I. Đặt vấn đề. 1
II. Giải quyết vấn đề. 3
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. 3
a. Các hình thức FDI ở Việt nam. 4
b. Tình hình FDI ở Việt nam thời gian qua. 5
2. Quan hệ kinh tế Việt nam và thành viên các nước ASEAN. 7
a. Khái quát về Hiệp hội các nước ASEAN. 7
b. Quan hệ thương mại - đầu tư Việt nam - Đông Nam Á - ASEAN. 8
c. Khu vực AFTA. 8
3. FDI của các nước ASEAN vào Việt nam - thực trạng và triển vọng. 9
a. Thực trạng: 9
a.1. Trước khi Việt nam gia nhập ASEAN. 9
a.2.Sau khi Việt nam gia nhập ASEAN. 12
b. Triển vọng: 20
b.1 Những tiềm năng trong tương lai. 21
b.2 Một số biện pháp thu hút FDI của các nước ASEAN vào Việt nam. 22
III. Kết luận và kiến nghị. 23
1. Kết luận. 23
2. Kiến nghị. 23
29 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp của các nước Asean vào Việt Nam - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng giảm sút đáng kế như Myanma là 6 %, Brunây là 4,5 % và Lào là 6,9 % và Việt nam là 6,5 %. Sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN liên quan đến sự giảm sút của các chỉ số kinh tế cơ bản khác. Sang năm 1999, kinh tế ASEAN đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu phục hồi dù vẫn còn mờ nhạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan năm 1999 sẽ ở mức -0,2 %, Philipin là 2,6%, Malayxia là -0,1 %, Xingapo là 1,9 %, Inđônênxia là -5 %. Tỷ lệ lạm phát ở Inđônêxia sẽ giảm từ 70 % xuống 15 %, Thái Lan từ 8 % xuống 3 %, Malayxia, Philipin từ 8 % xuống 4 %, Brunây, Myanma, Lào giảm từ 23 % xuống 14,5 %.
b. Quan hệ thương mại - đầu tư Việt Nam và ASEAN.
Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN vốn hình thành từ lâu đời, tuy có lúc thăng trầm nhưng nhìn chung vẫn ngày càng phát triển. Kể từ khi Việt nam ban hành luật đầu tư nước ngoài (năm1987 ) với chính sách mở cửa nền kinh tế thị trường, cả quan hệ thương mại lẫn quan hệ hợp tác và đầu tư giữa nước ta và các nước ASEAN đang được nâng lên cao hơn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với ASEAN, nếu năm 1990 mới đạt 871,5 triệu USD thì năm 1996 đã lên tới 4651,1 triệu USD bằng 533,7 % tức là bình quân mỗi năm tăng 32,2 %. Về xuất khẩu, tổng kim ngạch của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới được 339,4 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 1677,7 triệu USD bằng 494,3 % tức là bình quân mỗi năm tăng 30,5 %. Về nhập khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới đạt 532,1 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 2973,4 triệu USD bằng 558,8 %, bình quân mỗi năm tăng 33,2 %. Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam với khối lượng lớn và chiếm tỷ trọng khá so với tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta. Tính hết năm 1997, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam 376 dự án, với tổng vốn đăng ký là 8687,3 triệu USD, chiếm 16,4 % tổng số dự án và 27,5 % tổng số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Bình quân vốn đăng ký của một dự án là 23,1 triệu USD, cao gấp rưỡi mức bình quân chung 14,2 triệu USD. ASEAN có 5 nước nằm trong danh sách 20 nước và khu vực trên thế giới có qui mô đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Việt Nam, trong đó Singapo là nước đứng đầu cả khối và đứng đầu thế giới. Như vậy ASEAN là bạn hàng lớn và là chủ đầu tư quan trọng của Việt Nam, góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng khá cao của Việt Nam trong thời gian qua. Cho dù cuộc khủng hoảng đã gây nhiều tác hại song nó sẽ dịu đi, các nước ASEAN sẽ phục hồi và tăng trưởng với nhịp độ không còn như trước nhưng sẽ bền vững hơn.
c. Khu vực AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA được các nước ASEAN thoả thuận thành lập tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư ( 1992) ở Singapo. AFTA có ba mục tiêu chủ yếu như sau:
+ Thực hiện tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực.
+ Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN bằng việc tạo dựng ASEAN thành một thị trường thống nhất và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
+ Làm cho ASEAN thích ứng với các xu hướng và các điều kiện quốc tế thường xuyên biến đổi.
Tham gia AFTA, các nước thành viên sẽ có hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao hơn, khả năng thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Mặt khác, liên kết kinh tế khu vực sẽ làm tăng đầu tư nội bộ các nước ASEAN cũng như đầu tư nước ngoài vào khu vực. Mức độ hấp dẫn đối với đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên, các chi nhánh hiện có của họ trong khu vực sẽ có cơ hội bành trướng nhanh chóng sang các thành viên khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN
vào Việt Nam thực trạng và triển vọng.
a. Thực trạng
* Trước khi Việt Nam ra nhập ASEAN.
Vào những năm 80 quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN mới được thiết lập trở lại chủ yếu là quan hệ thương mại. Sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1997, các nước ASEAN mới tham gia đầu tư tuy còn dè dặt. Trừ Singapo và Malayxia, các nước còn lại tham gia vào những lĩnh vực chưa phải là những lĩnh vực được ưu tiên. Các dự án thường nhỏ cả về qui mô và chậm về tiến độ.
Với việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/1987, dòng vốn đầu tư quốc tế từ nhiều khu vực, dưới nhiều hình thức đã chảy mạnh vào thị trường Việt Nam. Điều đó dẫn đến việc Việt Nam trở thành một thị trường đầu tư hấp dẫn cả về qui mô cả về lợi thế so sánh khác như lao động và tài nguyên...
Nhiều quốc gia ASEAN đã có vị trí đáng kể trong số 10 quốc gia và lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tính đến tháng 1/1995, Singapo đứng vào hàng thứ ba và là quốc gia ASEAN có tổng dự án và vốn lớn nhất trong đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam. Các nhà đầu tư Singapo có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, 29 dự án công nghiệp, 1 dự án thăm dò, khai thác dầu khí, 11 dự án nông - lâm - ngư, 14 dự án xây dựng khách sạn, 8 dự án giao thông, bưu điện, còn lại là các lĩnh vực khác. Singapo chủ yếu đầu tư vào một số địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Sông Bé, số còn lại triển khai trên 18 tỉnh, thành khác. Ngoài 6 dự án giải thể do hoạt động không có hiệu quả, còn lại 98 dự án với số vốn đăng ký 1,37 tỷ USD, chủ yếu là hình thức liên doanh 84 %, hình thức đầu tư 100 % vốn nước ngoài chiếm 10 %, còn lại là hình thức hợp doanh 6 %. Gần 60 dự án triển khai, đưa 180 triệu USD vào thực hiện, chiếm 12 % tổn vốn đăng ký, tạo việc làm cho 7 ngàn lao động. Các dự án của Singapo có tỷ suất bình quân xấp xỉ 14,5 triệu USD cho một dự án, số dự án đã cấp giấy phép có vốn đầu tư lớn tăng dần theo từng năm. Nếu năm 1990 và 1991chỉ có hai dự án lớn ở thành phố Hồ Chí Minh thì từ năm 1992 đến tháng 6/1995, số dự án đã tăng theo cấp số nhân, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê và sân golf. Có thể kể ra như: Khách sạn Chains Caravelle vốn đầu tư 23,3 triệu USD, khách sạn Amara Saigon vốn đầu tư 30,11 triệu USD, liên doanh Đại Dương vồn đầu tư 45 triệu USD, trung tâm Mê Linh vốn đầu tư 35,72 triệu USD. Tại Hà Nội xuất hiện nhiều dự án có vốn đầu tư lớn như: Tháp trung tâm Hà Nội - HASIN International - vốn đầu tư 33,2 triệu USD, khách sạn và căn hộ cho thuê tại số 3 phố Phó Đức Chính vốn đầu tư xấp xỉ 50 triệu USD, Trấn Sông Hồng vốn đầu tư 25 triệu USD, vườn Hoàng gia - Quảng Bá vốn đầu tư trên 50 triệu USD. Số dự án trên khi đi vào hoạt động sẽ không chỉ góp phần làm thay đổi bộ mặt của riêng từng thành phố, mà còn góp phần cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong 5 tháng đầu năm 1995 số dự án và vốn đầu tư được cấp giấy phép tăng gấp đôi so với 6 tháng đầu năm 1994. Các công trình của Singapo đầu tư hầu hết vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt nam nhưng lớn nhất là vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà ở và văn phòng cho thuê. Riêng lĩnh vực này có 33 dự án với tổng vốn đầu tư 965 triệu USD, chiếm 27 % tổng số dự án và 51 % tổng vốn đầu tư của Singapo tại Việt Nam. Nhìn chung các dự án đầu tư của Singapo vào lĩnh vực khách sạn - du lịch đều triển khai khá nhanh và có hiệu quả. Tuy nhiên cũng có một số dự án còn vướng mắc trong khâu thủ tục như liên doanh Phú Thọ Enterprise ( Thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc tiến độ triển khai chậm như dự án Trấn Sông Hồng.
Malayxia là nước đứng thứ hai trong khối ASEAN đầu tư vào Việt nam với 43 dự án vốn đăng ký là 607,23 triệu USD. Họ chú trọng đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế Việt nam với 23 dự án ( chiếm 53 % so vơi tổng số dự án được cấp giấy phép ) Malayxia chỉ có 5 dự án đầu tư khách sạn với số vốn đăng ký trên 108 triệu USD, 5 dự án trong nông nghiệp với vốn đăng ký trên 6 triệu USD còn lại là các dự án trong ngành dịch vụ, giao thông, bưu điện ... Vốn đầu tư của Malayxia chủ yếu đầu tư vào tỉnh Đồng Nai, trên 256 triệu USD với 6 dự án. Nhìn chung các dự án hoạt động đều tốt, số dự án đi vào sản xuất kinh doanh đã có doanh thu 15 triệu USD đem lại công việc cho gần 900 lao động.
Thái Lan có 64 dự án, vốn đăng ký xấp xỉ 300 triệu USD. Các dự án của Thái Lan đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Nhìn chung các dự án này có vốn đầu tư nhỏ, suất đầu tư bình quân cho một dự án là 4 triệu USD, chỉ có một vài dự án có vốn đầu tư lớn như sân golf Kings Valley tại Hà Tây vốn đầu tư 21,875 triệu USD, khách sạn SAS tại Hà Nội vốn đầu tư 42,75 triệu USD. Không kể một số dự án nuôi tôm hết thời hạn hoạt động không có hiệu quả đã bị thu hồi giấy phép trước thời hạn, chiếm tỷ lệ 25 % chủ yếu trong lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản. So với cùng kỳ năm 1994, 5 tháng đầu năm 1995 số dự án của Thái Lan bị giảm hơn 50 %, vốn đầu tư giảm gần 78 %. Các dự án đi vào sản xuất đã đem lại doanh thu là 25 triệu USD, tạo việc làm cho1600 lao động.
