Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI TỈNH HƯNG YÊN 2

1.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tại tỉnh Hưng Yên có ảnh hưởng đến hoạt động FDI. 2

1.1.1.Vị trí địa lý, địa điểm đầu tư. 2

1.1.2. Đặc điểm kinh tế - nguồn nhân lực. 4

1.1.3. Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng - dịch vụ đầu tư. 8

1.2.Thực trạng đầu tư trực tiếp(FDI) tại tỉnh Hưng Yên. 19

1.2.1. Tình hình thực hiện vốn FDI giai đoạn 2003 - 2009. 19

1.2.2. FDI của tỉnh phân theo ngành. 21

1.2.3. Tình hình FDI của tỉnh phân theo hình thức đầu tư. 24

1.2.4. FDI phân theo các đối tác. 24

1.3. Đánh giá thực trạng. 25

1.3.1.Kết quả. 25

1.3.2 Những hạn chế, tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. 41

CHƯƠNG II: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ FDI Ở HƯNG YÊN. 45

2.1. Mục tiêu, phương hướng thu hút FDI trong thời gian tới 45

2.1.1 Cơ sở định hướng. 45

2.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của FDI trong thời gian tới. 46

2.2 Giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả FDI tại Hưng yên. 47

2.2.1. Tiếp tục đổi mới nhận thức với FDI. 47

2.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế chính sách. 48

2.2.3 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. 51

2.2.4 Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư. 53

2.2.5 Xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật. 55

2.2.6 Mở rộng các hình thức thu hút và vận động đầu tư. 56

2.2.7. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao chất lượng người lao động hoạt động trong khu vực FDI. 57

