LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần hai.
NỘI DUNG CHÍNH.
I. Lý luận chung về ĐTTTNN 2
1.Quan niệm và tính tất yếu khách quan của hoạt động ĐTTTNN 2
1.1.Quan niệm về đầu tư trực tiếp. 2
1.2.Tính tất yếu khách quan của hoạt động ĐTTTNN 2
2. Đặc điểm của ĐTTTNN 3
3. Vai trò của hoạt động ĐTTTNN 4
3.1.Vai trò của hoạt động ĐTTTNN. 4
3.2. Một số hạn chế 5
II. Thực trạng ĐTTTNN tại Việt Nam 5
1. Một số nhận xét về môi trường đầu tư ở Việt Nam từ 1988 đến nay 5
2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay. 7
2.1 Giai đoạn 1988-2004. 7
2.2 Giai đoạn 2005 đến nay 12
3. Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam 15
3.1.Kết quả đạt được 15
3.2.Nguyên nhân và hạn chế 18
3.3.Những vấn đề đang đặt ra hiện nay 20
III. Một số giải pháp tăng cường nguồn vốn ĐTTTNN vào Việt Nam 21
1. Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI 21
2. Triển vọng thu hút nguồn vốn ĐTTTNN vào Việt Nam trong năm 2004 và những năm tới 24
3. Thu hut vốn đầu tư nước ngoài không chỉ bằng chính sách 25
4. Mục tiêu, phương hướng thực hiện. 27
Phần ba.
KẾT LUẬN 29
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/2001/NQ-CP về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Tiếp đó ngày 17/5/2002 chính phủ ra quyết định số 62/2002/QĐ-TTG ban hành danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu năm 2003, chính phủ thành lập cơ quan xúc tiến đầu tư chuyên trách quốc gia ( cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) nhằm tập trung đầu mối chỉ đạo và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài có hiệu quả hơn. Nhờ những cải tiến này, nhiều vấn đề về chính sách và cơ chế nhằm thu hút vốn FDI đã có chuyển động tích cực. Tính ổn định và thông thoáng của các chính sách cao hơn; thủ tục cấp phép đơn giản và thuận tiện hơn; tính chất minh bạch, rõ ràng không chồng chéo về các loại thuế đã được thể hiện; cơ chế hai giá đang được khắc phục từng bước nhằm tạo thế bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước. Tuy chưa phải là hoàn hảo song những chuyển động tích cực của chính phủ và sự quan tâm của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã và đang tạo thêm sức hấp dẫn mới cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả là từ năm 2001 hoạt động đầu tư nước ngoài đã có dấu hiện phục hồi dù còn chậm. Năm 2001 có 550 dự án đầu tư mới với số vốn đăng ký 550 triệu USD; tăng 41% về số dự án và tăng 28,4% về số vốn đăng ký so với năm 2000. Đến cuối năm 2002, đã có hơn 4.500 dự án ĐTTTNN đã được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký và tăng vốn lên trên 50 tỷ USD. Trừ các dự án đã giải thể trước thời hạn hoặc hết thời hạn hoạt động, hiện còn trên 3670 dự án đang có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là trên 39 tỷ USD. Trong số đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính, gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân. Tổng số vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp phép khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. ĐTTTNN chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 66% dự án và 64,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực này cũng thu hút trên 70% lao động và tạo ra trên 90% giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTTTNN. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21% số dự án và 29,5% vốn thực hiện và lĩnh vực nông-lâm ngư-nghiệp chiếm 13%số dự án và 6% vốn thực hiện.
Xét theo các hình thức đầu tư thì hình thức liên doanh chiếm tới 51% số vốn đăng ký và 30% số dự án, đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án, ĐTTTNN theo hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh va BOT chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án.
Xét theo khu vực các nước đầu tư vào Việt Nam thì khu vực Đông - Bắc Á (gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Kông) chiếm 55,4% về số dự án và 40,8% về số vốn đăng ký của tất cẩ các dự án đang còn hiệu lực. Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam từ năm 1997 đến 2002 có chiều hướng suy giảm, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và những hạn chế về khả năng khôi phục kinh tế (Xingapo vẫn giữ vị trí đứng đầu với 263 dự án và 7,2 tỷ USD vốn đăng ký). Đầu tư của các nước Châu Âu như: Pháp ,Hà Lan , Anh vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, Hoa Ky đứng ở vị trí 13, với hơn 1,1 tỷ USD vốn đăng ký.