Inđônêxia là nước đứng thứ tư trong các nước ASEAN đầu tư tại Việt Nam. Trong 9 dự án đang hoạt động tính đến thời điểm tháng 5/1995, trong lĩnh vực công nghiệp có 3 dự án, 2 dự án chế biến gỗ và trồng hoa, còn lại là 4 dự án xây dựng khách sạn, dịch vụ, giao thông vận tải và ngân hàng. Nhìn chung các dự án triển khai “ trục trặc “ do nhiều nguyên nhân như thay đổi cơ chế xuất khẩu gỗ làm dự án chế biến gỗ tại Đắc Lắc ngừng hoạt động. Trong tổng vốn đăng ký 112 triệu USD, Inđônêxia đã đưa vào 25 triệu USD chiếm khoảng 22%, tạo việc làm cho 300 lao động.
Philipin là nước đứng cuối trong số các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam, đã có 13 dự án với vốn đầu tư 74 triệu USD được cấp giấy phép. Chỉ có 2 dự án có vốn đầu tư lớn là liên doanh sản xuất ôtô Hoà Bình 33 triệu USD và dự án United Pharma 7,5 triệu USD. Số dự án còn lại có số vố đầu tư nhỏ, chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp.
Hầu hết các quốc gia đều đã ký với Việt Nam các hiệp định về xóa bỏ sự cấm đoán về đầu tư vào Việt Nam, hiệp định tránh đánh thuế hai lần và hiệp định bảo hộ đầu tư...Tuy nhiên phần lớn các dự án đầu tư của họ đều tập trung vào các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến nông - lâm hải sản, khách sạn và du lịch ... vì mục đích khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có và lao động rẻ của Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN sang các nước kém phát triển hơn theo logic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu. Các nước ASEAN dù là nền kinh tế hàng đầu trong khu vực như Singapo vẫn không thể vượt trội hơn các đối thủ có nhiều điểm tương đồng của “ công nghệ á Đông “ ở từng nấc phát triển cao hơn như Nhật Bản, NIES Đông á. Trong điều kiện quốc tế cho phép thực hiện “ mô hình phát triển rút ngắn “, Việt Nam không thể chỉ tiếp nhận các công nghệ trung bình mà Việt Nam còn tiếp nhận những công nghệ tiên tiến mà các quốc gia ASEAN chưa có hoặc chưa đủ mạnh. Do đó, tuy có vị trí đáng kể trong cơ cấu đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam các quốc gia ASEAN thời kỳ này vẫn phải nhường chỗ cho các nhà đầu tư Châu Âu, Nhật Bản ...
Nhìn chung đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ nay vẫn mang tính chất tiếp cận, thăm dò hợp theo khả năng vốn có hơn là việc hoạch định các chiến lược đầu tư lớn, cụ thể và mang tính dài hạn.
* Sau khi Việt Nam ra nhâp ASEAN.
Nếu tính đến đầu năm 1990, các nước ASEAN mới đầu tư được hơn 16 dự án với số vốn 35 triệu USD, thì sang năm 1991 đã tăng được 28 dự án với số vốn 186 triệu USD.Tính đến tháng 2 năm 1992 số dự án đã tăng lên gấp hai lần so với năm 1991 và đạt tổng số vốn 218 triệu USD. Trong hai năm tiếp theo số dự án và số vốn đầu tư của các nước ASEAN vẫn tiếp tục tăng lên với 147 dự án với tổng vốn đầu tư 1260 triệu USD đến cuối tháng 4 năm 1994.
Nhưng chỉ sau khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội ASEAN năm 1995, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam đã tăng vọt lên tới 244 dự án với số vốn đầu tư 3265 triệu USD vào đầu năm 1996, chiếm 14% tổng số dự án và 17,9 % tổng FDI của cả nước. Đến cuối năm 1996 các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt nam 292 dự án với tổng vốn đầu tư 4666 triệu USD. Đến tháng 12 năm 1997 đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN đã lên tới 362 dự án với vốn đầu tư 8634 triệu USD, chiếm 15,6 % tổng dự án và 27,6 % tổng số vốn FDI của cả nước.
Sau đây là tổng số dự án đầu tư đang hoạt động tại việt Nam ( tính từ 1/1/1989 đến 13/9/1997 ).
