Mục Lục
Mở đầu:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp
I. Khái niệm, Đặc điểm của FDI
1. Khái niệm chung về FDI
2. Đặc điểm của FDI
II. Các hình thức FDI
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
2. Doanh nghiệp liên doanh
3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
III. Vai trò và nhân tố tác động đến FDI
1.Vai trò của FDI
2.1. Đối với quốc gia đi đầu tư
2.Những nhân tố tác động đến FDI
2.2. Đối với quốc gia nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
I. Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật bản
II. Những yếu tố chi phối đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
1. Phía Việt Nam
2. Phía Nhật Bản
III.Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
1. Tốc độ đầu tư
2. Cơ cấu, quy mô đầu tư
3. Những mặt tích cực và hạn chế
Chương III: Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
I. Một số vấn đề dặt ra để thu hút FDI của Nhật Bản tai Việt Nam
1. Môi trường đầu tư
2. Tính chất toàn cầu hoà đầu tư trực tiếp của Nhật Bản rất cao nên yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng càng cao
II. Các giải pháp của Việt Nam đối với thu hút FDI của nhật Bản
1. Nhận thức đúng vai trò và địng hướng rõ ràng vấn đề thu hút FDI từ Nhật Bản
2. Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay
3. Cần tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư mạnh mẽ hơn, có trọng điểm về thị trường đầu tư về đối tác đầu tư, để các cuộc vận động đầu tư mang lại hiệu quả thiết thực
4. Hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
5. Xử lý đối với 4 loại dự án đã có
Kết luận
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2519 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý, phát huy vai trò động lực của khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại .
Việc chuyển sang kinh tế thị trường làm kích thích sản xuất hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh vốn và kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn. Nền kinh tế thị trường cũng tạo cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy một trị trường mở, đa dạng, chứa đựng nhiều lợi nhuận. Đây là nhân tố quan trọng dể thu hút vốn, kỹ thuật trong và ngoài nước.
Về chính trị, thực hiện đang cầm quyền duy nhất và đi theo đường lố dẫn dắt của đảng, mở rộng quan hệ với các nướ không phân biệt chính trị. đây là bước thay đổi cơ bản của chính phủ Việt Nam. Trong khi các nước cùng khu vực đã có bước nhảy vọt về kinh tế thì Việt Nam vẫn trong tình trạmg chậm phát triển do quan hệ dựa vào chínhtrị là chính. Vì vậy, để có thể teo kịp các quốc gia này, Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ hơn nữa, không chỉ bố buộc trong phạm vi khu vực mà trên toàn thế giới. Tại đại hội lần thứ VII, tháng 6/ 1991 Đản đề ra khẩu hệu "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ". Đảng đã thay đổi chính sách ưu tiên " quan hệ quốc tế XHCN ", coi trọng với các nước XHCN ,mà trung tâm là Liên Xô trước đây vào thực hiện chính sách ngoại giao đa phương dựa vào " quan hệ quốc tế nói chung " không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ mở rộngquan hệ kinh tế quốc tế, ổn định,có hoà bình ổn định thì kinh tế mới phát triển.
Về luật pháp, chúng ta ban hành thêm luật mới trong đó có luật đầu tư nước ngoài ban hành tháng 12/ 1987 mở ra một phương thức mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo cơ sở pháp lý đưa nền kinh tế Việt Nam vào thị trường thế giới theo luật này thì FDI là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với Việt Nam hoặc tự mình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Để sánh kịp với các quốc gia phát triển trong khu vực và đẩy mạnh quấ trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đang thay đổi mạnh mẽ để phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc thu hút đầu tư nước ngoài là rất cần thiết đặc biệt là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản. Nền kinh tế lớn của thế giới, nguồn dự trữ tài chính và có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến nhất.
Phía Nhật Bản
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các khu vực Đông nam á. Từ giữa những năm 80 bắt đầu tăng lên so với nước ngoài, hạn chế khả năng sinh lãi của chúng.Do vậy, để tồn tại và duy trì được sức cạnh tranh các công ty Nhật Bản, nhất là các công ty chế tạo xuất khẩu phải đầu tư ra nước ngoài để lợi dụng chi phí rẻ hơn.