Xét theo vùng và địa phương thì ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào vùng kinh tế trọng diểm miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Nam. Trong số các địa phương thu hút mạnh mẽ ĐTTTNN , thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí đứng đầu với 1224 dự án và 10394 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực ;tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương và Quảng Ninh, với tổng số 634 dự án, 9625 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực.
ĐTTTNN gia tăng liên tục trong nửa đầu thập niên 90. Sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, ĐTNN vào Việt Nam có suy giảm. Năm 2000 ĐTTTNN đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trong năm 2001, nhưng chưa mạnh. Năm 2002 vốn ĐTTTNN thu hút mới lại suy giảm rõ rệt, chỉ bằng gần 60% so với cung kỳ năm 2001 (với 1,3 tỷ USD).
Năm 2002, FDI đã chiếm tỷ trọng 18,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, là một nguồn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển và đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Tính đến ngày 31-12-2003, cả nước nước đã thu hút khoảng 5236 dự án đầu tư, trong đó có khoảng 4324 dự án đang hoạt động với số vốn đăng ký 40,8 tỷ USD ,vốn thực hiện khoảng 24,6 triệu USD. Riêng năm 2004 cả nước có thu hút hơn 4,2 tỷ USD , đầu tư mới tăng 35% so với năm 2003. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra năm 1997. Tính chung đến ngày 31-12-2004 vốn đăng ký là 45 tỷ USD, vốn thực hiện là 27,42 tỷ USD.
Hiện nay hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đều có dự án đầu tư nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa phương có cơ sở hạ tầng tốt, điều kiện thuận lợi như: TP Hồ Chí Minh (25%), Hà Nội (18%), Đồng Nai (16%), Bình Dương (9%) và 59 tỉnh thành phố khác (27%). Đối với sự phân bổ ngành, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam được phân bổ tương đối rộng, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp tuy có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhưng lượng FDI còn thấp. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sảncó tỷ trọng lớn, chiếm 1/3 tổng số vốn đăng ký, song vốn FDI vào một số ngành dịch vụ hiện đại còn chưa đáng kể do thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm phát triển. .
Đạt được con số 4,2 tỷ USD trong thu hút FDI của năm 2004 là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ.
Tuy số dự án cấp mới trong 4 năm 2001-2004 không nhiều nhưng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này vẫn tăng trưởng khá do nhiều dự án đã đi vào sản xuất ổn định. Vì vậy đóng góp của khu vực kinh tế FDI cho nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Tỷ trọng kinh tế FDI trong GDP năm 2000 là 13,28%; năm 2001 là 13,75%; năm 2002 là 13,76% và năm 2003 là 14,47%. Tỷ trọng công nghiệp FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp năm 2000 là 41,3%; năm 2001 là 41,5%; năm 2002 là 41,6% và năm 2003 chiếm 31,4%. Đóng góp của khu vực FDI cho nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng lớn và năm nào cũng vượt kế hoạch. Thu từ các doanh nghiệp có vốn FDI năm 2002 đạt 116,4% dự toán năm và tăng 28,2% so với năm 2001; năm 2003 đạt 109,5% và tăng 30% so với năm 2002; 8 tháng đầu năm 2004 thu từ doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) đạt 67,1% dự toán năm, thu về dầu thô đạt 84,2% dự toán năm và ước cả năm tăng trên 30% so với năm 2003. Một số tỉnh nghèo, kinh tế chủ yếu là thuần nông trước đây, thì ngày nay nhờ thu hút nhiều dự án FDI đã trở thành tỉnh khá và giàu, cơ cấu kinh tế và lao động chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu ngân sách tăng nhanh. Đó là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Đà Nẵng, Quảng Ninh. Do vậy, vai trò quan trọng và đóng góp của khu vực kinh tế FDI cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong 17 năm qua là điều khẳng định đã được thực tế cuộc sống chứng minh rõ ràng. Xu hướng phát triển theo chiều sâu, bền vững, tăng hiệu quả kinh tế xã hội cho cả hai phía: đối tác đầu tư và Nhà nước Việt Nam ngày càng trở thành phổ biến. Và xu hướng này đang được thực tế chứng minh trong 4 năm đầu thế kỷ 21. rong 17 naa
2.2 Giai đoạn 2005 đến nay.
Năm 2005: Quốc hội Việt Nam đã và sẽ thông qua 20 luật , là số lưọng luật được thông qua nhiều nhẩttong 1 năm kể từ trước đến nay, trong đó có Lụât đầu tư và Luật doanh nghiệp thống nhất.