Chỉ tiêu
Tổngsố
Singapo
Thái Lan
Malayxia
Philippin
Inđônêxia
Số dự án
322
163
75
55
16
13
Tổng vốn đầu tư
8160,5
5352,3
1044,6
1191,9
238,7
333
Vốn pháp định
2722,2
1715,4
406,8
370,8
104,8
124,4
Vốn thực
hiện
2240,7
909,5
257,8
921,8
78
73,6
Tổng doanh thu
673,33
74,05
161,4
268,06
156,26
13,56
Tổng số lao động
27671
5051
10164
7519
4536
401
+ Singapo hiện vẫn đang là nước dẫn đầu về số dự án đầu tư: 163 dự án, trong đó:
Dự án 100 % vốn nước ngoài là 30 dự án có tổng vốn đầu tư 354,4 triệu USD vốn thực hiện đạt 85,15 % ( 301,6 triệu USD ). Trong 30 dự án này có tới 50 % số dự án mới được cấp phép, 4 dự án đã được đưa vào hoạt động đó là dự án sản xuất ngọc trai Khánh Hoà, dự án chế biến thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh, dự án sản xuất sơn Nipon, dự án sản xuất đá Granit Bình Dương ... Các dự án còn lại tập trung vào sản xuất hàng tiêu dùng như nhôm, nhựa, kẹo...ngoài ra còn có một số dự án tập trung vào sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, sắt, thép, ngói... Các dự án này bước đầu thu hút được 1593 lao động.
Với dự án liên doanh hiện có 122 dự án trong số đó có 56 dự án đã đưa vào hoạt động và có doanh thu. Trong số 56 dự án có 15 dự án đạt hiệu quả cao, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, khách sạn và sản xuất bìa catton để làm bao bì hàng hoá. Hiện nay còn 30 dự án đang được triển khai ở giai đoạn đầu xây dựng cơ bản. Số dự án còn lại chưa được triển khai hoặc mới được cấp giấy phép hoặc thủ tục hành chính còn thiếu.
Với dự án hợp doanh: gồm 11 dự án, các dự án thuộc diện này mới chỉ được đưa vào hoạt động 20 %, số còn lại xin gia hạn và tiếp tục hoàn thành thủ tục hành chính.
Singapo tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, chế xuất nông - lâm sản, khách sạn và du lịch, đặc biệt từ năm 1996 trở lại đây các dự án của Singapo đã đầu tư vào lĩnh vực máy tính, hàng điện tử, sản xuất ôtô và linh kiện phụ tùng ôtô.
+Thái Lan là nước đứng thứ hai về số dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong các nước ASEAN.
Trong 27 dự án 100 % vốn nước ngoài, 14 dự án có số vốn đầu tư từ 5 triệu USD trở lên, trong số đó có 3 dự án đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng hiện hoạt động có hiệu quả còn lại 11 dự án tập trung vào chăn nuôi, cây trồng, chế biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, lắp ráp hàng điện tử, máy tính ... 13 dự án với số vốn nhỏ hơn 5 triệu USD tập trung vào chế biến hoa quả, chế tác kim loại và trồng hoa xuất khẩu...
Trong 45 dự án liên doanh, 19 dự án có số vốn đầu tư trên 5 triệu USD, các dự án này tập trung vào khai thác dầu khí, khai thác vàng và chế tác đá quí, số dự án còn lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, khách sạn ( 60 % dự án).
3 dự án hợp doanh tập trung vào sản xuất giống ngô lai, băng hình và sản phẩm điện cơ với tổng số vốn của 3 dự án là 2,17 triệu USD.
+ Malayxia là nước đứng thứ ba trong năm nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Hiện có 2 dự án lớn nhất trong số 14 dự án có vốn đầu tư 100 % vốn nước ngoài đó là dự án Hualon Corporation Việt Nam, kéo sợi, dệt và nhuộm vải Đồng Nai với số vốn đầu tư 428 triệu USD, hiện nay đã góp vốn 20 % và đã có doanh thu từ cuối năm 1996, tiếp đến là dự án sản xuất dây điện và cáp điện thông tin với số vốn đầu tư 93,8 triệu USD, 4 dự án đã có doanh thu, đạt hiệu quả cao, 8 dự án còn lại tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến hải sản, thực phẩm ...