Từ cuối những năm 70 lại đây sự xâm nhập mạnh của các hàng xuất khẩu Nhật Bản đã gây ra những bất bình sâu sắc ở các nước phát triển lẫn đang phát triển Châu á. Tâm lý tẩy tray hàng Nhật Bản và bảo hộ ngày càng nổi rõ ở những nước bạn hàng của Nhật Bản, nhất là Bắc Mỹ và EU. Do đó, tăng FDI và chuyển các cơ sở sản xuất nhất là những cơ sở chế tạo có tiềm năng khẩu cao ra nước ngoài như là một cách để Nhật Bản lẫn tránh xu hướng bảo hộ mậu dịch này.
Nhật Bản vốn vẫn phụ thuộc nặng vào các ngành nguyên nhiên liệu nhập khẩu cho các ngành công nghiệp của mình. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài để xây dựng các nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu an toàn, ổn định và rẻ là chính sách sống còn của Nhật Bản.
Thiếu lao động nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao dã bắt đầu trở thành một vấn đề lớn cho các ngành công nghiệp Nhật Bản. Ngoài việc thiếu lao động tuyệt đối là tình trạng không phù hợp của các kỹ năng trên thị trường lao động nạn thiếu lao động không lành nghề trong ngành chế tạo nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành xây dựng nghiêm trọng hơn trong ngành dịch vụ. Các công ty phải chia ngày càng nhiều lao động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động.Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, họ đã phan phối lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này.
Vào cuối những năm 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các công ty Nhật Bản gây được quỹ để đầu tư với lãi xuất thấp cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Chính Phủ, các công ty có điều kiện mở rộng kinh doanh của mình ra nước ngoài.
Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng trong khu vực Châu á. Chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm 1980 và sau này và càng nhiều laô động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy, vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động. Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, họ đã buộc phải phân bố lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này
Vào cuối những năm 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các công ty Nhật Bản gây được quỹ để đầu tư với lãi suất thấp cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Chính Phủ, các công ty có điều kiện mở rộng kinh doanh của mình ra nước ngoài
Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng trong khu vực Châu á, chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm 1990
III. Thực trạng đầu tư trực tiếp Nhật Bản vào Việt Nam
1. Tốc độ đầu tư
Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào Việt Nam chỉ sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/ 1997
Năm 1989, Nhật Bản có 4 dự án đầu tư tại Việt Nam nhưng những dự án mang tính thăm dò khảo sát trong các ngành cơ khí, chế bién thực phẩm và khách sạn. trong 9 tháng đầu năm 1994, các công ty Nhật Bản cũng chỉ tham gia vào 21 dự án với tổng số vốn đầu tư là 162 triệu USD, tới 107% so với năm 1997. Tính đến hết năm 1994, Nhật Bản đứng hàng thứ 5 trong số các nước chủ yếu đầu tư vào Việt Nam
Đài Loan 2512 (triệu USD)
Hồng Kông 2024
Singapor 1213
Hàn Quốc 1075
Nhật Bản 949
ôxtralia 678
Malaixia 618
Mỹ 517
Nguồn : Uỷ ban hợp tác đầu tư, từ 1988 - 3 / 1995
ở bảng trên cho thấytốc độ đầu tư cả nhật Bản vào Việt Nam là tương đối chậm chạp. So với đầu tư của Nhật Bản ở các nước đang phát triển khác ở Châu á thì số lượng đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam là quá nhỏ. Nếu so sánh đầu tư của Mỹ thì đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam là rất chậm, mặc dù " ccs công ty Mỹ là người đến dự tiệc sau '. Vì mãi đến tháng 2/ 1994 chính quyền Mỹ mới bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Chỉ sau 1 năm, từ 3/ 1994 - 3/ 1995, đầu tư của Mỹ ở Việt Nam đã lên tới con số 517 triệu USSD, đứng thứ 8 trong thứ tự các nước đầu tư ở việt Nam từ năm 1988, sau Đài Loan với tổng số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD, tiếp theo là Hồng Kông 2,02 tỷ USD, Xingapor 1,21 tỷ USD. Như vậy, lượng bằng hơn nữa số lượng mà các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam trong tháng 7 năm 1988 - 1994