Năm 2004 đến nay, tính chung Việt Nam đã thu hút được hơn 18 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới , 13,6 tỷ USD vốn FDI thực hiện. Ước tính khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện đóng góp hơn 14% GDP, hơn 20% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, và hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong 5 năm qua, khu vực này đóng góp 1 tỷ USD / năm vào Ngân sách nhà nước , tạo việc làm cho gần 800000 lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp.
Các nhà đầu tư ,các tổ chức quốc tế ngày càng tin tưởng vào Việt Nam: Việt Nam là đất nước ổn định và thanh bình, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao và thu nhập người dân ngày càng tăng lên, do vậy nhu cầu nội địa cũng tăng theo, cộng động quốc tế ngày càng tin tưởng vào những nỗ lực và quyết tâm hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Niềm tin đó được thể hiện qua hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG 2004) với con số cam kết ODA lên tới trên 3 tỷ USD.
Trong dự thảo luật đầu tư mới, quy mô đầu tư phải xem xét chỉ với các dự án lớn, có vốn đầu tư khoảng 20 triệu USD chiếm chừng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu điểm sẽ đơn giản hơn các thủ tục thẩm định. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế.
10 nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ( tính đến tháng 10/2005) – Tr.USD
STT
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn đầu tư
vốn thực hiện
1
Đài Loan
1.384
7.739,90
2.961,44
2
Singapore
383
7.508,93
4.180,78
3
Hàn Quốc
1.004
5.391,92
2.504,74
4
Hồng Kông
351
3.683,71
1.940,50
5
B.V.Islands
243
2.623,56
1.267,26
6
Pháp
162
2.136,86
1.165,36
7
Hà lan
60
1.886,33
1.784,53
8
Thái Lan
125
1.474,08
716,82
9
Malaysia
175
1.471,38
843,51
10
Hoa Kỳ
245
1.398,48
739,23
10 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
địa phương
số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
TP. HCM
1.772
11.937,64
5.963,94
2
Hà Nội
636
9.236,43
3.154,63
3
Đồng Nai
688
8.408,88
3.731,94
4
Bà Ria-Vũng Tàu
119
2.177,35
1.224,52
5
Hải Phòng
178
1.948,88
1.203,92
6
Dầu khí ngoài khơi
27
1.891,19
4.555,11
7
Vĩnh Phúc
87
726,42
413,67
8
Thanh Hoá
16
701,96
410,35
9
Long An
94
690,23
292,58
10
Hải Dương
72
627,50
376,01
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo các lĩnh vực (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
Lĩnh vực
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
CN nặng
1.161
12.210,08
6.326,31
2
CN nhẹ
1.633
8.206,71
3.189,37
3
Xây dựng
304
3.942,21
2.157,90
4
CN thực phẩm
257
3.083,78
1.882,98
5
CN dầu khí
27
1.891,19
4.555,11
6
Nông-Lâm nghiệp
649
3.367,28
1.678,27
7
Thuỷ sản
110
303,47
152,22
8
Xây dựng văn phòng, căn hộ
110
3.884,11
1.692,61
9
GTVT-Bưu điện
158
2.907,51
716,68
10
Khách sạn-Du lịch
171
2.849,07
2.121,81
11
XD khu đô thị mới
4
2.551,67
51,29
12
Dịch vụ khác
416
1.112,82
350,99
13
Văn hóa-Ytế-Giáo dục
201
1.103,26
273,05
14
XD hạ tầng KCX-KCN
20
986,10
521,37
15
Tài chính-Ngân hàng
53
702,55
611,93
3. Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
3.1 Kết quả đạt được.
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 29-12-1987 ,Quốc hội nước ta đã thông qua và ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trải qua hơn 15 năm thi hành luật với 4 làn sửa đổi bổ sung, cùng với những thành tựu chung của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta đã đạt được những kết quả khả quan, đáng khích lệ, thể hiện trên các mặt sau đây:
* Về cơ cấu ngành: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 2885 dự án, vốn đăng ký 232l3,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký); nông nghiệp 596 dự án với vốn đăng ký 2898,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự án; 7,1% vốn đăng ký); dịch vụ 843 dự án với vốn đăng ký 14682,7 triệu USD (chiếm 20,41% số dự án; 36% vốn số đăng ký).