Trong 37 dự án liên doanh đã có 14 dự án đi vào sản xuất kinh doanh, và 2/14 dự án này có doanh thu cao là liên doanh vận chuyển, hướng dẫn khách du lịch tại Hà Nội và liên doanh sản xuất hương trừ muỗi Mosfly.
Về dự án hợp doanh, có 4 dự án trong đó 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực dầu khí.
+ Philipin.
Hiện có 8 dự án đầu tư 100 % vốn nước ngoài, trong đó 3/8 dự án tập trung vào chế biến hàng thủ công mỹ nghệ và sản xuất mây tre đan với tổng vốn đầu tư 9,425 triệu USD. Một dự án 7,5 triệu USD đầu tư cho ngành dược tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong 8 Dự án này có tới 6/8 dự án được thực hiện tại Khánh hoà và thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có một dự án về thiết bị giặt được thực hiện tại Hà nội.
Dự án liên doanh hiện có 8 dự án trong đó có 3 dự án có vốn đầu tư trên 50 triệu USD là dự án sản xuất ôtô Hoà bình với số vốn đâù tư 580 triệu USD, dự án khách sạn đại lộ Kim liên - Hà Nội - với số vốn đầu tư 71,9 triệu USD, dự án chế biến đường ở Ninh bình với số vốn đầu tư 60 triệu USD, 40 % dự án còn lại tập trung vào du lịch - khách sạn và chế biến thực phẩm.
+ Inđônêxia có tổng số 13 dự án.
Trong đó có 4 dự án 100 % vốn nước ngoài. Dự án lớn nhất với số vốn 52,6 triệu USD đầu tư sản xuất phim Fuji và máy ảnh.
Trong 8 dự án liên doanh có 2 dự án có số vốn trên 50 triệu USD là liên doanh Hotel Horison và dự án xí nghiệp liên hợp thực phẩm Vũng tàu. 3/8 dự án thuộc dự án liên doanh đầu tư vào sản xuất, còn lại tập trung vào vận chuyển tầu biển và vận chuyển hành khách, dịch vụ ngân hàng và khách sạn.
Một dự án hợp doanh với số vốn đầu tư 27 triệu USD ở Quảng Ninh về khai thác than.
+ Brunây có 1 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn 10 triệu USD, đứng cuối cùng trong các nước ASEAN đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và đứng thứ tư trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên bước sang năm 1998, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và xuất hiện nhiều cản trở của môi trường đầu tư trong nước, FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam không những giảm mạnh mà còn bị chậm tiến độ nhiều dự án đang thực hiện hoặc đã được cấp giấy phép. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong 9 tháng đầu năm 1998 chỉ có 15 dự án của các nước ASEAN được cấp phép với 803 triệu USD vốn đầu tư .
Như vậy, đến hết tháng 9 năm 1998 đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN đã tăng nhanh chóng và lên tới 377 dự án với số vốn đầu tư 9437 triệu USD, chiếm 18,4 % tổng số dự án và 27,8 % tổng vốn đầu tư của cả nước. Trong đó hơn một nửa là của Singapo với 205 dự án và vốn đầu tư là 6471 triệu USD chiếm 54,4 % tổng dự án và 68,6 % tổng vốn đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam. Số còn lại là của Thái Lan ( 78 dự án với 1106 triệu USD ), Malayxia ( 62 dự án với 1342 triệu USD ), Inđônêxia (13 dự án với 281,9 triệu USD ) và Philipin (19 dự án với 258,6 triệu USD).
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 11 tháng đầu năm 1998 vốn thực hiện của các nước ASEAN chỉ đạt khoảng 200 triệu USD, giảm tới hơn 70 % so với cùng kỳ năm 1997.