2.2.8 Một số vấn đề khác. 58

KẾT LUẬN 61

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: công ty TNHH Dos- tex Việt Nam,công ty TNHH RFTECH Việt Nam, công ty TNHH ace Vina, công ty TNHH Yo won NRT, công ty TNHH Shin Yong… hầu hết các công ty theo hình thức này đều là công ty TNHH 1 thành viên với các ngành nghề mới nhiều tiềm năng khai thác tại 1 địa bàn nhiều thuận lợi với đặc điểm sản xuất của công ty. 1.2.4. FDI phân theo các đối tác. Tính đến hết năm 2009 , Hưng Yên đã cấp phép cho 36 dự án với tổng số vốn đầu tư là 146,285 triệu USD. Trong giai đoạn 2003-2009 , đầu tư nước ngoài được đánh giá là có tăng trưởng nhưng tốc độ không cao nhưng hoạt động của các dự án khả quan.Hưng Yên đã thiết lập mối quan hệ với rất một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Bảng 4: Các chủ đầu tư lớn của Hưng Yên giai đoạn 2003-2009 STT Tên quốc gia Số dự án Vốn đầu tư(Triệu USD) Tỷ trọng(%) 1 Singapore 4 16,253 11,1 2 Nhật Bản 8 28,4 19,4 3 Hàn Quốc 9 36,57 24,9 4 Đài Loan 3 12,2 8,3 5 Trung Quốc 4 21.3 14.56 6 Thuỵ Điển 2 7.8 5,3 7 Các nước khác 6 23.762 16,24 Tổng 36 146,285 100 Như vậy, các chủ đầu tư lớn của Hưng Yên đều nằm trong khu vực châu á.Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn đứng đầu trong tổng số vốn đầu tư vào Hưng Yên, ưu đãi đầu tư tại địa phương thuận lợi, nguồn nhân công rẻ là những yếu tố cần thiết đối với các quốc gia này. Đối với các nước khác Hưng yên vẫn là tỉnh còn mới nên chưa dám mạo hiểm đầu tư dẫn tới số lượng đầu tư ít 1.3. Đánh giá thực trạng. 1.3.1.Kết quả. Trước tiên, chính sách mở cửa thu hút vốn FDI đã kịp thời bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, bổ sung đáng kể vào nguồn vốn đầu tư phát triển.Đến năm 2009, khu vực FDI của Hưng Yên đã đóng góp được 146,285 triệu USD cho vốn đầu tư phát triển. Cùng với sự ra tăng nguồn vốn FDI vào Hưng Yên, các nguồn vốn trong nước cũng gia tăng mạnh mẽ, mặc dù FDI tăng về lượng nhưng tỉ trọng FDI /tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại giảm dần.Điều này chứng tỏ việc huy đông FDI đã tác động tích cực đến việc huy động vốn từ các nguồn khác, đặc biệt là vốn đầu tư của khu vực trong nước. FDI đặc biệt có hiệu quả trong lĩnh vực công nghiệp, đây là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất và cũng là ngành có vốn hiệu lực cao nhất.Vì vậy, mặc dù FDI trong các ngành khác có hiệu quả kém, nhưng toàn bộ khu vực FDI vẫn đạt hiểu quả cao hơn các khu vực khác trong nền kinh tế. Hiệu quả của khu vực FDI trong lĩnh vực này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hưng Yên theo hướng CNH – HDH. FDI có hiệu quả trong việc thực hiện chiến lược về xuất khẩu.Giá trị xuất khẩu của khu vực FDI trong giai đoạn này tăng ngoạn mục ngay cả trong những năm Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm (sau khủng hoảng khu vực,hàng loạt các quốc gia châu á bị phá giá đồng tiền và thu hẹp nhập khẩu)và hiện các quốc gia này chiếm gần 40% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Với luồng vốn FDI đã giúp Hưng Yên tiếp cận với nhiều khu vực thị trường bên ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu.Bên cạnh việc tạo ra nhiều giá trị xuất khẩu, luồng vốn FDI vào đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Các doang nghiệp trong khu vực FDI ở Hưng yên đã nộp vào ngân sách Nhà nước hàng triệu USD, góp phần tăng nguồn thu ngân sách. FDI cũng đã mang lại những công nghệ mới, tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Vốn FDI còn góp phần tạo việc làm cho hàng vạn lao động, đào tạo và nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân lao động tại địa phương, tạo cho họ tác phong công nghiệp. FDI cũng góp phần thúc đẩy cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. FDI đã góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế so với lượng vốn đầu tư hàng năm khoảng hơn 20 triệu USD vào Hưng yên, FDI đã tích cực tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, sự gia tăng FDI còn có tác dụng thúc đẩy các nguồn vốn trong nước tăng theo, cả hai điều nay làm gia tăng GDP. Tính từ năm 2003 đến năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của các doang nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên, năm 2009 đạt 32,6 triệu USD, chiếm khoảng 30,2% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hưng yên. Sản phẩm xuất khẩu mang tính chiến lược của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là: Ti vi nguyên chiếc, linh kiện xe gắn máy, các sản phẩm may mặc, giầy da và hàng thủ công mỹ nghệ… Chúng ta nhận thấy rằng cần thu hút hơn nữa FDI đầu tư vào Hưng yên để tạo một động lực cho phát triển kinh tế xã hội tỉnh nhà. Khi kêu gọi FDI, có những vấn đề mà chúng ta cần phải khắc phục hơn nữa đó là: Tăng cường các biện pháp để nâng cao hơn số dự án cũng như chất lượng của từng dự án, để tránh tình trạng như hiện nay các dự án đầu tư FDI tập trung vào các tỉnh thành phía Nam tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp, cần nâng cao hơn tỷ trọng này đến một mức hợp lý đủ để kích thích kinh tế Hưng yên cũng như không để có sự lấn át của FDI đối với đầu tư trong nước dẫn tới sự khó khăn trong qua trình kiểm soát dòng vốn FDI, khuyến khích hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng lao động của Hưng yên nhằm thực hiện mục tiêu việc làm cho dân số Hưng yên. Khoảng cách về khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn. Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát từ những nước công nghiệp phát triển, do đó để đuổi kịp các nước phát triển, các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận kỹ thuật mới này. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể cuả mình mỗi quốc gia phải đối mặt và tìm ra cách đi riêng để thay đổi theo thời gian. Đối với những quốc gia có trình độ công nghệ cao hơn, thể hiện năng lực công nghệ nội sinh là khá mạnh và đang chuyển từ kỹ thuật cải tiến sang công nghệ tiên tiến, thậm chí chuyển từbắt kịp công nghệ sang đột phá công nghệ trong một số lĩnh vực công nghệ có lợi thế. Các nước khác còn đang ở mức thang công nghệ thấp, do năng lực công nghệ trong nước còn nhỏ bé thì phải dựa vào nhiều nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, coi đó là nguồn chuyển giao công nghệ chủ yếu. Trên thực tế, các kênh chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhập khẩu máy móc thiết bị, các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhã hiệu hàng hoá và các hợp đồng chìa khoá trao tay… Trong điều kiện hiện nay của Việt nam đầu tue trực tiếp nước ngoài là một kênh chuyển giao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Qua hợp tác nước ngoài, thới gian qua chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong nhiều nganh quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí, xi măng, sắt thép, điện tử, sản xuất ô tô, hoá chất, nông nghiệp…, đặc biệt cá công nghệ viễn thông, khai thac dầu khí, sản xuất lắp ráp thiết bị điện tử, hệ thống dịch vụ khách sạn đã vươn lên ở mức tiên tiến sánh ngang cùng các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Với những đóng góp tích cực vào công cuộc tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, FDI đã góp phần tạo thế và lực mới cho nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như điạ phương. Hoạt động thu hút và sử dụng FDI luôn là một trong những chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia. Bảng 