Thời gian tiếp theo, dưới tác động của đồng yên lên giá, Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều hứa hẹn đối với đầu tư ngắn hạn của Nhật Bản, đứng thứ 6 Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Inđinôxia, Malaixia và đứng thứ 2 trong số các nước có nhiều hứa hẹn về đầu tư dài hạn chỉ sau Trung Quốc ( 1994 ). Thực tế, trong năm tài chính kết thúc ngày 31/3/1995 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam, mặc dù còn nhỏ về số lượng tuyết đối ( 176 triệu USD ) nhưng đã tăng với mức cao nhất 275% so vơí mức tăng 223% ở Philipin ( 668 triệu USD ), 174% ở ấn Độ ( 96 triệu USD ), và 52% ở Trung Quốc. Đầu tư của nhật Bản ở Việt Nam đã tăng rất nhanh vào thời gian đầu 1995 từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 3 trong quí I, rồi vị trí thứ I với 754 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 1995. Tính đến tháng 10/ 1996, Nhật Bản đã có 145 dự án với tổng số vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD, đứng thứ 4 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam, sau Đài Loan, Singapor và Hàn Quốc. Tuy vậy, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam rất nhỏ, chỉ chiếm 0,2% tổng đầu tư của Nhật ra nuớc ngoài và khoảng 0,7% đầu tư của Nhật vào Châu á, Nhật Bản mới chỉ chiếm 11% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của tất cả các nước trên thế giới vào Việt Nam. Theo báo cáo của bộ kế hoạch và đầu tư, tính từ 1/1/1988 đến hhết năm 1997, Nhật Bản đã đầu tư vào việt Nam 230 dự án với tổng số 3,215 tỷ USD và đến hết tháng 6/ 1998, đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại Việt Nam đạt 3,43 tỷ USD với 260 dự án đang hoạt động trong đó có 107 dự án 100% vốn nước ngoài ( trị giá 854,2 triệu USD ), 140 dự án liên doanh ( trị giá 2,18 tỷ USD ) và 15 dự án hợp doanh ( trị giá 401 triệu USD ).
Mặc dù số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng , nhưng nếu so sánh giữa các nước có nhiều triển vọng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản thì Việt Nam còn thua xa các nước khác. Theo thống kê của ngân hàng eximbank - Nhật Bản, năm 1996 có 4 nước thành viên ASEAN là Thái Lan, Inđinoxia, Malaixia và Philipin là các nước hấp dẫn hàng đầu dối với 361 công ty của Nhật trong đó Thái Lan ( 120 công ty ), Inđinôxia ( 119 công ty ), ấn Độ ( 113 công ty ), Mỹ ( 112 công ty ) Việt nam dứng vị trí hàng cuối cùng ( 87 công ty ) còn Trung Quốc là được các công ty của Nhật đặc biệt chú ý ( 240 công ty ).
Với nền kinh tế đứng ở vị trí thứ hai trên thế giới sau Mỹ vậy mà số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật vào Việt Nam còn rất hạn chế. Nguyyen nhân nào dẫn đến các công ty Nhật Bản chậm chạp trong hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Nếu như môi trường đầu tư của Việt Nam kém phát triển thì tại sao các nền kinh tế khác Nhật Bản như Đài Loan, Hồng Kông, Singapor và Hàn Quốc lại đầu tư nhanh và nhiều hơn Nhật Bản. Hay do Nhật Bản không đủ mạnh về kinh tế . Một số lý do sau đây sẽ lý giải các câu hỏi trên.
Thứ nhât, do bị chi phối bởi lệnh cấm vận ở Việt Nam, dù sao lợi ích kinh tế của Nhật Bản cần gắn liền và phụ thuộc vào chến lược kinh tế của Mỹ.
Thứ hai, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản vẫn còn hạn chế và mới chỉ thực sự được cải thiện, thúc đẩy sau chiến thăm chính thức của thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt sang thăm đầu năm 1993. Do vậy hạn chế trong quan hệ cũng góp phần hạn chế đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài lúc nào và ở đâu cũng là một cuộc cạnh tranh quyết liệt về việc thu hút vốn đâù tư của các nước trên toàn thế giới, các nền kinh tế mới công nghiệp hoá mới, các nước ASEAN và Trung Quốc luôn là đối thủ cạnh tranh nhau quyết liệt trong việc thu hút vốn đaàu tư của Nhật Bản. Trong khi môi trường đầu tư nước ngoài rõ ràng hơn hản ở Việt Nam cho đến nay, không chỉ có các nhà đầu tư Nhật Bản, mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác nói chung vẫn còn kêu ca, phàn nàn về hệ thống hạ tầng cơ sở ( đường xá, cầu cống ) càng yếu kém, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và giá nhà dất cho thuê quá đắt mặc dù luật đầu tư ở Việt Nam tự do hơn ở các nước khác, nhưng lại thiếu một hệ thống hành chính hoàn chỉnh để thực hiện luật .
