PHẦN I : Lời nói đầu
PHẦN II : Nội dung
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. Khái quát nguồn vốn với phát triển kinh tế
A.Vốn sản xuất và vốn đầu tư
1. Vốn sản xuất
2. Vốn đầu tư và các hình thức đầu tư
B. Các nguồn hình thành vốn đầu tư
1.Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư
2. Nguồn đầu tư trong nước
a. Tiết kiệm chính phủ
b. Tiết kiệm công ty
c. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoà5 (FDI)
3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
II. Những vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm về đầu tư
2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
3. Đặc đIúm đầu tư trực tiếp nước ngoài
4. Động cơ và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài
b. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
c. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
d. Tác động của nước nhập khẩu FDI
CHƯƠNG II. VÀI NÉT VỀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 10
I . Những xu hướng vận động của FDI trên thế giới hiện nay 10
1. Dòng vốn FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước đang phát triển 10
2. Đầu tư nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty nước ngoài 11
3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giói 11
4. Các nước Mĩ , Anh , Pháp ,Nhật chi phối dòng vận động chính của FDI 12
5. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò quan trọng 12
6. Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ , đặc biệt là các nước đang phát triển Châu á 13
II . Đối với Việt Nam 13
1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư 13
2. Tình hình triển khai dự án đầu tư 13
a. Hình thức đầu tư
b. Cơ cấu đầu tư và đối tác đầu tư
3 . Tình hình xuất nhập khẩu 14
III. Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai dự án đầu tư 20
1. Hệ thống pháp luật đIũu chỉnh đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực XNK 20
2. Vấn đề XNK của các doanh nghiệp FDI theo quy định của giấy phép đầu tư 21
3. Về thuế XNK 24
4. Về quan hệ giữa doanh nghiệp khu chế xuất và các doanh nghiệp nội địa 24
5 . Quản lí ngoạI hối 25
6. Một số bất cập về chính sách đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực XNK 25
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – Vài nét về thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế thuộc các nước đang phát triển đã thu hút từ 60% đến 80 % tổng nguồn vốn FDIđổ vào liên tục tư thập 80 trở lại đây . Điều đó chứng tỏ , vốn FDI chủ yếu tập trung vào những nền kinh tế năng động , có nhịp tăng trưởng cao , ổn định , có môi trường đầu tư thuận lợi , hấp dãn hứa hẹn lợi nhuận cao .
đối với việt nam
1.Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Ba năm đầu từ năm 1998 đến 1990 , được coi là giai đoạn khởi động . Lúc dó , chúng ta như là những nguời mới vào nghề vừa không có kinh nghiệm vùa rất mạnh dạn trong các quyết định , còn người nước ngoài đến nước ta như là mièn đất mới vừa xa lạ vừa hấp dẫn họ rất thận trộng , làm thử để thăm dò , nên dự án thơì kỳ này không nhiều , mức tăng trưởng vốn chậm . Số dự án 1998 là 37 1989 là 70 1990là 111 , tương ứng thời gian đó số vốn đăng kí là 366 , 539 , 596.
2.Tình hình triển khai dự án đầu tư
Hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư chủ yếu là liên doanh , chiếm 61% số dự án và 71% tổng số vốn đăng kí đầu tư . Trong các liên doanh , tỷ lệ vốn pháp định do bên Việt Nam góp vốn thường không quá 30,5% , chủ yếu là quyền sử dụng đất và thiết bị nhfa xưởng sẵn có . Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền mặt và trang thiết bị nhập khẩu . Do vậy , trong thời kì xây dựng cơ bản phụ thuộc rát nhiều vào tiến đọ góp vốn của bên nước ngoài và việc bên nước ngoài thu xếp các khoản vay để thực hiện dự án . Trên thực tế , bên nước ngoài gần như điều hành toàn bộ quá trình xây dựng các công trình dự án . Khi thực hiện dự án , trừ trường hợp mà bên Việt Nam chọn được cán bộ có đủ năng lực , có phương pháp hợp tác và đấu tranh với bên nước ngoài thì họ có tiếng nói nhất định trong khi quyết định vè kinh doanh . Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng ; thời kì đầu chiếm chưa đây105 dự án và vốn đầu tư đăng kí , đến nay đã chiếm hơn 30 % số dự án và 21% vốn đăng kí .