5: Trình độ công nghệ, thiết bị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hưng yên. (tính theo giá trị) STT Chỉ tiêu Tỷ lệ % 1 Công nghệ tiên tiến 38 2 Công nghệ trung bình 57 3 Công nghệ lạc hậu - 4 Thiết bị mới 89 5 Thiết bị đã qua sử dụng (trên 70%) 57 6 Thiết bị cũ 12 7 Thiết bị lạc hậu 9 Nguồn: Sở Khoa học công nghệ Hưng yên Với những gì thể hiện trong bảng, chúng ta cũng có thể thấy một điều đáng mừng cho các doanh nghiệp có vốn FDI tại Hưng yên. Công nghệ tiên tiến và thiết bị mới được các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số kỹ thuật hiện đại đang dược sử dụng để sản xuất. Cho dù các công nghệ và thiết bị này có thể không còn mới đối với các nước phát triển và phát triển hơn, nhưng đã làm thay đổi bộ mặt trình độ lao động của công nhân Việt nam nói chung và của Hưng yên nói riêng. Với những công nghệ và thiết bị được gọi là tiên tiến đối với nước ta này, dần dần đội ngũ lao động sẽ thích nghi, nắm bắt trau dồi và phát triển cho kịp với trình độ chung của các nước phát triển trên thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hưng yên đã đáp ứng khá nhiều những yêu cầu đòi hỏi của Hưng yên trong việc nâng cao cải thiện và chuyển giao công nghệ. Theo kết quả điều tra của Viện phát triển Đức trên các doanh nghiệp FDI trong 3 ngành điện tử, may mặc và chế biến lương thực thì đào tạo lao động là công việc khá phổ biến, tuy nhiên mức độ có khác nhau giữa các ngành đào tạo lao động quản lý thường khá phổ biến trong cả đào tạo chính quy, ví dụ như ngoại ngữ, kế toán doang nghiệp và kỹ năng máy tính. Trong cả 3 ngành công nhân được đào tạo tại chỗ. Ngành chế biến lương thực và điện tủ còn có thêm hình thưc đào tạo chính quy cho công nhân. Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra việc làm, mang lại thu nhập đáng kể cho người lao động, góp phần làm tăng sức mua cho thị trường. Lương bình quân của lao động Hưng yên trong khu vực FDI khoảng 1triệu đồng/người/tháng. 1.3.1.1 Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế tỉnh. Một trong những lợi ích quan trọng của nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là các khoản nộp thuế.Trong thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Hưng Yên giai đoạn 2003 – 20009, thuế trực tiếp thu từ các công ty nước ngoài có xu hướng ngày càng tăng và có tỷ trọng cao trong tổng giá trị thuế ở Hưng Yên. Nếu năm 2003 giá trị thuế thu được từ khu vực ĐTNN là 13 tỷ đồng thì sau đó tăng lên 40 tỷ vào năm 2006 và đạt hơn 100 tỷ vào năm 2009. Nhìn chung, giá trị thuế từ các công ty nước ngoài chủ yếu từ các ngành may mặc, ngành chế tạo thu được rất ít thuế.Nguyên nhân chủ yếu là các công ty nước ngoài trong ngành chế tao được hưởng nhiều ưu đãi miễn giảm thuế. Tuy nhiên qua các năm thuế trực tiếp từ các công ty nước ngoài có xu hướng tăng dần cho đóng góp cho nền kinh tế.Năm 2003 giá trị thuế thu được từ các công ty nước ngoài chiếm 1/4 tổng giá trị thuế thu được từ ngành công nghiệp thì sau đó tăng lên chiếm 1/3 vào năm 2009. Như vậy các công ty nước ngoài đã đóng góp phần thuế khá lớn trong tổng giá trị thu thuế từ các công ty của Hưng Yên, trong đó nhất là thời kì đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nguồn thu này chiếm tới hơn 30 % tổng số thuế mà tỉnh thu được. Con số này nói lên vai trò quan trọng của nguồn thu thuế từ các công ty nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của tỉnh. 1.3.1.2 Tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hưng yên thời kỳ 1997 – 2010 định hướng đến năm 2020 đã nêu ra chỉ tiêu phấn đấu: Đến năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 22-24%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30-31% và dịch vụ chiếm 43-44% trong tổng GDP của tỉnh. Năm 2020 tỉnh hưng yên sẽ trở thành một tỉnh có cơ cấu kinh tế hiện đại, tỷ lệ nông nghiệp chỉ còn khoảng 11%, công nghiệp và xây dựng chiếm 39-40% và dịch vụ chiếm 49-50% trong tổng GDP của tỉnh. Những thành công bước đầu của tỉnh trong 13 năm qua cho thấy tỉnh hoàn toàn có thể đạt được những mục tiêu trên, khi phân tích các yếu tố ảnh hưỏng đến sự thành công nói trên thì chưa có câu tră lời cụ thể cả về định tính và định lượng. Đánh giá sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến chuyển dịch cơ cấu tỉnh Hưng yên sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách của tỉnh có sự nhìn nhận khách quan, rõ ràng hơn trong việc huy động nguồn vốn quan trọng này. Trước hết ta xem xét sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hưng yên từ khi tái lập tỉnh đến nay và những tác động của FDI đến sự chuyển dịch này( xem bảng 1). Bảng 6: Cơ cấu kinh tế Hưng yên từ khi tái lập tỉnh đến nay(2003-2009) Đơn vị tính: % Năm Nông nghiệp Công nghiệp xây dựng Dịch vụ Tổng số Ghi chú Toàn tỉnh Trong đó FDI 1996 60,0 15,0 0,53 25,0 100 Trước tái lập 2003 52,6 19,9 3,62 27,5 100 2004 48,9 22,5 7.76 28,6 100 2005 45,1 25,5 12,08 29,4 100 2006 41,5 27,8 13,16 30,7 100 2007 38,8 30.2 9.47 31,0 100 2008 37,2 31,6 9.66 31,2 100 2009 35,3 33,2 10,42 31,5 100 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Hưng yên trước tái lập có cơ cấu kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, năm 1996 nông nghiệp chiếm 60% tổng GDP toàn tỉnh, công nghiệp chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn 15%, còn lại là dịch vụ chiếm 25%. Sau 12 năm tách tỉnh, đến nay tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 35.3%, công nghiệp và dịch vụ tăng lên tương ứng là 33,2% và 31,5%. Sản phẩm từ FDI trong GDP của tỉnh năm 1996 là không đáng kể, chiếm 0,53%. Tuy nhiên con số này ngày càng tăng, đến năm 2006 tỷ trọng sản phẩm của FDI trong GDP là 13,16%. Vào thời điểm năm 2007,2008 sản phẩm đóng góp của lĩnh vực này sụt giảm là do đầu tư nội địa đặc biệt là đầu tư tỉnh ngoài vào Hưng yên tăng đột ngột, hơn nữa do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á trước đó tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt nam nói chung cũng giảm mạnh, nhưng trong năm 2009 đã khôi phục trở lại, sản phẩm từ FDI chiếm 10,42% tổng GDP toàn tỉnh. Sản lượng của FDI chủ yếu đóng góp trong ngành công nghiệp, tỷ trọng FDI trong ngành công nghiệp năm 1996 là 2,12%, năm 2006 chiếm 47,33% tổng sản phẩm toàn ngành công nghiệp, năm 2009 con số này là 31,67%. Với sự đóng góp ngày càng tăngcác sản phẩm của mình trong ngành công nghiệp, FDI đã thực sự là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang ngành công nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp giảm nhanh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh những năm vừa qua là do nhiều yếu tố, tuy nhiên sự tăng lên nhanh chóng của FDI (giai đoạn 1997-2003) là sự tác động tích cực nhất. Để kiểm tra điều này ta xem xét bảng 7. Bảng 7: GDP của Hưng yên phân theo ngành kinh tế từ khi tái lập tỉnh đến nay ( 1996-2009) Đơn vị tính: triệu đồng Năm Tổng số Nông nghiệp Công nghiệp xây dựng Dịch vụ Toàn tỉnh Trong đó FDI 1996 2.245.517 1.347.310 336.828 12.000 561.397 2003 2.581.169 1.357.695 513.653 93.384 709.821 2004 3.105.467 1.518.573 698.730 240.990 888.164 2005 3.631.911 1.637.992 926.137 438.764 1.067.782 2006 4.108.475 1.702.017 1.142.156 540.820 1.261.302 2007 4.508.162 1.794.153 1.361.454 427.118 1.397.519 2008 5.055.503 1.880.647 1.597.539 448.250 1.577.317 2009 5.629.496 2.009.451 1.899.464 597.000 1.783.581 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên GDP trong