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu á đã tác động đến các nền kinh tế trong khu vực, gây bất ổn định khiến các nhà đầu tư vào các khu cực khác an toàn hơn cuộc khủng hoảng này làm cho các nền kinh tế lớn của khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến khó khăn về tài chính. Thêm nữa là đồng yên Nhật bị giảm giá đã kích thích các nhà đầu tư quan tâmđến lợi ích thị trường trong nước. Phía Việt Nam tuy không ảnh hưởng trực tiếp của cu\ộc khủng hoảng nhưng cũng gặp khó khăn và chậm chạp trong việc giải ngân vốn nước ngoài, mà một nửa vốn nhưa được giải ngân lại nằm trong các dự án phát triển bất động sản ( khách sạn, nhà hàng, du lịch..) từ những khó khăn do cuộc khủng hoảng gây ra nên đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong hai năm 1997 - 1998 so với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam các năm trước đó giảm nhiều mặc dù năm 1997 Nhật vào Việt Nam các năm trước đó giảm nhiều mặc dù năm 1997 Nhật Bản đứng thứ hai về số dự án đầu tư ở Việt Nam ( sau Đài Loan 64 dự án ) và đứng thứ hai về tổng số vốn đầu tư (sau Hồng Kông gần 695 triệu USD ) với 54 dự án và gần 606 triệu USD bước sang năm 1998, chỉ tính riêng năm tháng đầu năm, đầu tư nước ngoài của các nước châu á nói chung cũng như của Nhật bản nói riêng vào các thành phố lớn của Việt Nam đều giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong năm 1998 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ còn 138 triệu USD với 13 dự án.
Tuy nhiên khi nền kinh tế ổn định trở lại, chắc chắn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tăng lên một cách đáng kể và sẽ dẫn đầu trong 10 các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
2. Cơ cấu, quy mô đầu tư
Thời gian đầu Nhật Bản chủ yếu đầu tư trong các nghành cơ khí, chế biến thực phẩm và khách sạn. Tính đến 1994, Nhật Bản đầu tư cao nhất là hai lĩnh vực là dầu khí ( 9,4% ) và khách sạn du lịch ( 9,4% ) dưới đó là các nghành dịch vụ ( 4,7% ), công nghiệp ( 4,6% ) và ngư nghiệp đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam không chỉ thấp về mức vốn mà còn qui mô dự án .
Bảng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Lĩnh vực đầutư
Dự án
Tổng số vốn ( triệu USD )
% của Nhật Bản trong tổng số vốn
Tổng số
Nhật Bản
Tổng số
Nhật Bản
Công nghiệp
492
40
3838,2
175,4
4,6
Dầu khí
25
4
1284,9
121,4
9,4
Nông lâm nghiệp
75
5
385,8
7,7
2,0
Ngư nghiệp
20
-
60,4
-
-
Giao thông vận tải
Bưu điện
21
-
636,8
-
-
Khách sản, du lịch
104
5
1954,1
9,4
Dịch vụ
127
12
729,6
4,7
Tài chính ngân hàng
15
-
176,6
-
Các ngành khác
930
-
1647,6
-
Tổng số
930
66
9554,0
5,5
Nguồn : Nguyễn xuân Trình, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu tư
So với tổng số vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đầu tư Nhật Bản chỉ chiếm 5,5% trong cả thời kỳ 1988 đến 1994. Sau đó đầu tư của Nhật Bản đã dần dần mở rộng ra lĩnh vực khach như chế biến thực phẩm, điện tử và khai thác dầu khí. Các công ty Nhật Bản đã thành lập 11 liên doanh chế biến thực phẩm để xuất khẩu sang Nhật Bản và chuyển một phần cơ sở chế biến từ Thái Lan sang Việt nam. Sở dĩ Nhật Bản thường đầu tư vốn nhỏ vào Việt Nam là vì cho mãi đến tháng 2/ 1994, sau khi Mỹ đã xoá bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam thì Nhật Bản vẫn còn ở trong giai đoạn xem xét, thăm dò, họ chưa thực sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Đa số các dự án vốn đầu tư nhỏ đều sử dụng nhiều lao động mà không có sự khác biệt về chất lượng công nghiệp Việt Nam và công nghiệp Nhật Bản, trong khi giái thành lao động của công nghiệp Việt Nam rất rẻ. Điều đó chứng tỏ Nhật Bản rất quan tâm đến nguồn lao động tiền lương của Việt Nam.