Nguyên nhân chủ yếu là có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn tự quản lí , tự quyết định chiến lược kinh doanh , cũng như giải quyết vấn đè phát sinh hàng ngày một cách kịp thời mà không phải bàn với cán bộ Viẹet Nam , mà họ cho là khó hợp tác . Mặt khác , xu hướng dó cũng chính do chính sách của nhà nước Việt Nam đối xử bình dẳng giữa các doanh nghiêpj liên doanh với cac doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài .Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí cà dịch vụ viễn thông .
b) Về cơ cấu đầu tư và đối tác đầu tư
Về cơ cấu địa lý,vốn đầu tư nước ngoài tập trung nhiều vào các địa phương có điều kiện thuận lợi và các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Hải Phòng. Nguyên nhân là do các kết cấu hạ tầng ở các địa phương này có thuận lợi hơn, có môi trường kinh doanh năng động hơn, có quan hệ truyền thống với các nhà kinh doanh nước ngoài. Mặt khác, Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng, đặc biệt về thuế, điều kiện giá thuê đất để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các vùng sâu vùng xa như miền Trung, Tây Nguyên...
Cơ cấu đầu tư theo ngành đã có sự chuyển dịch lớn, ngày càng phù hợp định hướng cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nếu tính theo vốn đăng ký theo ngành thì ngành công nghiệp chiếm 13,9% tổng số vốn đầu tư năm 1992, đến năm1997 chiếm 47,4%, ngành xây dựng chiếm 0,2% năm 1992 và năm 1997 chiếm 26,7%. Sự chuyển biến cơ cấu ngành theo hướng tịch cực một phần nhờ đóng góp của đầu tư nước ngoài. Trong những năm đầu khi Luật ĐTNN ra đời, vốn đầu tư phần lớn tạp trung vào các ngành dầu khí, du lịch, khách sạn thì đến năm1995 có khoảng 64,6% vốn đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất, hơn 60% dự án thuộc loại chiều sâu nhằm khai thác và nâng cao hiệu quả năng lực hiện có. Số vốn đầu tư vào các khu chế xuất, khu công nghiệp chiếm 14,2% tổng số vốn đầu tư tuy nhiên chưa có nhiều dự án nuôi trồng và chế biến nông sản, cơ khí chế tạo.
Về đối tác nước ngoài, phần lớn vốn đầu tư từ các nước Châu á chiếm tới gần 70%, trong đó ASEAN gần 25%, trong khi đó vốn ĐTNN từ các nước Tây, Bắc Âu, Bắc Mỹ còn thấp, các nước G7 (trừ Nhật Bản) mới khoảng 12%.
Đại bộ phận các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ta thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này đã chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nhiều nhà đầu tư trong số đó không thu sếp được các khoản vay hoặc thậm chí lâm vào tình trạng phá sản nên đã đình hoãn, thậm chí chấm dứt hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
3. Về tình hình xuất nhập khẩu
Theo số liệu thống kê của Vụ Đầu Tư - Bộ Thương mại, kết quả xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI được chia ra các năm như sau ( không tính dầu khí ):
Bảng 2: Kim ngạch XNK của các doanh nghiệp FDI
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1989 -1991
52
192
1992
112
230
1993
140
491
1994
165
750
1995
403
1.653
1996
786
2.232
1997
1.497
2.700
1998
1.982
2.900
1999
2.590
3.382
2000 (quý I)
66,174
Nguồn : Vụ đầu tư - Bộ Thương mại
Số liệu nêu trong bảng 2, cho thấy :
Về nhập khẩu : kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh qua các năm là do tiến độ triển khai xây dựng, sản xuất của các doanh nghiệp được thực hiện theo lịch trình đã được xét duyệt. Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị phục vụ cho xây dựng cơ bản, hình thành doanh nghiệp và vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Tuy nhiên, việc nhập khẩu tăng cũng chưa phản ánh hết tốc độ đầu tư. Thực tế cho ta thấy, mặc dù kim ngạch nhập khẩu có tăng nhưng trị giá thiết bị máy móc nhập khẩu lại giảm ( nhất là cuối năm 1996 ), chứng tỏ tốc độ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm.
