Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Hoạt động đầu tư nước ngoài đã dần chuyển sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng. Tỷ trọng vốn thực hiện trong ngành công nghiệp(trừ dầu khí) và xây dựng trên tổng vốn thực hiện đã tăng tương ứng từ 29,6% và 5,6% trong thời kì 1991-1995 lên 40,5% và 14,5% trong thời kì 1996-2003. Điều này đã góp phần quan trọng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.

Khu vực đầu tư nước ngoài hiện tạo ra gần 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, chiếm khoảng 36,5% tổng sản phẩm quốc nội. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu cực này đạt trung bình 21,8% một năm và góp phần đưa giá trị tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước lên 13% một năm. Rõ ràng đầu tư không chỉ góp phần làm tăng nhu cầu, tức tăng thị trường cho công nghiệp mà còn mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm. Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, hình thành và làm tăng đáng kể năng lực của các ngành công nghiệp, đặc biệt như: dầu khí, bưu chính viễn thông, hoá chất hoá dầu, điện tử, tin học, ôtô

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2838 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 tỷ USD và 705 dự án giải thể với tổng số vốn khoảng 9 tỷ USD. Như vậy hiện còn 2892 dự án có hiệu lực với số vốn đầu tư đạt 37,2 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hơn một thập kỷ qua có thể được nhìn nhận qua hai giai đoạn với hai xu hướng phát triển khác biệt nhau. Giai đoạn trước năm 1996, đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng cả về dự và số vốn đầu tư, đạt mức kỷ lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký vào năm 1996. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 50%/năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể từ mức 37 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 371,8 triệu USD năm 1988 lên 326 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 8640 triệu USD năm 1996. Ta có bảng dự liệu sau về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép trong giai đoạn 1988-1996: Đơn vị tính: triệu USD Năm Số dự án Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Vốn pháp định ( triệu USD) 1988 37 371,8 288,4 1989 68 582,5 311,5 1990 108 839 407,5 1991 151 1322,3 663,6 1992 197 2165 1418 1993 269 2900 1468 1994 343 3765,6 1729 1995 370 6530,8 2986,6 1996 326 8640,3 2940,8 Ngồn: niên giám thống kê, tổng cục thống kê. b/ Giai đoạn từ năm 1996 đến nay: Kể từ năm 1997 đến nay đặc biệt từ khi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm mạnh do Việt Nam còn phải đương đầu với nhiều vấn đề khó khăn và thực tế số dự án và vốn đầu tư giải thể trong giai đoạn 1996-2000 tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Từ năm 1997 đến năm 2000 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24%/năm. Đầu tư nước ngoài trực tiếp đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,6 tỷ USD năm 2002 . Ngoài ra trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại đó là số dự án và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn đầu tư giải thể trong giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của 8 năm trước đó cộng lại. Ta có bảng dữ liệu về nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm 1997-2002: Đơn vị: triệu USD Năm Tổng vốn đăng kí Vốn pháp định Số dự án 1997 4649,1 2334,4 345 1998 3897 1805,6 275 1999 1568 693,3 311 2000 2012,4 1525,6 371 2001 2535,5 1062,5 523 2002 1557,7 721,4 754 Tổng 12807,7 8142,8 2579 Ngồn: niên giám thống kê, tổng cục thống kê. Phần lớn số vốn đầu tư nước ngoài đến từ châu á. Trong đó đầu tư nước ngoài của Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaixia, và Thái Lan chiếm khoảng 60% về vốn đăng ký và 63% về vốn thực hiện. Phần còn lại là vốn đầu tư từ các nước châu Âu(khoảng 20%), châu Mĩ (khoảng 13%), và châu Đại Dương (khoảng 3%). Các nước công nghiệp như Mỹ, Tây Âu, và Nhật Bản thường đầu tư vào các ngành như dầu khí, ôtô, bưu chính viễn thông. Ngược lại, các nhà đầu tư ở các nước công nghiệp mới ở đông á và ASEAN thường tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm và xây dựng khách sạn. Ta có bảng số liệu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép trong năm 2003 phân theo đối tác đầu tư : Đơn vị tính: triệu USD Nền kinh tế Số dự án Vốn đăng kí Vốn pháp định Singapore 307 6245,5 2158,5 Nhật Bản 425 3785,4 1989,1 Hồng Kông 432 3987,2 1771,7 Hàn Quốc 690 3858,6 1840,9 Pháp 191 2594,1 1354,8 Quần đảo Virgin-Anh 195 2177,5 984,3 Hà Lan 56 1200,1 682,1 Liên bang Nga 79 1635,6 1101,6 Hoa Kỳ 199 1644,7 719,2 Malaixia 149 1360 642,1 Thái Lan 171 2119,9 561,6 Australia 126 1310,2 606,9 Đài Loan 952 5617,2 2457,6 Tổng 3261 3748,2 16770,4 Nguồn: bộ kế hoạch và đầu tư. Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như công nghiệp, xây dựng, khách sạn du lịch, văn phòng nhà cho thuê, phát triển cơ sở hạ tầng. Tính đên hết năm 2002, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 20 tỷ USD, trong đó ngành công nghiệp đạt gần 10,5 tỷ USD (chiếm khoảng 50% tổng vốn thực hiện), ngành xây dựng đạt 1,78 tỉ UDS ( chiếm khoảng 8,9% ), công nghiệp dầu khí đạt gần 3,5 tỉ USD ( chiếm khoảng 17,5%), ngành khách sạn và du lịch đạt 2,44 tỉ USD (chiếm khoảng 12,2%). Các ngành có tỉ lệ vốn thực hiện trên 50% như tài chính ngân hàng, giao thông và bưu điện, dầu khí và các dịch vụ khác. Các ngành khác có tỉ lệ vốn thực hiện đạt từ 30-40%. Ta có bảng dữ liệu về đầu tư nước ngoài phân theo ngành tính đến tháng 12/2002: (đơn vị : triệu USD) Ngành Số dự án Vốn đăng ký Vốn pháp định Thuỷ sản 114 380,4 199,2 Công nghiệp 2689 19422,4 10014,2 Dầu khí 56 4200,4 3478,3 Xây dựng 330 4709,8 1781,2 Khách sạn, du lịch 228 5013,5 2155,9 GTVT&Bưu điện 158 3676,8 2441,0 Tài chính &Ngân hàng 35 248,1 220,9 Văn hoá, y tế, giáo dục 140 607,6 246,5 Dịch vụ khác 390 7702,1 2619,8 Nông lâm 354 1433,3 678,9 Tổng 4447 43194 20357,6 Nguồn: niên giám thống kê năm 2002, tổng cục thống kê. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến. Trong giai đoạn đầu mở cửa, phần lớn số vốn đầu tư đổ vào ngành dầu khí, giao thông vận tải-bưu điện, khách sạn-du lịch, dịch vụ tư vấn giải trí và quảng cáo. Các dự án đầu tư trong giai đoạn này thường có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài đã dần chuyển sang các hoạt động thuộc ngành công nghiệp chê tạo, kể cả những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, và những ngành sử dụng nhiều vốn như lắp ráp ôtô, phân bón, hoá chất, hoá dầu. Mặc dù các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện ở 60 tỉnh thành phổ trên cả nước, xong mức độ phân bổ dự án không đồng đều, phần lớn vốn đầu tư nước ngoài tập trung ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương. Tổng số vốn dăng kí của 6 tỉnh thành phố này chiếm 70% tổng số vốn dăng kí của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội là hai thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 50% tổng vốn dăng kí của cả nước. Xu hướng tập trung đầu tư nước ngoài ở các tỉnh, thành phố lớn có ít thay đổi qua hơn một thập kỉ qua. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ và thu nhập ở các tỉnh thành phố lớn thuận lợi và phát triển hơn so với các thành phố khác. 3/ Kết quả đạt được: Qua hơn một thập kỉ, đầu tư nước ngoài đã có những tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam trên một số mặt chủ yếu sau: a/ Về vốn đầu tư: Đầu tư nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế của Việt Nam. Tính đến 20/3/2004 cả nước có khoảng 4462 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng kí hơn 42 tỉ USD, trong đó đã thực hiện gần 25 tỉ USD. Nếu tính cả lượng vốn đã được giải ngân của các dự án đã hết hạn thì tổng số vốn của các dự án đầu tư nước ngoài đã thực hiện đựơc lên tới 28 tỉ USD trong đó vốn của nước ngoài đạt khoảng 25 tỉ USD. Từ năm 1988 đến 2003 có khoảng 2100 lượt dự án tăng vốn đăng kí với vốn tăng thêm trên 9 tỉ USD. Riêng 3 năm 2001-2003 lượng vốn bổ sung của các dự án đầu tư nước ngoài đạt gần 3 tỉ USD băng 47,6% tổng số vốn đầu tư đăng kí mới. Còn đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 lượng vốn thực hiện được đạt khoảng 2100 tỷ đồng tăng 22% so với kế hoạch đề ra. Đây là một tỉ lệ khá cao so với các nước đang phát triển trên thế giới. Ngồn vốn này đã góp phần tích cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hoá các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: dầu khí, hoá dầu, bưu chính viễn thông,điện tử, ôtô, xe máy, hoá chất, phân bón dệt may, dày dép, chế biến nông sản, thực phẩm chế biến thức ăn gia súc, khách sạn du lịch…. Năng lực tăng thêm của những ngành,lĩnh vực do đầu tư nước