc, Bích Động
CTTNHH Long Hải
3.760
2004-2005
3.XD điểm du lịch dịch vụ sinh thái Hoàng Long
CTTNHH Hoàng Long
38.581
2006-2010
4.XD Khu bảo tồn và trưng bày cổ vật Cố Viên Lầu
DNTN Minh Thoa
10.153
2007
5.XD điểm du lịch Thung Nắng- Yên Sơn
CTTNHH Bích Động
40.157
2007-2009
6.XD tổ hợp khách sạn 5 sao Tam Cốc- Bích Động
544.000
I.Tổng vốn đầu tư của dự án tư nhân
639.597
1.XDCSHT Khu du lịch sinh thái Tràng An
UBND Tỉnh
2.572.243
2004-2008
2.XDCSHT Khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính
UBND Tỉnh
814.815
3.CSHT Khu dịch vụ Khu du lịch sinh thái Tràng An
UBND Tỉnh
61.014
4.CSHT Khu công viên văn hóa Khu Tràng An
UBND Tỉnh
100.000
5.CSHT Khu Tam Cốc Bích Động
UBND Tỉnh
199.950
2001-2003
6.CSHT Tuyến du lịch sinh thái Thung Nắng- Hải Nham
UBND Tỉnh
70.133
2005-2008
7.XD Cổng phía Bắc, Đông, Nam vào Cố đô
UBND Tỉnh
24.581
2006-2008
8.Hệ thống tường bao, hào nước Khu Cố đô
UBND Tỉnh
137.521
2006-2009
9.Tu bổ, tôn tạo Khu di tích Cố đô Hoa Lư
UBND Tỉnh
40.000
II.Tổng vốn đầu tư ngân sách
4.020.257
III.Tổng vốn đầu tư vào Khu
4.659.854
Nguồn: Phòng Thẩm định, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ninh Bình
Tài nguyên của khu du lịch tương đối đa dạng và đặc sắc cả về tự nhiên và nhân văn. Các nguồn lực du lịch thế mạnh của khu vực này là: quần thể di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư, núi chùa Bái Đính, các giá trị cảnh quan, sinh thái, địa chất, hang động khu vực Tam Cốc – Bích Động – Tràng An.
Các sản phẩm du lịch quan trọng của khu:
- Văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng
- Tham quan, nghiên cứu lịch sử - văn hóa
- Tham quan danh lam thắng cảnh, khám phá hang động
Tuy nhiên cần nghiên cứu thêm để tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn, bền vững và có ý nghĩa hơn. Yếu tố cộng đồng cũng cần được xem xét thấu đáo trong việc phát triển dự án du lịch này. Quá trình đầu tư còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là hai khu Tam Cốc, Bích Động chưa thực sự được kết nối với nhau và kết nối với khu cố đô Hoa Lư để tạo ra những sản phẩm du lịch chung. Thậm chí đã bắt đầu hình thành sự cạnh tranh về loại hình sản phẩm bởi tính tương đồng quá cao và việc phân đoạn thị trường nhằm tăng cạnh tranh chung của du lịch Ninh Bình, giảm thiểu cạnh tranh nội tỉnh còn nhiều bất cập. Hoạt động phát triển và khai thác du lịch tại khu vực này còn rời rạc, chưa có sự gắn kết về sản phẩm, mô hình kinh doanh, cơ chế quản lí. Chính vì thế, khi được công nhận là khu du lịch Quốc gia, Ban quản lí sẽ được thành lập nhằm kết nối, phối hợp các họat động đầu tư, phát triển và khai thác du lịch của toàn bộ khu vực.
IV. Đánh giá tình hình đầu tư vào du lịch của tỉnh trong những năm qua
1. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch trong những năm qua
Du lịch là một nhu cầu của cuộc sống hiện đại trên toàn thế giới. Chỉ trong 10 năm, khách du lịch quốc tế đã tăng từ 350 triệu lượt năm 1985 lên 592 triệu lượt năm 1996. Thu nhập từ du lịch tính trong vòng gần 40 năm ( 1960 – 1996) đã tăng khoảng 54 lần, từ 6,8 tỷ USD lên 432 tỷ USD.
Theo xu hướng chung của thế giới cùng với sự đổi mới chính sách, ngành du lịch Việt Nam cũng đã được quan tâm và tăng nhanh về khách du lịch quốc tế. Nếu như năm 1991 chỉ là 300 ngàn lượt khách thì đến năm 1996 con số này đạt 1.600 ngàn lượt. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến Việt Nam thời kì 1990 – 1995 luôn đạt mức tăng từ 35- 40% năm.