Theo số liệu của vụ Quản lý dự án, bộ kế hoạch và đầu tư, tính 31/ 12/ 1998 thì thấy rằng, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã bắt đầu có sự đa dạng trong các nghành được đầu tư. Với những nghành có số dự án cao trong thời gian đầu đến nay đã có nhiều dự án về các nghành khác xuất hiện, chủ yếu tập chung vào lĩnh vực công nghiệp then chốt như điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất xi măng và thép. Cơ cấu nghành nghề được điều chỉnh theo lương ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp then chốt.
Bảng đầu tư của Nhật vào Việt Nam theo nghành ( tính dến 31/ 12/ 1998)
Nghành
số dự án
Tổng số vốn
vốn thực hiện
Công nghiệp nặng
96
1784
645
Công nghiệp dầu khí
4
131
40
Xây dựn hạ tầng KCN - KCX
1
53
14
Công nghiệp nhẹ
51
250
168
Công nghiệp thực phẩm
14
52
25
Nông lâm nghiệp
16
51
19
Khách sạn, du lịch
7
128
45
Xây dựng văn phòng, cán bộ
13
173
76
Giao thông vận tải, bưu điện
17
405
41
Xây dựng
18
421
95
Văn hoá - y tế - giáo dục
6
34
9
Thuỷ sản
4
14
11
Tài chính - ngân hàng
2
21
15
Nguồn : Báo đầu tư
Về hình thức đầu tư, Việt Nam tiến bộ hơn một số nước khác trong khu vực về hình thức đầu tư vì Việt Nam có quy định cả hình thức đầu tư theo phương pháp hợp đồng hợp tac kinh doanh, trong khi đó các nước khác như : Myama, Lào, Campuchia... thì không có. Trong số các dự án đầu tư của Nhật Bản, có tới 42% là các dự án theohình thức 100%. Mạc dù vốn thực hiện của nhóm dự án này mới đạt khoảng 250 triệu USD, nhưng doanh thu đạt khá lớn ( khoảng 576 triệu USD ). Điều này chứng tỏ hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có hiệu quả rất cao và hình thức đầu tư được các nhà đầu tư Nhật Bản ưa thích bởi tính độc lập, khả năng kiểm soát và hướng toàn bộ lợi nhuận. Hình thức này chủ yếu là các dự án đầu tư vào sản xuất hàng tiêu dùng và lĩnh vực dịch vụ. Nhóm các dự án liên doanh chiếm khoảng 52% số dự án và 62% tổng số đầu tư, với tổng số vốn thực hiện đạt 911 triệu USD và doanh thu khoảng 870 triệu USD. Như vậy, hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện của các nhóm dự án này đạt 90% chủ yếu là các đa chế biến công nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Hình thức còn lại là hợp đồng hợp tac kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các dự án thăm dò khai thác dầu khí. Việt Nam đang khuyến khích doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào những nghành, lĩnh vực cao và có định hướng xuất khẩu.
Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng đã có chuyển biến tích cực. Thời gian đầu, đầu tư vào nước ngoài chủ yếu vào các tỉnh phía Nam, đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều có dự án đầu tư nước ngoài, các tỉnh phía bắc đã tập trung được gần 29% số dự án với 39% vốn đầu tư. Riêng thành phố Hồ Chí Minh tập chung được nhiều dự án cũng như vốn dầu tư nước ngoài nhiều nhât, với hơn 90 văn phòng đại diệ của các hãng và ngân hàng Nhật bản, ở Hà Nội có khoảng 60. Đặc biệt là những năm gần đây, có nhiều dự án lớn vào cơ sở hạ tầng như khu chất xuấy Tân Thuận, Linh Trung, dự án bắc nhà bè - Nam Baình Chánh, dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An. Tuy nhiên, đến năm 1997, tổng số vốn đầu tư nươc ngoài vào thành phố Hồ Chí Minh bị chững lại và có phần suy giảm. Năm 1997, tổng số vốn đầu tư chưa bằng một nửa của năm 1996, chiếm khoảng 1,3 tỷ USD. Đầu tư vào Hà Nội, trong tháng năm đầu của 1997 mặc dù có tăng về số dự án ( 21 dự án ), nhưng số vốn không cònvào ồ ạt như trước nữa. trong số 21 dự án, chỉ có một dự án lắp ráp xe máy Yamaha Co, của Nhật Bản là cos vốn đầu tư nhiều nhất ( 80 triệu USD ), còn lại các dự án khác đều có giá trị dưới 10 triệu USD. Năm 1996, Nhật Bản có 31 dự án với 342 triệu USD vốn đầu tư vào Hà Nội, đứng thứ hai về số dự án ( sau Hồng Kông ) và đứng thứ 5 về vốn đầu tư ( sau Hàn Quốc 744 triệu USD, Singapor 586 triệu USD, úc 399 triệu USD, Thuỵ Điển 387 triệu USD ).