ngoài tạo ra đã góp phần tăng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nảmtên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra thê và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước( lao động, đất đai, tài nguyên…) được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả. b/Đối với GDP: Đầu tư nước ngoàI đã góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng GDP trong thập kỉ qua. Tính riêng thời kì 1996-2000, tố độ tăng GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế . Khu vực đầu tư nước ngoài có tỉ lệ đóng góp GDP tăng dần qua các năm từ 2% năm 1992 lên 3,6% năm 1993; 7,7% năm 1996; 8,6% năm 1997; 9% năm 1998; 13,3% năm 2000. Tuy nhiên, theo ước tính của ngân hàng thế giới còn có khoảng hơn một triệu lao động gián tiếp do khu vực này tạo ra như hoạt động thầu phụ, xây dựng …Đầu tư nước ngoài cũng tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua luồng vốn chuyển vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp. c/ Đối với kim ngạch xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của đầu tư nước ngoài tăng nhanh khoảng 36,5%. Năm2003, kim ngạch xuất khẩu của các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước đạt 6,2 tỷ USD, tăng 36,5% so với năm 2002. Trong thời kỳ 1991-1995 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đạt 1 tỷ USD thì trong những năm 1996-2000 là 10,6 tỷ USD chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng dần từ 25% năm 2000 lên 30% năm 2003. Nếu tính cả dầu thô thì tỉ trọng này đạt khoảng 51% tổng kim ngạch xuất khẩu . Hoạt động xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng hoá Việt Nam trên thị trường xuất khẩu. d/Đối với cơ cấu ngành: Hoạt động đầu tư nước ngoài đã dần chuyển sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng. Tỷ trọng vốn thực hiện trong ngành công nghiệp(trừ dầu khí) và xây dựng trên tổng vốn thực hiện đã tăng tương ứng từ 29,6% và 5,6% trong thời kì 1991-1995 lên 40,5% và 14,5% trong thời kì 1996-2003. Điều này đã góp phần quan trọng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khu vực đầu tư nước ngoài hiện tạo ra gần 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, chiếm khoảng 36,5% tổng sản phẩm quốc nội. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu cực này đạt trung bình 21,8% một năm và góp phần đưa giá trị tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước lên 13% một năm. Rõ ràng đầu tư không chỉ góp phần làm tăng nhu cầu, tức tăng thị trường cho công nghiệp mà còn mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm. Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, hình thành và làm tăng đáng kể năng lực của các ngành công nghiệp, đặc biệt như: dầu khí, bưu chính viễn thông, hoá chất hoá dầu, điện tử, tin học, ôtô… e/ Đối với ngân sách nhà nước: Phần lớn các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đang trong thời kì hưởng ưu đãi về thuế, nhưng nguồn thu từ các doanh nghiệp này vào ngân sách nhà nước liên tục tăng: năm 1994 đạt 128 triệu USD; 1995 đạt 195 triệu USD; 1996 đạt 263 triệu USD; 1997 đạt 340 triệu USD; 1998 đạt370 triệu USD… chiếm 13% tổng thu thuế và lệ phí của ngân sách nhà nước góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách nhà nước trong những năm qua. f/ Đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động: Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động đã trực tiếp tạo ra hơn 300 ngàn việc làm mới cho 665000 người lao động và gián tiếp tạo ra hơn một triệu việc làm trong các ngành xây dựng và dịch vụ khác có liên quan, tạo ra khối lượng hàng hoá xuất khẩu giá trị hàng trăm triệu USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.Đầu tư nước ngoài đã kích thích việc đào tạo cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí và công nhân lành nghề, thúc đẩy nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, góp phân đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiện cho chúng ta học tập những phương thức quản lý kinh doanh mới, tạo ra sức ép cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm… 4/Những vấn đề đang đặt ra và những thách trở ngại đối với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam: Bên cành những tích cực và lợi ích do đầu tư nước ngoài đem lai thì hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua đã đặt ra nhiều bức bách cần phải có