* Về phân bổ dự án: hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa phương có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu. Những địa phương này chiếm tới 74,8% tổng số dự án và 74,7% tổng số vốn đầu tư của cả nước.
* Về đối tác đầu tư: đến nay đã có hơn 75 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhưng các nhà đầu tư lớn chủ yếu đến từ các nước châu Á như. Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công, Nhật Bản, Singapo. Những nước này chiếm tới 60,12% số dự án và 58,4l% số vốn đầu tư.
* Về hình thức đầu tư: hình thức liên doanh chiếm 51% vốn đăng ký và 30% số dự án, hình thức đầu tư l00% vốn nước ngoài chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án. Cụ thể về kết quả đạt được thể hiện :
Thứ nhất, chúng ta đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khá lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Từ đầu năm 1998 đến giữa năm 2002, Nhà nước ta đã cấp 4047 giấy phép đầu tư nước ngoài với số vốn 41,5 tỷ USD , cộng với số vốn đối ứng trong nước 7,05 tỷ USD thì tổng số vốn đăng ký lên tới 48,6 tỷ USD; trong đó có 3264 dự án đang hoạt động với số vốn đăng ký là 38,3 tỷ USD , giải ngân được 22 tỷ USD. Đây là một nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, bởi vì muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và ổn định phải huy động được 30% GDP vào đầu tư phát triển , nhưng thực tế nhiều năm qua chúng ta chỉ huy động được gần 20% GDP , thiếu hụt 10%. Mức thiếu hụt này đước bù đắp chủ yếu bằng nguồn FDI. Hơn nữa ,so với các nguồn vốn khác,FDI có nhiều cái lợi , ít nhất có ba tác động: 1) Kích thích các công ty khác tham gia đầu tư;
2) Là tác nhân thu hút viện trợ phát triển chính thức;
3) Gia tăng tốc độ tăng trưỏng kinh tế và do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước.
Năm 2002 có 802 dự án đầu tư với số vốn đăng ký 1621 triệu USD và năm 2003 có 748 dự án đầu tư mới với số vốn đăng ký 1899,6 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2004 có 650 dự án và 1745,9 triệu USD vốn đăng ký, tăng 8,1% số dự án và tăng 21,2% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2003. Vốn đăng ký bình quân một dự án là 2,7 triệu USD. Bên cạnh các dự án đầu tư mới đang tăng chậm, nhiều dự án đã đầu tư bổ sung để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh lâu dài ở Việt Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2003 có 266 lượt dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư, 623,4 triệu USD. Nét mới trong thời kỳ này là các dự án không còn tập trung vào vùng đông nam bộ, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh như trước đó mà đã chuyển dần đến các vùng khác như các tỉnh phía bắc, miền trung, đồng bằng sông Cửu Long…Trong số 747 dự án đầu tư mới năm 2003 với số vốn đăng ký 1884 triệu USD có 215 dự án và 688 triệu USD ở các tỉnh phía Bắc; 76 dự án và 236 triệu USD ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long; 456 dự án và 961 triệu USD ở vùng đông nam bộ. Đã xuất hiện một số địa bàn thu hút vốn đầu tư mới với quy mô lớn như Long An, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Phú Thọ, Nghệ An, Hải Phòng, Quảng Ninh và một số tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên. Lĩnh vực đầu tư cũng đã chuyển mạnh sang các ngành sản xuất thay cho dịch vụ. Ngành công nghiệp có 556 dự án với 1438 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 74,3% số dự án và 75,7% số vốn đăng ký; ngành nông lâm nghiệp có 29 dự án và 47,3 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 3,8% số dự án và 2,5% vốn đăng ký; các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn có 88 dự án và 184 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 11,7% số dự án và 9,7% vốn đăng ký. Khu vực khách sạn nhà hàng chỉ có 20 dự án và 140 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 2,6% số dự án và 7,4% số vốn đăng ký, thấp hơn nhiều so với các thời kỳ trước đây.