Cùng với sự phát triển ngành du lịch cả nước, du lịch Ninh Bình cũng dần khẳng định là địa phương có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch: Năm 1992, tổng số khách du lịch đến Ninh Bình chỉ là 70.562 lượt ( trong đó có khoảng 25.000 lượt khách quốc tế) , nhưng đến năm 1994 đã đạt 162.877 lượt ( trong đó khách quốc tế là 51.796 lượt), năm 1996 thì con số này là 197.100 lượt ( trong đó khách quốc tế là 62.000 lượt và khách nội địa là 135.100 lượt).
1.1. Số lượng khách du lịch đến tỉnh trong những năm gần đây
Với tiềm năng, thế mạnh và tài nguyên du lịch phong phú đa dạng, trong những năm vừa qua UBND Tỉnh Ninh Bình đã phê duyệt kế hoạch đầu tư, phát triển xây dựng các khu du lịch trong tỉnh. Hoạt động kinh doanh du lịch phát triển một cách đáng kể, địa bàn du lịch được mở rộng, các điểm danh thắng được tôn tạo,… đã tạo được sự chuyển biến khá rõ rệt , trước hết là về số lượng khách du lịch đến Ninh Bình. Đặc biệt trong khoảng 5 năm trở lại đây ( 2004 – 2008), tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 18,3%. Đây thực sự là một điều đáng mừng đối với du lịch Ninh Bình nói riêng và cả vùng đồng bằng sông Hồng nói chung.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng cùng với việc ngành du lịch tỉnh Ninh Bình đã chú trọng nhiều hơn cho công tác tuyên truyền, quảng bá, tăng cường đầu tư cho các dự án du lịch có qui mô lớn nên lượng khách du lịch đến Ninh Bình ngày càng tăng, cả về lượng khách quốc tế cũng như nội địa. Khách quốc tế chiếm trung bình khoảng 30% so với tổng lượng khách, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt khoảng 19%. Khách nội địa chiếm tỉ trọng khoảng 70%, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm vào khoảng 18%.
Bảng 2.9. Tổng lượng khách du lịch đến Ninh Bình 2004 – 2008
Đơn vị : Ngàn người
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng lượng khách
877.343
1021.236
1186.988
1518.559
1900.888
Khách quốc tế
287.9
329.847
375.017
457.92
584.4
Khách nội địa
589.443
691.389
811.971
1060.639
1316.488
Nguồn: Cục Thống kê Ninh Bình
1.2.Sự đóng góp của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Trước đây Ninh Bình vẫn luôn xác định là một tỉnh nông nghiệp nên cơ cấu kinh tế của tỉnh là Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ. Tuy nhiên thực tế phát triển du lịch Ninh Bình trong những năm qua đã cho thấy du lịch ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Du lịch phát triển nhanh chóng có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế.
1.2.1. Tổng doanh thu của ngành du lịch và đóng góp vào ngân sách Nhà nước
Tổng doanh thu thuần túy du lịch của tỉnh Ninh Bình trong những năm qua đã có sự tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 1995, tổng doanh thu của toàn ngành du lịch mới đạt 8,55 tỉ đồng thì đến năm 2000 đã tăng 3,27 lần, đạt 28 tỉ đồng, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 1995 -2000 là 26, 78%/ năm. Đến năm 2005 (tức là 10 năm sau khi thực hiện qui hoạch phát triển du lịch), doanh thu thuần đã đạt 63,18 tỉ đồng, tăng gấp 7,39 lần so với khi bắt đầu thực hiện qui hoạch. Và đến năm 2008 thì doanh thu đã là 162,1 tỉ, tức là gấp gần 20 lần so với năm 1995. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn này đạt khoảng 17,68%/năm. Điều này được lí giải là do điểm xuất phát của du lịch Ninh Bình thấp nên giai đoạn đầu của sự phát triển tốc độ ở mức cao, nhưng những năm tiếp theo du lịch Ninh Bình mặc dù tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhưng doanh thu vẫn tăng ở mức đáng khích lệ.
Bảng 2.10. Doanh thu của ngành du lịch tỉnh 2004 - 2008
Đơn vị : tỷ đồng
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng doanh thu
51
63,18
87,997
109,012
162,1
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao - Du lịch Tỉnh Ninh Bình
Với mức tăng trưởng về doanh thu du lịch nói trên, ngành du lịch Ninh Bình cũng đóng góp đáng kể trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, trở thành nguồn vốn đầu tư góp phần phát triển những ngành khác trong tỉnh Ninh Bình nói riêng và cả nước nói chung. Tính tổng các khoản mà ngành du lịch Ninh Bình đã nộp cho ngân sách Nhà nước (bao gồm cả nghĩa vụ thuế và các khoản lệ phí khác) từ năm 1995 đến nay là 74 tỉ đồng, và mức đóng góp đó tăng lên theo từng năm.