Về xuất khẩu : kết quả xuất khẩu được phản ánh bằng sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tăng mạnh qua các năm chứng tỏ các doanh nghiệp FDI đã đóng góp đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu cả nước, làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng dần tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp, hàng có kỹ thuật cao trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đi sâu vào phân tích kết luận đó chúng ta thấy :
Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
Bảng 3 :
Năm
Doanh nghiệp FDI
Cả nước
Tỷ lệ
1996
786.000.000
6.868.000.000
11.4%
1997
1.479.653.000
8.758.900.413
17,09%
1998
1.982.638.000
9.323.648.397
21,25%
1999
2.365.000000
11.520.600.0002
22,5%
2000 (Quý I)
665.000.000
650.800.608
26%
Nguồn : Vụ đầu tư - Bộ Thương mại
Qua Bảng 3 cho thấy xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tăng ổn định qua các năm và chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế ( trên 20% ).
Cơ cấu đầu tư và cơ cấu xuất khẩu : theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng kết tình hình đầu tư trong những năm qua (từ 1998 đến 3/2000) cơ cấu đầu tư và xuất khẩu trong từng lĩnh vực như sau :
Bảng4 : Cơ cấu đầu tư và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
Lĩnh vực kinh tế
Số
Dự án
Trị giá
vốn đầu tư
Tỷ lệ % vốn đầu tư
Doanh thu
(1000 USD)
Trị giá XK (1000 USD)
Tổng cộng
2.339
35.786.144
17.197.429
11.248.000
1. Công nghiệp
1.203
12.642.542
35,2
11.659.257
5.021.565
Công nghiệp nặng
500
6.474.370
5.715. 376
1.997.524
Công nghiệp nhẹ
577
3.774.759
3.389.864
2.656.922
Công nghiệp thực phẩm
126
2.393.383
2.554.017
367.119
2. Dầu khí
23
2.558.268
7,2
1.391.764
3. Nông lâm thuỷ sản
294
3.030.477
5,7
371.529
Nông lâm nghiệp
245
1.874.827
1.227.743
309.714
Thuỷ sản
49
155.560
164.021
61.815
4. Du lịch – Dịch vụ - KS
315
9.059.044
25,3
1.221.007
KS – DL - VP - Căn hộ
156
8.099.955
841.405
Văn hóa -Ytế - Giáo dục
76
433.107
208.450
Dịch vụ
119
525.982
121.152
5. Xây dựng
221
4.204.727
11,7
679.906
Xây dựng
208
3.401.187
601.322
XD hạ tầng KCX - KCN
13
803.450
58.284
6. GTVT - Bưu điện
97
2.804.627
7,8
1.822.965
7. Tài chính - Ngân hàng
48
542.250
1,5
261.409
Nguồn : Vụ đầu tư - Bộ Thương mại
Căn cứ vào số liệu trên Bảng 4, ta thấy cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể ( 32% trong tổng số vốn đầu tư ). Doanh thu, doanh số của các doanh nghiệp thuợc lĩnh vực cũng chiếm phần lớn. Tuy nhiên cũng có những lĩnh vực chiếm giá trị lớn như : du lịch, khách sạn lại không có khả năng xuất khẩu và đạt doanh thu không cao.
- Về cơ cấu hàng xuất khẩu : Cơ cấu hàng xuất khẩu trước tiên phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư. Do vậy, tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp càng cao thì tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp càng lớn ( chiếm khoảng 44,6% ) điều này càng khẳng định chủ tương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp của Đảng và Nhà nước ta là một chủ trương đúng đắn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu : Trong số các nước có quan hệ hợp tác đầu tư với Việt Nam thì các nước châu á đầu tư lớn nhất, như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Và cũng chính các nước này nhập khẩu hàng hoá nhiều nhất từ các doanh nghiệp FDI Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 1988, chỉ riêng thị trường Nhật Bảm và các nước ASEAN, trị giá kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 886,9 triệu USD chiếm 44,7%. Các nước, các khu vực còn lại như EU đạt 456 triệu USD chiếm 30% Hoa Kỳ đạt 107,4 triệu USD chiếm 5,4%; Nga đạt 4 triệu USD, các nước khác đạt 28,4 triệu USD chiếm 26%.