Thứ hai, FDI góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. Nhờ đẩy mạnh thu hút FDI chúng ta có điều kiện tiếp nhận các công nghệ thích hợp của thế giới nhằm vừa phát triển một số ngành kinh tế với công nghệ hiện đại như cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông ,thăm dò và khai thác dầu khí, lắp ráp ôtô, xe máy… ,vừu đổi mới cải tạo và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất hiện có như cơ khí chế tạo, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng…Cũng nhờ FDI , đã hình thành các khu công nghiệp , khu chế xuất với trình độ công nghệ khá cao. Chính các doanh nghiệp FDI đã sản xuất và đưa ra thị trường nhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập khẩu và có nhiều sản phẩm đã có mặt trên thị trường thế giới. Giá trị sản phẩm của các doanh nghiệp FDI năm 2000 đã chiếm tỷ trọng 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 13,3% GDP cả nước. Chính FDI cũng đã đóng góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định của nước ta giai đoạn 1991-2000 với tỷ lệ trên 7%/ năm.
Thứ ba, FDI góp phần giải quyết việc làm và quan trọng hơn là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 45 vạn lao động và trên 1 triệu người có lao động gián tiếp, giải quyết được phần nào tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng hiện nay. Mức thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn 2 lần so với các doanh nghiệp trong nước. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn là các doanh nghiệp FDI đã góp phần đào tạo và đào tạo lại lực lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh. Đã có khoảng 30 vạn lao động, 25 nghìn cán bộ kỹ thuật và hơn 6 nghìn cán bộ được đào tạo và đào tạo lại, không những nâng cao trình độ tay nghề mà còn thay đổi tư duy và phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại, là lực lượng tiếp thu và chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ. Điều đáng mừng là có nhiều lĩnh vực mới mẻ, khó và phức tạp nhưng cán bộ và công nhân ta đã thay thế được người nước ngoài và đã có khả năng làm việc độc lập và có kết quả.
Thứ tư, FDI góp phần quan trọng vào việc mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Đối với thị trường trong nước, nhiều sản phẩm hàng hoá được sản xuất tại các doanh nghiệp FDI mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã chiếm thị phần lớn hoặc toàn bộ thị trường trong nước với chủng loại phong phú, chất lượng tốt, hình thức hấp dẫn, giá cả phải chăng, có thể cạnh tranh và thay thế hàng ngoại nhập. FDI cũng tham gia mở rộng thị trường dịch vụ như tư vấn, bảo hiểm, ngân hàng tín dụng, khách sạn du lịch…về gián tiếp, do thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI được nâng lên, cầu và sức mua của một bộ phận dân cư tăng làm cho thị trường nội địa cũng sôi động lên. Quan trọng hơn là các doanh nghiệp FDI đóng phần đáng kể vào việc mở rộng thị trường ra khu vực và thế giới, tăng kim ngạch xuất khẩu. Nếu như kim ngạch xuất khẩu của FDI năm 1991 chỉ đạt 4% thì năm 2000 đã lên 33,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (trừ dầu thô), riêng sản phẩm công nghiệp chế tạo của FDI đạt tỷ trọng 56,8% kim ngạch xuất khẩu của ngành này.
Từ năm 1997 trở đi đã có trên 70% dự án FDI có trên 50% sản phẩm được xuất khẩu. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia, có quan hệ kinh tế và bạn hàng rộng rãi trên thế giới nên là lực lượng quan trọng khai thông và mở đường cho kinh tế nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, FDI góp phần lành mạnh hoá các thể chế kinh tế-tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua hoạt động của các doanh nghiệp FDI, các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế trên đất nước ta vừa là điều kiện, vừa là đòi hỏi cấp thiết phải đổi mới thể chế tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, tài chính cho phù hợp với nguyên tắc thị trường, xoá bỏ tình trạng độc quyền và cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp còn rơi rớt lại. Hơn nữa, mỗi năm FDI đưa vào nước ta số vốn khoảng 2-3 tỷ USD gồm cả máy móc, thiết bị và ngoại tệ mạnh, góp phần quan trọng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn là, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp FDI và quản lý, chúng ta đã tạo điều kiện thay đổi tư duy và phong cách, phương pháp quản lý phù hợp với cơ chế thị trường. Qua các cuộc đối thoại trực tiếp với các nhà quản lý doanh nghiệp FDI mà chính phủ, các bộ, các địa phương nắm rõ hơn tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc của họ để chủ động tháo dỡ khó khăn và hoàn thiện hơn cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế đặc thù này.