ngành nông nghiệp vẫn tăng hàng năm, điều đó có nghĩa là tỷ trọng của ngành này trong GDP giảm là do sự tăng lên quá nhanh của các ngành công nghiệp và dịch vụ, yếu tố quan trọng thúc đẩy các ngành này là sự tăng lên nhanh chóng các sản phẩm của FDI trong GDP. Ngoài ra FDI cũng góp phần quan trọng phát triển các ngành dịch vụ, năm 1996 dịch vụ chiếm 25% GDP toàn tỉnh, đến năm 2009 đã tăng lên 31,5%. Như vậy đến năm 2009 tỷ trọng Nông – Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ là 35,3% - 33,2% - 31,5%. Cơ cấu việc làm cũng thay đổi khi có sự tham gia của FDI, các dự án của FDI cũng thu hút khoảng 4.000 lao động địa phương vào các ngành công nghiệp, làm tăng lao động trong ngành công nghiệp và giảm lao động nông nghiệp. Các dự án đầu tư vào Hưng yên từ nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào các ngành điện tử, cơ khí và hoá chất, đến năm 2009 chiếm 70% tổng số dự ánđược cấp phép và bằng 75,7% tổng vốn đầu tư. Ngành dệt may, giầy dép và gốm sứ là những ngành quan trọng thu hút nhiều lao động nhưng chỉ chiếm 10 trong tổng số 36 dự án và 14,288 triệu USD ( xem bảng 3). 1.3.1.3. Tác động tới kim ngạch xuất nhập khẩu. Mục tiêu công nghiệp hoá nền kinh tế đã được tỉnh Hưng yên đề ra ngay sau khi tái lập tỉnh, vào thời điểm năm 1997, Hưng yên là một trong ba tỉnh nghèo nhất cả nước với GDP bình quân đầu người khoảng 180USD/năm, tích luỹ trong nền kinh tế hầu như không có. Để công nghịêp hoá thành công, Hưng yên đã đề ra cho mình chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, chiến lược này đã nhanh chóng phát huy tác dụng thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu củ tỉnh với tốc độ cao, nhờ đó đẩy mạnh giá trị xuất khẩu trong GDP của tỉnh. Nếu năm 1996, xuất khẩu chỉ chiếm 7,6% GDP thì đến năm 2009 con số này đã lên tới 22%, chính vì vậy, có một số ý kiến cho rằng kinh tế Hưng yên đạt tăng trưởng cao chủ yếu nhờ xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu của tỉnh năm vừa qua không ngừng được mở rộng. Thực vậy, năm 1997 thị trường xuất khẩu của Hưng yên chủ yếu là một số thị trường truyền thống như EU, Nhật bản và Đài loan…Đến nay các mặt hàng có xuất sứ từ tỉnh đã thâm nhập vào hầu hết thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, câu hỏi đặt ra là FDI có vai trò gì trong việc mở rộng thị trường? Để kiểm tra tác động của FDI đến kim ngạch xuất khẩu và khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp Hưng yên, trước hết phân tích động thái xuất khẩu của các công ty có vốn FDI ở Hưng yên. Phương pháp chủ yếu là phân tích thống kê các số liệu về kim ngạch xuất khẩu của các công ty có vốn FDI với động thái xuất khẩu chung của tỉnh, xem xét sự thay đổi của thị truờng xuất nhập khẩu khi có sự tham gia của FDI. Theo báo cáo tổng hợp từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên cho thấy, giá trị xuất khẩu của các công ty có vốn FDI năm 2003 là14,202 triệu USD, đến năm 2009 đã lên tới 103 triệu USD (tăng 7,3 lần). Cùng với sự tăng trưởng nhanh trong lĩnh vực xuất khẩu, trong những năm qua GDP của tỉnhcũng tăng rất nhanh, bình quân thời kỳ 2006-2009 là 12%. Có thể nói rằng, tăng trưởng xuất khẩu là động lực tăng trưởng về kinh tế, như vậy, giữa xuất khẩu và GDP có mối quan hệ tỷ lệ thuận, tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau đó là: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng xuất khẩu toàn tỉnh bình quân thời kỳ 2003-2006 là 26%/năm trong khi đó tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 2003-2006 là 12%). Xem bảng 8 Bảng 8: Giá trị xuất khẩu so với GDP thời kỳ 2003-2009 Đơn vị tính: 1.000USD Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 GDP 215.250 261.193 301.842 