Quy mô trung bình của các dự án đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đến năm 1994 là 4 triệu USd cao hơn một chút so với quy mô trung bình 3,5 triẹu USD của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam năm 1998 và thấp hơn một nửa quy mô trung bình của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam tính đến năm 1994, với giá trị mỗi dự án là 10 triệu USd. Trong số những dự án này, có nhiều dự án chỉ sử dụng nhiều lao động chứng tỏ các dự án này mang tính chất thăm dò vì đối với các nhà đầu tư vào Nhật Bản, Việt Nam là thị trường có độ rủi do cao.
Với sự trở lại của các công ty lớn ở Việt Nam trong các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo đã được đầu tư quy mô lớn. Ví dụ : Công ty Misubitsi cùng với các cômg ty yokohama Rubber Co và một công ty Việt Nam với dự án đầu tư ước tính khoảng 60 triệu USD sẽ sản xuất lớp xe ô tô, sản xuất và lắp ráp ô tô, công ty Naruberi quan tâm đến các dự án về cơ sở hạ tầng như mỏ than Hồng gai, khai thác dầu và trạm điện ở Phú Mỹ và Phả Lại, dự án xây dựng xi măng Hoành Bồ và Hoàng Thạch, nhà máy sản xuất mỳ ăn liền, dịch vụ vận tải, nhà máy dệt và các máy móc xây dựng cho thuê.
Tính đến tháng 10 năm 1996, quy mô dự án lớn nhất của Nhật Bản là xây dựng nhà máy xi măng Nghi Sơn với tổng số vốn lên tới 317 triệu USD ký kết với Mitsubisi Co., dự án xây dựng nhà máy ô tôToyota ở Mê Linh và dự án khu công nghiệp Nomura ở Hải Phòng. Hiện nay, hai dự án đầu tư của Nhật Bản đã đi vào hoạt động tại Đồng Nai là công ty Shirassaki và công ty máy tìnhuiisu Việt Nam là hai công ty hoạt động đầu tiên của đầu năm 1999 trong các dự án đầu tư nước ngoài và Fugisu Việt Nam có dự án đầu tư với vốn lớn nhất trong 27 dự án của Nhật tại Đồng Nai.
Hầu hết các tập đoàn công nghiệp lớn Nhật bản đã có vốn đầu tư tại Việt Nam như Mitsubishi, Sony, Nissho, Toyota, Honda, Suzuki... Ngoài các ngân hàng lớn của Nhật Bản như ; ngân hàng Tokyo, ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, ngân hàng Fugitsu cũng có mặt tại Việt Nam. Như vậy là các tổ chức kinh tế - tài chính này đã tìm thấy những lợi nhuận và thuận lợi trong kinh doanh ở Việt Nam nên băt đầu chú trọng đầu tư.
Có thể nói đến thời điểm này chúng ta mới có những nhận xét chính xác trong việc đánh giá cơ cấu ddầu tư nước ngoài cảu Nhật Bản vào Việt Nam theo vùng, lãnh thổ. ậ thời kỳ đầu, đầu tư nước ngoài của Nhật Bản tập chung chủ yếu vào các tỉnh phía Nam, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh và các dự án khai thác dầu khí ở vũng tàu. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có đã có rải rác cácdự án đầu tư nước ngoài của Nhật Bản, các tỉnh phía Bắc tập trung được 20% tổng số các dự án, chiếm khoảng 40% trong tổng vốn đầu tư.