Tỷ trọng xuất khẩu chung của cả nước thời kỳ 1991-1998 cho thấy Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ giữ vai trò trong các năm 1991-1995 (chiếm bình quân trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI). Sau đó giảm dần, năm 1998 chỉ còn chiếm 15,8% kim ngạch xuất khẩu nhưng các nước ASEAN không có sự thay đổi lớn trong suốt thời kỳ 1991-1998 (chiếm tỷ trọng bình quân là 21,5% kim ngạch xuất khẩu ).
Tỷ trọng xuất khẩu vào EU tăng khá đều trong các năm qua. Năm 1991, EU mới chỉ chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của ta, nhưng tới năm 1998 đã chiếm 22,5%. Riêng trong khối FDI, tỷ lệ xuất khẩu vào EU cũng 30% kim ngạch của khối.
II.Một số khó khăn và vướng mắc trong quá trình triển khai dự án đầu tư
1.Hệ thống pháp luật điều chỉnh đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư và các luật có liên quan. Đối với những nước phát triển với hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thì mặc dù có nhiều quy phạm pháp luật tham gia điều chỉnh nhưng vẫn bảo đảm tính minh bạch và thống nhất, nhưng đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc có nhiều quy pham pháp luật tham gia điều chỉnh cùng một quan hệ pháp luật không tránh khỏi những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm trí trái ngược nhau. Điều nay không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong thực tế, việc xin phép không mấy thuận lợi và thậm chí không thể có vì hạn ngạch xuất khẩu (gạo, dệt may) thông thường chỉ được ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước.
Cũng tương tự về nhập khẩu, các doanh nghiệp cũng bị ràng buộc vào quy định hạn chế nhập khẩu hoặc phải ưu tiên mua sắm trong nước thay vì nhập khẩu nếu hàng hoá này có cùng điều kiện thương mại như nhau. Điều này xét về hình thức là hoàn toàn hợp lý bởi vì pháp luật về XNK phải tạo ra một “ sân chơi ” bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Nhưng xét về khía cạnh pháp lý thì có nhiều vấn đề cần bàn :
Thứ nhất, Luật đầu tư (một đạo luật do quốc hội ban hành có giá trị pháp lý cao hơn so với quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành) quy định quyền của doanh nghiệp FDI được trực tiếp XNK hàng hoá phù hợp với giấy phép đầu tư, nhưng Quyết định điều hành XNK hàng năm của Chính phủ lại hạn chế XNK như những doanh nghiệp kinh doanh trong nước. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều mặt hàng (nhất là vật tư, nguyên liệu phục vụ xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp) lẽ ra nhập khẩu để đảm bảo chất lượng công trình (như sắt, thép, gạch men hoặc hàng hoá phục vụ cho nội thất) nhưng do bị giới hạn bởi quy định: trong điều kiện thương mại như nhau phải ưu tiên mua sắm tại Việt Nam, nên các doanh nghiệp FDI phải mua sắm ở trong nước với giá cả, chất lượng chưa thật bảo đảm theo yêu cầu của dự án đầu tư.
Thứ hai, do sự không rõ ràng của pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư không thể dự kiến được kế hoạch chi tiết về nhập khẩu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như không thể xây dựng chiến lược lâu dài về nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ ba, ý kiến cho rằng chỉ ưu tiên vào các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì sẽ là không công bằng đối với các nhà đầu tư trong nước Để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi cần trở lại mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài đề ra ngay từ khi bắt đầu hình thành Luật đầu tư và cũng cần xem lại các cam kết quy định trong Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước có quan hệ đầu tư.