330.000 363.660 408.850 460.650 Xuất khẩu 22.181 21.979 30.614 39.914 47.140 59.602 103.000 Tỷ lệ XK/GDP 10,3% 8,4% 10,2% 12,1% 13,0% 14,6% 22,4% XK BQ/người 21,08 20,72 28,56 36,85 42,89 54,13 93,46 Nguồn: Sở Thương mại – Du lịch tỉnh Hưng yên Kim ngạch xuất khẩu so với GDP năm 2003 là 10,3%, năm 2009 đã lên đến 22,4%. Vào năm 2004, xuất khẩu có sự xụt giảm là do những bạn hàng nhập khẩu chính các sản phẩm của tỉnh ở Châu Á rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.tuy nhiên tỷ lệ này những năm tiếp theo cũng tăng rất chậm, nguyên nhân: Thứ nhất là các doanh nghiệp nội địa chưa tìm được thị trường mới nên không tăng nhanh được giá trị xuất khẩu. Thứ hai là các doanh nghiệp FDI tuy tăng nhanh giá trị nhưng còn chiếm phần nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh nên không thể có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng nói chung. Đến năm 2009 nơi có sự đột biến đáng kể, kim ngạch xuất khẩu bằng 22,4% GDP là con số cao nhất mà Hưng yên đạt được kể từ khi tái lập tỉnh. Tỷ lệ này tuy đã tăng rất mạnh nhưng so với mức bình quân chung của cả nước thì vẫn còn rất thấp. Xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 21,08USD năm 2003 lên 93,46USD năm 2009 là mức tăng rất nhanh, tuy nhiên chỉ số này vẫn còn rất thấp so với mức bình quân chung của cả nước ( năm 2009, xuất khẩu bình quân đầu người của cả nước vào khoảng 250USD). Xuất khẩu từ khu vực FDI năm 2003 bằng không, thì năm 2009 đã là 25,5% triệu USD, như vậy trong thời gian rất ngắn tham gia vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, khu vực này chỉ chiếm 1/4 tổng kim ngạch, về mặt định tính con số này còn rất khiêm tốn, nhưng rõ ràng nó đã góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu chung của tỉnh, với đà tăng trưởng hịên nay thì trong tương lai không xa, khu vực này sẽ trở thành khu vực xuất khẩu chủ đạo của tỉnh. Năm 2007 xuất khẩu của khu vực FDI có sự sụt giảm chủ yếu là do thị trường điện tử thế giới bão hoà ( 60% giá trị xuất khẩu của khu vực này là xuất khẩu ti vi nguyên chiếc các loại). Các công ty buộc phải giảm sãn lượng và hướng vào thị trường nội địa. Tuy nhiên hai năm sau đó tăng rất mạnh, một phần là do kôi phục lại thị trường điện tử thế giới, một phần là do sự tham gia xuất khẩu của một số công ty mới đi vào hoạt động.( xem bảng 9) Bảng 9: Giá trị xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ( thời kỳ 2003 – 2009) Đơn vị tính: 1.000USD Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 1.Giá trị xuất khẩu của các công ty có vốn FDI 0 1.253 3.534 9.896 4.809 16.098 25.500 2.Giá trị xuất khẩu của toàn tỉnh 22.181 21.979 20.616 39.914 47.140 59.602 103.000 3.% xuất khẩu của FDI so tổng số(1/2) 0% 5,7% 11,5% 24,8% 10,2% 27,0% 24,3% Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên Tốc độ tăng trưởng phát triển bình quân của toàn tỉnh thời kỳ 2003-2009: 26%/năm Tốc độ tăng trưởng phát triển bình quân khu vực FDI thời kỳ 2003-2009: 83%/năm Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của khu vực FDI thời kỳ 2003-2009 là rất cao ( 83%/năm), tuy nhiên để có mức sinh trưởng đó là do nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, năm 2003 là năm đầu tiên có sự tham gia xuất khẩu của khu vực này với giá trị xuất khẩu là 1.253 nghìn USD, do đó xuất phát điểm là con số không lớn. Thứ hai, chính sách của địa phương tăng cường thu hút các dự án sản xuất hàng xuất khẩu nhằm tăng trưởng nền kinh tế và giải quyết việc làm, do đó xuất hiện nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu mới đi vào hoạt động, đặc biệt là năm 2008 và năm 2009. Thứ ba, về mặt định lượng thì con số trục triệu USD là con số rất khiêm tốn nên việc tham gia xuất