Bảng: Đầu tư của ASEAN tại Việt Nam tính hết tháng 11 năm 1998
Đơn vị: Triệu USD.
Tên nước
Số dự án
Tổng vốn
đăng ký
Tổng vốn đầu tư thực hiện
Doanh thu
Doanh thu xuất khẩu
Số lao động
Singapo
208
6512
1341
1115
118
16300
Malayxia
62
1342
1050
343
169
7800
Thái Lan
77
1110
437
335
70
5000
Philipin
19
310
100
162
11
4400
Inđônexia
13
243
95
22
01
900
Tổng
379
9517
3230
1977
369
34400
Nguồn : Bộ Kế hoạch Đầu tư
* Đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam thời kỳ này có những đặc điểm sau:
+ Về số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư:
Thứ nhất, tốc độ gia tăng về số dự án và vốn đầu tư khá nhanh, nhất là ở gia đoạn này khi Việt nam đã trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư ASEAN rất quan tâm đến thị trường đầu tư của Việt Nam và khi Việt Nam tham gia vào ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chủ đầu tư của các nước ASEAN đầu tư ở Việt Nam.
Thứ hai, số dự án loại vừa và nhỏ còn khá phổ biến, chưa có nhiều dự án đầu tư lớn vì thế qui mô bình quân của dự án chỉ đạt ở mức trung bình khoảng 25 triệu USD/ dự án ( 379 dự án với tổng số vốn đăng ký 9517 triệu USD ).
Thứ ba, Singapo ở vị trí nổi bật chiếm hơn một nửa cả về số lượng dự án và vốn đầu tư trực tiếp của ASEAN ở Việt Nam ( 208 dự án với 379,6512 triệu USD so với 9517 triệu USD ).Trong khi đó, các dự án của Malayxia và Thái Lan chỉ ở mức trung bình.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á đã làm giảm mạnh dòng vốn đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam. Hiện tượng này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN đã bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng và năng lực tài chính của họ cũng chưa mạnh.
Tóm lại, dòng vốn của các nước ASEAN vào Việt Nam tuy tăng nhanh nhưng không ổn định.
+ Về cơ cấu, lĩnh vực và hình thực đầu tư:
Nhằm khai thác lợi thế của mình các nước ASEAN chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp, khai thác dầu khí, khách sạn - du lịch, dịch vụ tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong đó, Singapo có nhiều dự án đầu tư với qui mô lớn, tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp, khách sạn và nông - lâm nghiệp với qui mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả tính toán từ số liệu thống kê của Vụ quản lý dự án đầu tư trong tổng số 379 dự án đầu tư của các nước ASEAN đang được triển khai ở Việt Nam chỉ có 136 dự án với 3725 triệu USD vào ngành công nghiệp, chiếm 36 % tổng dự án và 39,5 % tổng vốn đầu tư ở Việt nam. Trong khi đó, tỷ lệ tương tự các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là 61,6 % tổng dự án và 46,5% tổng vốn đầu tư FDI của cả nước. Số dự án còn lại chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực khách sạn, xây dựng và dịch vụ. Thực tế này phản ánh khá rõ các nhà đầu tư ASEAN rất quan tâm đến các lĩnh vực đầu tư mang tính hiệu quả nhanh và phát huy được lợi thế của họ tại Việt Nam. Mặt khác điều náy cũng bộc lộ khá rõ những hạn chế về khả năng phát triển ngành công nghiệp có kỹ thuật cao của các nước này. Đây là điểm đáng lưu ý so với các nhà đầu tư giầu tiềm năng khác ở Việt Nam như: Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc, Mỹ.