2. Vấn đề xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI theo quy định của giấy phép đầu tư.
Đây là vấn đề nan giải không chỉ đối với doanh nghiệp mà các nhà quản lý cũng gặp nhiều khó khăn- khi tìm kiếm biện pháp xử lý. Khi triển khai dự án, các doanh nghiệp thường không đảm bảo được tỷ lệ xuất khẩu theo quy định của giấy phép. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng có một số nguyên nhân phải kể đến là :
Phần lớn các doanh nghiệp FDI đều muốn tiêu thụ sản phẩm của mình ở nước tiếp nhận đầu tư.
Tỷ lệ xuất khẩu của doanh nghiệp FDI là do các công ty mẹ ở nước ngoài điều tiết, nên bản thân các doanh nghiệp này cũng không quyết định được xuất khẩu đi đâu.
Khả năng cạnh tranh của mặt hàng do các doanh nghiệp FDI Việt Nam sản xuất trên thị trường khu vực cũng như trên thế giới thấp (ví dụ như đường, xi măng, ôtô sắt thép, giấy... ) do đầu tư không phải là công nghệ tiên tiến, chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa thật hấp dẫn, giá cả còn quá cao do khấu hao đầu tư quá lớn.
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á dãn tới một số doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, tạm ngừng sản xuất bộ phận hoặc đình chỉ sản xuất cả nhà máy ( nhr doanh nghiệp sản xuất bút PILOT, bật lửa TOKAI, giầy thể thao JOAN VIET Tp.HCM )
Theo quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, mọi hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định- đó là thủ tục duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu và thủ tục Hải quan. Cụ thể:
2.1 Về thủ tục duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại hoặc cơ quan do Bộ Thương mại uỷ quyền ( Sở Thương mại các tỉnh, thành phố, ban quản lý các khu công nghiệp...).
Vướng mắc lớn nhất là danh mục hàng hoá thực tế xin nhập khẩu thường mâu thuẫn với danh mục hàng hoá quy định trong luận chứng kinh tế -kỹ thuật đã được các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn, cấp giấy phép và chất lượng máy móc thiết bị nhập khẩu khác với chất lượng máy móc thiết bị được quy định trong giấy phép đầu tư.
Đối với hàng hoá thực tế xin nhập khẩu ( đặc biệt là những hàng hoá được miễn thuế nhập khẩu theo quy định của luật ) thường mâu thuẫn ( thừa, thiếu hoặc khác chủng loại ) với danh mục hàng hoá nhập khẩu ghi trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật là do quá trình lập dự án, nhà đầu tư chưa tính toán thật chi tiết, đầy đủ kế hoạch nhập khẩu hoặc do có sự thay đổi thiết kế, thay đổi tính toán so với ban đầu. Trong khi đó, luật lại quy định một trong những cơ sở pháp lý để xem xét miễn thuế nhập khẩu là danh mục hàng hoá ghi trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật phải phù hợp với danh mục hàng hoá xin nhập khẩu.
. Về thủ tục Hải quan
- Mặc dù ngành Hải quan đã có nhiều cải cách nhằm đơn giản hoá thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp FDI ,tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn quá nhiều trở ngại cho doanh nghiệp như việc áp sai mã thuế; xử lý hàng giao thừa, giao khác chủng loại còn nhiều cứng nhắc gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Thêm vào đó trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ của nhân viên hải quan còn hạn chế cộng với tinh thần thái độ cửa quyền, hách dịch, vòi vĩnh của họ đã tạo ra ảnh hưởng tiêu cực không đáng có cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Một vấn đề đáng ngại làm nản lòng không ít các nhà đầu tư nữa là các quy định rườm rà, phức tạp và trùng lặp về thủ tục nhập khẩu cũng như các thủ tục giấy tờ không cần thiết tại các cửa khaảu hải quan đã trở thành các rào cản phi thuế quan đáng quan tâm.
- Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước không được thực hiện tốt cũng gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp FDI trong hoạt động xuất nhập khẩu ( giữa Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan hay Bộ Thương mại và Bộ tài chính...).