Bảng 2.11. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của ngành du lịch tỉnh Ninh Bình
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Nộp NSNN
6,06
7,463
8,633
10,512
16,15
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao - Du lịch Tỉnh Ninh Bình
1.2.2. Giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân
Dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh đến 1/7/2008 là 573.026 người trong đó có 552.986 người có khả năng lao động. Hàng năm, UBND tỉnh phải xem xét, quan tâm và bố trí thêm cho hàng nghìn người lao động. Trong những năm qua số lượng lao động làm du lịch trên địa bàn tỉnh không ngừng được tăng lên đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm cho người lao động và giảm tỉ lệ thất nghiệp. Hàng năm giải quyết việc làm được cho 14 – 15 nghìn người lao động. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 3,5%. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn tăng lên 76,5%, tỷ lệ lao động được đào tạo tăng lên 30 %. Thu nhập bình quân của người lao động trong ngành du lịch cũng như lao động trong toàn Tỉnh được tăng lên một cách rõ rệt.
Bảng 2.12. Lao động làm việc trong ngành du lịch
Đơn vị : người
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số LĐ
6.321
6.400
6.816
7.110
7.300
LĐ trực tiếp
621
650
916
960
1.050
LĐ gián tiếp
5.700
5.750
5.900
6.150
6.250
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao - Du lịch Ninh Bình
Từ năm 2000 trở lại đây có sự tăng trưởng đột biến về lực lượng lao động trong ngành du lịch Ninh Bình. Nếu như năm 1995, du lịch Ninh Bình chỉ thu hút được 267 lao động thì đến năm 2008 con số này đã là 6.250 người, tăng 23 lần. Trong đó các doanh nghiệp trong ngành thu hút được 1.050 lao động, còn lại là lao động thuộc các thành phần dịch vụ khác. Nguyên nhân chủ yếu của sự đột biến đó là do chính sách mở cửa, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch.
Bảng 2.13. Doanh thu của các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
2005
2006
2007
2008
Tổng doanh thu của các cơ sở lưu trú
26.43
13.641
39.423
55.2
1. Thuộc Nhà nước
4.536
1.031
1.49
2.1
2. Ngoài Nhà nước:
21.894
12.61
37.933
53.1
- Tư nhân
10.873
10.406
11.041
15.4
- Cá thể
11.021
2.204
26.892
37.6
Nguồn: Cục Thống kê Ninh Bình
1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh
Mức tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua của Ninh Bình là khá cao và đã tạo cho Tỉnh điểm xuất phát thuận lợi hơn các địa phương khác trong vùng và trên cả nước. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp, xây dựng và khai khoáng trung bình đạt 23%, nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 15%, dịch vụ đạt 13%, trong đó ngành du lịch đạt mức tăng trưởng đáng chú ý là 29, 05%. Một số ngành mũi nhọn của Ninh Bình như công nghiệp chế biến, thủy sản, khai thác vật liệu xây dựng,… vẫn duy trì được mức tăng cao, qua đó đã nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh thông thoáng hơn. Cùng với công nghiệp khai thác vật liệu xây dựng, hoạt động du lịch cũng được xác định là một thế mạnh của Ninh Bình, và với mức tăng trưởng như thời gian qua có thể thấy được du lịch Ninh Bình đã có bước đi đúng. Sự quan tâm đầu tư phát triển của tỉnh cùng với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác đã góp phần quan trọng thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững.
Bảng 2.14. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế ở Ninh Bình
Đơn vị : %
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
36,72
30,89
27,53
27,08
22,4
Công nghiệp và xây dựng
29,99
35,7
38,49
39,52
43,7
Dịch vụ
32,29
33,41
33,99
33,4
33,9
Nguồn: Niên giám thống kê Ninh Bình
Phát triển du lịch có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo ra dự gia tăng của các ngành kinh tế có liên quan như thương mại, giao thông vận tải, xây dựng, sản xuất tiểu thủ công nghiệp,… Sự phát triển du lịch tạo việc làm và nâng cao thu nhập của cộng đồng người dân, qua đó từng bước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình Thực trạng và giải pháp.doc