biện pháp giải quyết cụ thể nhăm nâng cao vai trò và tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế, đó là: Các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn, mức độ rủi ro tương đối cao hơn so với các nước khác trong khu vực. Dòng FDI vào Việt Nam tuy có tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm dần. Tình hình này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, suy thoái kinh tế ở Nhật và một số nước khác. Ngoài ra Việt Nam còn chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối tác trong vấn đề thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Khác với các nước đang phát triển ở châu á như Trung Quốc, NICK và một số nước ở ASEAN, Việt Nam là một nước đi sau về phát triển nền kinh tế thị trường và thời gian mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thử thách trong vấn đề thu hút nguồn vốn FDI từ bên ngoài. Về mặt này sức ép cạnh tranh đối với Việt Nam sẽ lớn hơn, do các yếu tố của nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, hệ thống luật pháp chưa được hoàn thiện, con người chưa được chuẩn bị đầy đủ … Đầu tư nước ngoài được lợi trong việc bảo hộ khỏi canh tranh trong và ngoài nước trong các lĩnh vực như: lắp ráp ôtô, xe máy, hóa chất, xi măng, điện tử…Do đó mà có một câu hỏi không dễ dàng giải quyết là liệu mức đầu tư như những năm qua trong các ngành này có tiếp tục được như vậy hay không nếu như không có sự bảo hộ này. Một tỷ trọng nhỏ vốn đầu tư tập trung vào những hoạt động định hướng xuất khẩu và chủ yếu tập trung vào việc chế biến các sản phẩm sơ chế. Trong ngành chế tạo, vốn đầu tư tập trung vào các nganh dệt,da và may mặc với quy mô tương đối nhỏ. Các ngành này chỉ cần ít vốn đầu tư, các ngành khác mà có thể thu hút số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài như cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, bất động sản, dường như chậm tiến triển và đã đạt tới điểm bão hoà. Khoảng 60% luồng vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh và 10% dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước( chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước) trong khi đó các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm khoảng 30% vốn đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của các nhà đầu tư nước ngoài cho thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước ít linh hoạt và các nhà đầu tư nước ngoài khó liên doanh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Mặc dù tất cả các địa phương trong cả nước đều thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài nhưng vẫn có sự mất cân đối đáng kể về thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ và theo ngành kinh tế quốc dân. Phần lớn các dự án tập trung vào các thành phố lớn và các địa phương có nhiều thuận lợi như thành phố Hồ Chí Minh(khảng 25% tổng vốn FDI), Hà Nội(khoảng 21,1% tổng vốn FDI), Hải Phòng, Đồng Nai(khoảng 11,9% tổng vốn FDI), Bình Dương,Bà Rịa-Vũng Tàu. Đầu tư nước ngoài có tác động hạn chế đến các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung,Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu Long. Tỷ lệ thất bại của các dự án ở các địa bàn này cao hơn ở các địa bàn khác.Bên cạnh đó FDI cũng chỉ tập trung vào những ngành thu lợi nhuận lớn, thu hồi vốn đầu tư nhanh như khai thác dầu khí (32,2%) khách sạn và du lịch(20,6%). Từ năm 1994 trở lại đây đầu tư vào công nghiệp đã chiếm gần hai phần ba tổng vốn đầu tư nước ngoài , chủ yếu tập trung vào các cơ sở sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và chế biến nông, lâm, hải sản… nhưng trong lĩnh vực nông , lâm , ngư nghiệp nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn chỉ chiếm 5,98% trong giai đoạn 1996-2000. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh nhưng thấp hơn nhiều các nước trong khu vực, chính sách khuyến khích xuất khẩu chưa hấp dẫn, hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công nên giá trị gia tăng thấp,thiết bị máy móc chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện các dự án còn lạc hậu, giá cả cao, nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, lao động trong khu vực FDI chủ yếu là lao động phổ thông. Do khâu chuẩn bị đầu tư , sắp xếp và quản lí dự án đầu tư ở tầm vĩ mô không tốt nên số dự án bị giải thể, rút giấy phép đầu tư trong các năm 1994 trở lại đây tương đối nhiều, đưa đến sự thua thiệt cho cả bên nước ngoài và Việt Nam, gây nên sự mất tin nhiệm vào môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Một số hợp đồng đầu tư, dự án liên doanh ở tình trạng bất hợp lí, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã coi Việt Nam là nơi sử dụng những công nghệ cũ thải ra, gây ô nhiễm môi trường, nhiều công nghệ đưa vào Việt Nam đã được tính giá cao hơn nhiều so với thực tế. Nhiều loại nguyên vật liệu và phụ tùng công nghệ nhập khẩu cũng được tính giá cao, gây thiệt hại cho phía Việt Nam và làm lợi bất hợp pháp cho phía nước ngoài vì họ càng có điều kiện để nâmg cao vốn góp, để có thể tính giá thành sản phẩm cao, giảm bớt lợi nhuận chịu thuế. Ngoài ra việc tổ chức quản lí ở một số dự án liên doanh sau khi đi vào hoạt động chưa chặt chẽ, thiếu kinh nghiệm gây thua thiệt cho Việt Nam, vai trò bên Việt Nam bị lấn át do đội ngũ cán bộ bên Việt Nam yếu kém về trình độ chuyên môn, thiếu tinh thân trách nhiệm và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thân dân tộc. Do công tác xây dựng quy hoạch còn nhiều hạn chế, đồng thời chất lượng của một số quy hoạch phát triển ngành được duyệt cũng chưa cao, do chưa xác định đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng về mặt thị trường, quy mô, vốn đầu tư và nguồn vốn phát triển ngành, nên thời gian qua có tình trạng cấp giấy phép đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực và sản phẩm tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại như các dự án khách sạn, nước giải khát có ga, sản phẩm điện tử gia dụng…Chính điều này đã gây sức ép đối với sản xuất trong nước và sự giải thể của một số dự án đầu tư nước ngoài. Việc tồn tại chính sách hai giá và việc áp dụng những loại phí khác nhau giữa đu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhất là giá cước hàng không giá điện chi phí quảng cáo…Cho nên chi phí đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực như: giá điện sản xuất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Bangkok-Thái Lan, Kualumpur-Malaixia và Jakarta-Inđônêxia; giá cước vận chuyển container ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với ở Thượng Hải-Trung Quốc, Singapore, Bangkok, Kualumpur, Jakarta, và Manila-Philippin, cước điện thoại quốc tế ở Việt Nam cao hơn từ 2,6 đến 5 lần so với các nước đó. Ngoài ra, mức thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao ở Việt Nam cũng làm tăng chi phí đầu tư cuả các nhà đầu tư nước ngoài. Các thủ tục hành chính ở Việt Nam cũng thường phức tạp và tốn thời gian hơn so với các nước trong khu vực. Chính những điều này đã làm giảm đáng kể các biện pháp khuyến khích dưa ra đối với đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật, chính sách của chúng ta đang trong quá trình hoàn chỉnh nên thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, các cơ chế chính sách tài chính, đặc biệt là lĩnh vực thuế chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro do chính sách hay thay đổi và không rõ ràng làm ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh và gay thiệt hại cho các nhà đầu tư. Cơ sở hạ tầng yếu kém, khó khăn trong chuyển đổi ngoại tệ, chi phí đắt đỏ. Công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch cụ thể trong cả nước cũng như từng vùng, từng địa phương chưa được thực hiện nhằm đảm bảo yêu cầu, điều kiện mới gắn với quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội. Công tác tuyên truyền vận động xúc tiến đầu tư còn thụ động, nghiên cứu đối với nước ngoài còn nhiều khiếm khuyết do thiếu nhiều thông tin. Công tác quả lí nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn yếu kém và sơ hở, vừa buông lỏng ,vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Thủ tục đầu tư còn phức tạp, còn nhiều tiêu cực gây khó khăn cho quá trình triển khai dự án, tốn kém thời gian, tiền của của nhà đầu tư, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gây khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như các văn bản hướng dẫn về thuế, quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ kế toán của bộ tài chính, hướng dẫn chuyển giao công nghệ, nhập máy móc thiết bị qua sử dụng, công nghệ cao, xử lý môi trường của bộ khoa học, công nghệ và môi trường…Nhiều doanh nghiệp tiếp tục kiến nghị chính phủ về những bất cập trong chính sách thuế, hải quan gây cản trở cho các sản