khẩu của một vài doanh nghiệp lớn có thể làm tăng đột ngột về mặt định tính. Tuy nhiên sự gia tăng nhanh về mặt định tính cũng rất có ý nghĩa vì so với với tốc độ tăng trưỡnguất khẩu bình quân toàn tỉnh thời kỳ 2003-2009 vào khoảng 26%/năm, thì vai trò xuất khẩu của khu vực FDI tham gia vào xuất khẩu ngày càng được khẳng định và nó cho thấy một động thái mới trong cơ cấu các thành phần tham gia xuất khẩu, cơ cấu này những năm qua đang có xu hướng nghiêng dần về khu vực có vốn FDI hơn là vốn nội địa. Năm 2004, xuất khẩu khu vực FDI chỉ mới đóng góp 5,7% tổng kim ngach xuất khẩu của tỉnh, năm 2009 đã tăng lên 24,3%, con số này một lần nữa khẳng định sự đóng góp ngày càng lớn của khu vực FDI trong kim ngạch xuất khẩu nói chung của tỉnh Hưng yên. Một điểm đáng chú ý là hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của khu vực FDI đều nằm trong nhóm hàng điện tử, chế tạo, khu vực vốn trong nước chủ yếu là xuất khẩu các mặt hàng nông sản, gia công may mặc, giầy dép… Năm 2009, trong số 9 đơn vị tham gia xuất khẩu khu vực FDI thì có đến 8 doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm điện tử, chế tạo. Tuy nhiên, xét trong ngắn hạn tỉnh cần phát huy mọi lợi thế về vị trí địa lý thuận lợi. lao động tre… song về lâu dài cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu phải tập trung vào các mặt hàng điện tử, chế tạo là những mặt hàng được sản xuất từ công nghệ hiện đại, sử dụng thành tựu của công nghiệp hoá. Vì thế, để công nghiệp hoá thành công thì không thể dựa vào những lợi thế trước mắt, hơn nữa về lâu dài những lợi thế này cũng mất dần do thu nhập của người dân đang dần từng bước được cải thiện, cho nên cần phải từng bươc tạo ra các lợi thế mới trong đó, việc tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng điện tử, chế tạo là một đông thái tốt cho qua trình công nghiệp hoá tỉnh nhà. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá nền kinh tế thì nguồn vốn FDI làm rất tốt việc này, vì vậy, việc tham gia của FDI không những góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu, mà còn làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh các mặt hàng điện tử, chế tạo là những sản phẩm của nền kinh tế đã công nghiệp hoá. FDI không những góp phần quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, mà FDI còn làm phong phú thị trường đầu ra cho các sản phẩm. Thực vậy, năm 2003 thị trường xuất khẩu chủ yếu của Hưng yên là EU, Nhật bản và Đài loan…xuất khẩu đến các khu vực ngoài các nước này còn rất khiêm tốn. Đến nay các mặt hàng có xuất sứ từ tỉnh đã thâm nhập vào hầu hết thị trường thế giới, đặc niệt là Mỹ ( xem bảng 10) Bảng 10: Giá trị xuất khẩu chia theo nước ( thời kỳ 2003-2009) Đơn vị tính: 1.000USD Khu vực XK 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Đài loan 2.618 719 4.976 5.524 10.237 9.856 11,354 Trung quốc 1.422 2.576 2.464 1.866 3.828 175 1.507 Nhật bản 7.759 3.550 5.466 7.522 11.014 8.692 14.468 EU 9.307 12.427 11.381 12.942 14.637 17.230 22.766 Mỹ 0 0 0 0 0 5.915 32.980 Các nước khác 1.075 2.707 6.327 12.060 7.424 17.734 19.675 Tổng số 22.181 21.979 30.614 39.914 47.140 59.602 103.000 Nguồn: Cục Thồng kê tỉnh Hưng yên Năm 2003 thị trường EU và Nhật Bản chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu của tỉnh các nước còn lại chiếm 10%.Đến năm 2009 thị trường xuất khẩu không còn ảnh hưởng của khu vực này nữa,các nước ngoài EU,Nhật Bản, Đài Loan chiếm tới 60% kim ngạch , đặc biệt là sự xuất hiện của thị trường Mỹ ,thị trường này mới được đưa vào danh sách từ năm 2006 nhưng đến năm 2008 rồi 2009 đã là nước nhập khẩu hàng đầu của các sản phẩm có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112079.doc
Tài liệu liên quan