3. Về thuế xuất nhập khẩu
Trở ngại lớn nhất trong lĩnh vực này là các quy định về thuế xuất nhập khẩu và các mức thuế không nhất quán gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các dự án, không khuyến khích đầu tư mới do thiếu tính ổn định của chính sách thuế. Đáng lưu ý là do có những vấn đề tưởng như rõ ràng theo quy định của luật về miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, vật tư, nguyên liệu dùng để xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp nhưng khi mỗi lần làm thủ tục nhập khẩu, doanh nghiệp phải giải trình khá vất vả với cơ quan duyệt kế hoạch nhập khẩu và cơ quan Hải quan mới được giải quyết. Đặc biệt là phương pháp áp dụng thuế giá trị gia tăng ( VAT ) trực tiếp đã tạo ra hai chế độ trả thuế VAT, trái ngược với tính hợp lý của hệ thống thuế VAT. Ví dụ, các công ty sử dụng phương pháp khấu trừ thuế và mua hàng từ các nhà cung cấp sử dụng phương pháp áp dụng thuế VAT trực tiếp không thể khấu trừ thuế VAT đã đóng và được trả bởi các nhà cung cấp. Vì vậy, làm tăng thêm gánh nặng về thuế VAT.
4. Về quan hệ giũa các doanh nghiệp khu chế xuất và các doanh nghiệp nội địa
Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp trong nước là quan hệ xuất nhập khẩu và áp dụng theo pháp luật về xuất nhập khẩu. ở đây cần có sự phân biệt rõ ràng về tư cách pháp lý của doanh nghiệp chế xuất cũng như của khu chế xuất.. Việc quy định quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các doanh nghiệp chế xuất với nội địa là quan hệ xuất nhập khẩu, nhằm ngăn chặn sự lạm dụng cơ chế ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu cũng như thủ tục Hải quan để trốn thuế hoặc buôn lậu. Tuy nhiên, trong thực tế thi hành luật lại bắt đầu phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Cụ thể :
Về hoạt động mua bán hàng hoá : Theo quy định của pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp được mua bán hàng hoá với nước ngoài tất cả các loại hàng hoá ( trừ hàng hoá cấm xuất nhập khẩu và hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện). Tương tự như vậy, các doanh nghiệp nội địa được mua bán hàng hoá với các doanh nghiệp chế xuất theo đúng như quy định hiện hành về xuất nhập khẩu. Vẫn biết rằng hạn chế các doanh nghiệp chế xuất bán hàng vào thị trường nội địa là để hướng mạnh vào xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Nhưng trong điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang có nhiều khó khăn, quy định như vậy sẽ tạo ra những trở ngại đáng kể đối với các nhà đầu tư.
5. Quản lý ngoại hối.
Với Việt Nam, sự không chắc chắn về khả năng chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ đang là một trở ngại lớn trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nước ngoài.. Do khả năng chuyển đổi ngoại tệ ở Việt Nam có nhiều hạn chế nên nhiều doanh nghiệp FDI phải tự giải quyết bằng cách tích trữ các khoản thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu tại các ngân hàng nước ngoài để khỏi bị chuyển đổi. Điều này tất nhiên sẽ gây bất lợi cho doanh nghiệp trong việc quay vòng vốn cũng như khả năng mở rộng đầu tư hoặc tái đầu tư.
6. Một số bất cập về chính sách đối với các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
Ngoài các trở ngại thường gặp như đối với bất kỳ dự án nào trong quá trình cấp giấy phép và việc phê duyệt sau giấy phép như thủ tục thành lập công ty, các thủ tục về đất đai, giấy phép xây dựng, giấy phép XNK..., các doanh nghiệp FDI phải đối diện với một loạt khó khăn được tạo ra bởi các chính sách không mấy hấp dẫn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như :
Sự bảo hộ do các cơ chế thương mại đặt ra hàng năm còn rất cao và bao gồm một diện rộng các mặt hàng. Thương mại bị thu hẹp do các mức thuế quan cao và hay bị thay đổi do các biện pháp phi thuế ( hạn ngạch, giấy phép ) còn khá phức tạp, cộng với tệ hành chính quan liêu giấy tờ diễn ra thường xuyên ở các cơ quan quản lý.