xuất của doanh nghiệp, lãng phí thời gian của các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước. Việc triển khai một số dự án còn tiếp tục gặp khó khăn trong khâu giải toả mặt bằng, chuẩn bị đất đai gây lãng phí rất nhiều công sức, kinh phí và thời gian của các nhà đầu tư, đặc biệt là các dự án quy mô lớn. Quy định hiện hành chưa rõ ràng thời gian giải phóng mặt bằng, chi phí ai chịu, vấn đề cưỡng chế di dời…Chi phí đền bù giải toả quá lớn, vượt ngoài dự kiến của chủ đầu tư, làm tăng chi phí chuẩn bị dự án là một trong những nguyên nhân gây trì trệ trong thực hiện đầu tư. Cân đối ngoại tệ cho các đầu tư nước ngoài đang là một vấn đề nổi lên, vì nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu đẫ đến thời kì phải trả vốn vay, trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trên của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu kì kinh doanh của doanh nghiệp. Các văn bản về sở hữu trí tuệ chưa rõ ràng và thực hiện mất thời gian, các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn chính phủ xây dựng các thể chế để ngăn chặn có hiệu lực tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là nạn hàng lậu, hàng giả, hàn nhái đang rất phổ biến và được bày bán ngang nhiên trên thị trường hiện nay.Thủ tục nhập khẩu hàng hoá còn phức tạp, nhiều hải quan cửa khẩu vẫn còn yêu cầu xuất trình kế hoạch nhập khẩu. Việc phân cấp uỷ quyền tong quản lý hoạt động đầu tư trưc tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả tốt nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Do nhiều bộ ngành chưa hướng dẫn cụ thể việc phân cấp cho địa phương nên dẫn đến tình trạng địa phương mất nhiều thời gian để hỏi ý kiến trước khi xử lý, kéo dài thời gian giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp, vượt quá thời gian quy định.Bên cạnh đó thì còn nhiều bộ phận chưa được đào tạo, thiếu kiến thức chuyên ngành, nên không nắm vững pháp luật, thiếu kinh nghiệm quốc tế. Nhận thức về vai trò của FDI chưa thống nhất, thiếu thông tin trong khu vực quả lý FDI, công tác liểm tra báo cáo chưa đồng bộ, thiếu kịp thời, chất lượng chưa cao ảnh hưởng tới quản lý vĩ mô của nhà nước. Thủ tục hành chính còn rườm rà tệ quan liêu thiếu trách nhiệm của một số bộ phận cán bộ công chức gây ách tắc cho việc triển khai dự án và sản xuất kinh doanh. Tình trạng “nhiều của nhiều khoá” vẫn đang diễn ra.Công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài tuy có cố gắng xong vẫn tập trung chủ yếu ở trong nước, trong khi đó thông tin về Việt Nam ở nước ngoài chưa đủ để đáp ứng cho các đối tác ở nước ngoài hợp tác, kinh doanh với chúng ta. Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ cho đầu tư nước ngoài của các cơ quan Việt nam ở nước ngoài và kể cả trong nước cũng chưa được quan tâm đúng mức. Mụch tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới đề ra còn gặp nhiều khó khăn do các điều kiện tiền đề thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chưa phát triển, sự hấp dẫn về đầu tư còn hạn chế và đặc biệt là sự cạnh tranh khốc liệt trong khu vực và quốc tế về thu hút đầu tư nước ngoài. Các nước châu á vốn là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư nước ngoài chủ yếu của Việt Nam ( như Đài Loan, Hông Kông, Nhật Bản, Singapo, Malaixia, Hàn Quốc và Thái Lan) liên tục giảm vốn đầu tư vào Việt Nam những năm gần đây. Trừ Nhật bản đang trong giai đoạn suy thoái kinh tế, các nước khác đều đã vượt qua cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ những nước này vẫn chưa tăng do các nhà đầu tư đã trở nên thận trong hơn và môi trường đầu tư vào Việt Nam kể từ sau cược khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực vẫn chưa có nhiều tiến chuyển và vượt trội hơn so với các nước ASEAN khác đặc biệt là Trung Quốc.Mặt khác sự gia nhập của Trung Quốc vào WTO và sự phục hồi của các nền kinh tế Đông á sẽ làm tăng mức độ canh tranh về đầu tư nước ngoài mà Việt nam sẽ phải đương đầu vào những năm tới. 5/ Giải pháp đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài : Hoạt động đầu tư nước ngoài có được thực hiện hay không, điều đó tuỳ thuộc vào cả hai phía, bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Vì vậy để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng thực chất lại gắn bó lại với nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc69145.DOC
Tài liệu liên quan