Một số dự án đầu tư của Nhật tại Việt Nam
Tên dự án
Địa phương
Mặt hàng sản xuất
Vốn đầu tư
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long
Hà Nội
Xây dựng cơ sở hạ tầng
54 triệu USD
Liên doanh Toyota VN
Vĩnh Phúc
Xe ô tô
90 triệu USD
Liên doanh Sony VN
Tân Bình
Hàng điện tử
17 triệu USD
Liên doanh Thăng Long - Ton
Hà Nội
Xây dựng nền móng
3,5 triệu USD
Nhìn lại tình hình đầu tư
Fuitsu
Đồng Nai
Linh kiện điện tử máy tính
198,8 triệu USD
Goshi - Thăng Long
Hà Nội
Phụ tùng xe máy
13,7 triệu USD
Liên doanh Yamaha Co
Hà Nội
Lắp ráp xe gắn máy
80 triệu USD
Việt Nam đang tiếp tục nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Nhật làm ăn lâu dài và ổn định ở Việt Nam. Mặc dù nằm ngoài phạm vi của cơn bão nhưng những tá động của có đã ảnh hưởng ít nhiều đến các hoạt động đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Theo đánh giá của nhũng nhà chuyên môn, năm 1998 khối lượng vốn FDI của Nhật Bản vẫn đỏ vào Việt Nam là bởi lý do: các dự án dài hạn vẫn đang trong thời gian hoạt động và đương nhiên Nhật Bản vẫn phải tiếp tục theo đuổi những dự án đó đến cùng. Việt Nam cũng mong muốn Chính phủ Nhật Bản tăng cường bảo hiểm và đầu tư khuyến khích các công ty Nhật mở rộng quy mô đầu tư nhất là trong các lĩnh vực khác tài nguyên, đóng tàu, luyện thép, sản xuất xe máy, xăm lốp ô tô, hoá dầu, phân bón, vật liệu xây dựng, điện tử. Chúng ta mong muốn phía Nhật Bản tăng thêm tỷ lệ đầu tư cho ngành nông nghiệp .
Và phát triển nông thôn và tăng cường việc chuyển giao công nghệ
Năm 1999, cùng với xu thế chung của các đối tác trong khu vực,đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam tụt xuống đứng hàng thứ 9 trong các nước đầu tư vào Việt Nam ( chỉ có 13 dự án trong năm với tổng số vốn là 46,97 triệu USD ). Trong 10 tháng đầu của năm 2000, Nhật Bản đã đầu tư thêm vào Việt Nam 19 dự án với số vốn là 56,348 triệu USD, nâng tổng số dự án cho đến tháng 10 năm 2000 của Nhật Bản vào Việt Nam là 227 dự án vơi tổng số vốn là 3582 triệu USD. Mức độ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã dần tăng lên, tuy nhiên so sánh với giai đoạn trước thì có lẽ đay mới chỉ là bước khởi đầu trở lại của tiến trình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam .
Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ( 1998 - 2000 )
Tính đến năm
Số dự án được cấp gấy phép
Tổng số vốn đầu tư ( USD )
1998
211
3.550.000.000 USD
1999
212
3.570.940.000 USD
Tháng 10 năm 2000
227
3.852.000.000 USD
Với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, Việt Nam vẫn được xem là một nước có nhiều tiềm năng khai thác đối với nhiều công ty Nhật. Theo đánh giá của Chủ tịch Uỷ ban hỗn hợp Viêt - Nhật, đồng thời là chủ tịch tập đoàn Sumitomo Keidanren, ông Kẹni Miyahara, Việt Nam đã rất nổ lực trong việc hạn chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Tuy nhiên, những nổ lực này cũng không tránh khỏi xu thế chung của toàn khu vực là việc nguồn vốn dầu tư nưóc ngoài bị giảm sút. Theo ong Miyahara, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh, " Cơn bão tiền tệ rồi cũng qua đi. Vì vậy Việt Nam cần phải chuẩn bị tốt hơn nữa để đón nhận làn sóng đầu tư mới của Nhật Bản của các nước khác". Nhiều doanh giai Nhật Bản đánh giá khu vực Châu á, trong đó có Việt Nam vẫn là khu vực đầu tư sản xuất lý tưởng và họ sẽ không bỏ cơ hội này.
3.Tích cực và hạn chế
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay dổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt được mới là bước đầu, nhưng rất quan trọng, nó là sự mở đầu ttót đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh té chung của khu vực thế giới. Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nổ lực của bản thân tất nhiên là nhân tố chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62745.doc