Các dự án đầu tư của các nước ASEAN chủ yếu tập trung dưới hình thức liên doanh, sau đó đến xí nghiệp 100 % sở hữu nước ngoài và số dự án hợp doanh rất nhỏ. Đặc điểm này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN còn sợ mạo hiểm, vì thế họ không muốn chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam. Tuy nhên, gần đây do các nhà đầu tư ASEAN đã quen với môi trường đầu tư của Việt Nam và xuất hiện nhiều cản trở của phía đối tác Việt Nam trong liên doanh nên tỷ lệ dự án 100 % vốn nước ngoài tăng lên và hình thức liên doanh giảm dần. Hình thức hợp doanh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số dự án. Số dự án có vốn đầu tư lớn trên 50 triệu USD còn chưa nhiều chỉ có 32 dự án, chiếm 9,9 % tổng số dự án của ASEAN ở Việt Nam. Số còn lại được phân làm tỷ lệ ngang nhau giữa qui mô trung bình ( 146 dự án ) và qui mô nhỏ ( 144 dự án ). Mặt khác, đối với các hình thức xí nghiệp 100 % vốn nước ngoài, hợp doanh thì loại dự án qui mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 51,8 % và 63,2 % theo thư tự. Tổng khi đó, loại dự án có qui mô trung bình lại chiếm tỷ lệ cao 48,2 % trong hình thức liên doanh. Đặc điểm này phản ánh các nha đầu tư ASEAN không muốn chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam.
Từ những con số thống kê ở trên có thể đi đến một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp chế biến và lắp ráp, du lịch và dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những ngành không đòi hỏi kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động.
Thứ hai, các dự án tập trung nhiều dưới hình thức xí nghiệp liên doanh, số dự án qui mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dự án đầu tư.
Vì thế các dự án đầu tư của các nước ASEAN khá phù hợp với trình độ phát triển còn thấp của Việt Nam. Tuy nhiên, xét về mặt chiến lược, tiềm năng đầu tư về kỹ thuật và tài chính của các nước này còn hạn chế trước yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam.
* Về hiệu quả thực hiện dự án đầu tư.
Thực tế triển khai các dự án đầu tư trực tiếp của ASEAN ở Việt Nam thời gian qua cho thấy tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng số vốn đăng ký còn ở mức khiêm tốn. Chuyển giao công nghệ phổ biến ở mức trung bình hoặc thấp so với trình độ công nghệ thế giới. Tuy nhiên số dự án giải thể không nhiều, đặc biệt các dự án đã mang lại những kết quả bước đầu đáng kể về tạo việc làm, doanh thu, thuế và xuất khẩu. Tính đến tháng 6 năm 1998, tổng số vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam mới được 3007 triệu USD, đạt mức bình quân 31,9 %. Trong đó, các dự án của Malayxia có tỷ lệ giải ngân cao nhất đạt 78,2%. Các nước lại đều ở mức thấp dưới 50 %, trong đó, đặc biệt là Singapo chỉ đạt 20,5 % so với tỷ lệ chung giữa vốn thực hiện trên tổng vốn FDI của cả nước. Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của ASEAN còn khá thấp so với 39,5 % mức bình quân chung của cả nước. Điều này phản ánh tính khả thi của các dự án và năng lực tài chính của các chủ đầu tư ASEAN còn chưa cao.
Bảng: Vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam (tính đến tháng 6 năm 1998 ).
Đơn vị tính: 1000 USD.
Năm
Singapo
Malayxia
Thái lan
Inđônêxia
Philipin
Cộng
1991
111
986
219
5.000
0
6.316
1992
7.178
15.608
17.582
1.050
8.881
50.299
1993
113.218
130.743
24.471
12.421
11.937
292.790
1994
143.664
280.756
20.220
8.061
14.757
467.458
1995
323.196
178.940
78.525
14.641
19.714
615.016
1996
169.674
147.687
72.288
10.921
9.291
409.861
1997
489.390
237.042
197.544
41.608
35.406
1.009.990
6/98
68.572
56.364
30.762
0
45
155.743
cộng
1.324.003
1.048.126
441.611
93.702
100.031
3.007.473
Ngu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0187.doc