Chính sách thay thế hàng nhập khẩu và cạnh tranh xuất khẩu không đạt hiệu quả.
chương 3
một số giải pháp cải thiện môi truờng
đầu tư nước ngoài
I. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việc Việt Nam trở thành viên chính thức của ASEAN (25-7-1995); tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA (1-1-1996); tham gia ASEM (3-1996); gia nhập APEC - Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương - (11-1998); đang trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO); ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã đánh dấu những bước nhảy vọt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh khá thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế cũng đặt ra cho Việt Nam những khó khăn và thách thức to lớn trong nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có những cải biến sấu sắc, đồng bộ về hệ thống chính sách pháp luật về thương mại đầu tư cũng như sự cố gắng của các doanh nghiệp FDI.
Mục tiêu chiến lược 2001- 2010
Mục tiêu tổng quát : Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển ; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất , văn hoá , tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại .
Cụ thể:
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, tichluỹ nội bộ đạt 30% GDP
Nâng cao đáng kể chỉ số phát triển con người HDI , tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1%
Năng lực nội sinh về khoa học công nghệ
Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nuớc được tăng cường .
III. Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Cơ sở của giải pháp
Trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội đặt ra rất lớn. Theo tính sơ bộ, tổng vốn đầu tư phát triển toàn bộ xã hội thời kỳ 2001-2005 lên tới 65-70 tỷ USD, trong đó nguồn vốn nước ngoài cần tới 22-25 tỷ USD, chiếm 30-35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (ODA) có chiều hướng giảm kể cả về quy mô và mức độ ưu đãi, nguồn vốn vay thương mại để tự đầu tư không nhiều phải chịu lãi suất cao, điều kiện cho vay khắt khe, chịu rủi ro của biến động tỷ giá...Do vậy, cùng với việc phát huy tối đa nội lực, chúng ta phải thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ để nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với yêu cầu phải gắn đầu tư trực tiếp nước ngoài với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội 2001-2005 và mục tiêu chiến lược đến 2010; phải gắn với quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa; phải gắn với chiến lược kinh doanh XNK giai đoạn 2001-2005 và mục tiêu chiến lược đến 2010
2. Về cơ chế chính sách
2.1 Tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh cho các doanh nghiệpFDI trong lĩnh vực XNK
Trong những năm qua, với những quy định khá thông thoáng của Nghị định 10//1998/NĐ-CP của Chính phủ, Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ, đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp FDI. Chẳng hạn trong lĩnh vực Xuất khẩu, các doanh nghiệp không cần phải phê duyệt kế hoạch xuất khẩu như trước đây, mà trực tiếp ký hợp đồng với thương nhân nước ngoài để thực hiện các giao dịch mua bán.
2.2 Về công tác cấp giấy phép đầu tư
Một số cơ quan được phân cấp cấp giấy phép đã cấp những giấy phép đầu tư không căn cứ vào quy hoạch, cơ cấu, thậm chí còn vi phạm về thẩm quyền cấp giấy phép, chưa gắn việc cấp giấy phép với quy hoạch ngành, lãnh thổ, chưa khuyến khích đầu tư vào các ngành chế biến xuất khẩu, công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng... Bởi vậy theo chúng tôi, để khắc phục tình trạng trên, việc cấp giấy phép phải do một cơ quan của Chính phủ thực hiện.. Về quy trình cấp giấy phép, đặc biệt các giấy phép xuất khẩu từ 80% trở lên phải được thực hiện một cách đơn gian nhanh chóng. Trên cơ sở danh mục kêu gọi đầu tư và các thông tin về doanh nghiệp (theo mẫu in sẵn), các nhà đầu tư chỉ việc điền hồ sơ, và việc cấp giấy phép được thực hiện sau 2 hoặc 3 ngày.
2.3 Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư
. Trong năm 2001 cần tiếp tục điều chỉnh một bướcgiá, phí các hàng hoá dịch vụ (trên cơ sở quy định tại Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) để trong 2, 3 năm tới về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất giá, phí cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.4 Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài
- Về đất đai
Ngoài vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất, cần soát xét lại giá cho thuê đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Nghiên cứu thay thế dần các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0172.doc