3.2.Nguyên nhân và hạn chế
Đạt được các thành quả trên là nhờ:
- Ổn định chính trị: môi trường chính trị- xã hội của Việt Nam được đánh giá là ổn định và lành mạnh. Tại Việt Nam độ an toàn của FDI được đảm bảo, theo công ty tư vấn rủi ro chính trị và kinh tế (PERC) của Hồng Kông đã xếp Việt Nam vào vị trí số 1 trong khu vực sau sự kiện 11/9.
- Nền kinh tế của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao cùng với việc triển khai thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và các thoả thuận kinh tế song phương, đa phương đã tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp các doanh nghiệp khắc phục trở ngại thị trường.
- Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện cả về môi trường pháp lý. Với Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi vào năm 2000 đã mở rộng thời hạn hướng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi, huỷ bỏ việc đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, chuyển đổi hình thức đầu tư, chia tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp…, cơ sở hạ tầng cũng như các yếu tố liên quan đến chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh. Một số chi phí đầu vào (cước phí viễn thông, điện, nước, vận chuyển hàng không, thuế thu nhập cá nhân…)được cắt giảm lộ trình áp dụng cơ chế một giá đã hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mặc dù hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực trong thời gian qua nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần khắc phục như sau:
- Với con số 4,2 tỷ trong thu hút FDI của năm 2004 là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ. Nhưng con số này chỉ bằng năm 1994 và bằng ½ so với năm 1996, theo đánh giá của nhiều chuyên gia vẫn còn ở dưới mức tiềm năng của Việt Nam, còn rất thấp so với các nước trong khu vực và so với nhu cầu thu hút vốn đầu tư nhằm góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.
- Số dự án triển khai chậm, tạm ngừng và giải thể có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Hiện tượng này làm nản lòng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động và cả những nhà đầu tư đang có ý định muốn đầu tư vào Việt Nam, làm xấu môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Tỷ lệ các dự án công nghệ cao do các tập đoàn xuyên quốc gia ( TNCS) còn thấp, làm hạn chế khả năng chuyển giao công nghệ tiên tiến qua hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Trước nhu cầu về nguồn nhân lực có kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế tri thức nói chung và của các nhà đầu tư nói riêng, Việt Nam đã chú trọng nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục- đào tạo theo hướng chuyên nghiệp. Lao động Việt Nam có lợi thế là cần cù, chăm chỉ và ít bạo loạn, nhưng chất lượng lao động của Việt Nam trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, cán bộ làm việc trong các liên doanh còn nhiều hạn chế về kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật và thương trường.
- Trong nhiều năm nay Việt Nam đã tập trung vốn vào xây dựng quy hoạch đô thị, cải thiện hệ thống giao thông nhưng chất lượng của các hàng hoá, dịch vụ công cộng còn thấp. Hiện nay có 25% mạng lưới đường bộ được rải nhựa, đường sắt chỉ có 01 chiều, ngành hàng không còn ít máy bay với mạng lưới bay hẹp và cảng hàng không nhỏ. Bên cạnh đó các cảng biển của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực, việc cung cấp điện thiếu ổn định và cắt điện đột xuất, gây ra nhiều chi phí phụ lớn cho người sử dụng điện và cản trở các nhà đầu tư bỏ vốn vào công nghệ cao ở Việt Nam. Do đó, dưới con mắt các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam vẫn là nước có hệ thống cơ sở hạ tầng nghèo nàn và kém hấp dẫn nhất trong số các nước ngoài khi so sánh.
- Tỷ lệ góp vốn của Việt Nam còn thấp, chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất đai.
- Tình trạng khai tăng giá trị vật tư, thiết bị của các nhà đầu tư nước ngoài khi góp vốn liên doanh cũng là một tồn tại hoặc chuyển giao công nghệ cao nhưng thực chất là thiết bị cũ kỹ lạc hậu được tân trang lại.
- Tình trạng vi phạm luật pháp, đặc biệt là luật lao động tuy không phải là hiện tượng phổ biến nhưng cũng là vấn đề cần quan tâm.
3.3. Những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Bên cạnh những kết quả khởi sắc đáng ghi nhận, hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, cần có các giải pháp tích cực và đồng bộ.
Một là, tính bền vững không cao. Trong 17 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài (1988-2004) chỉ có 6 năm 1991-1996 hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát triển toàn diện và tăng trưởng với tốc độ cao, 11 năm còn lại phát triển không ổn định hoặc giảm sút. Xu hướng này xuất hiện trước hết ở các trung tâm công nghiệp và thương mại như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mà nguyên nhân chủ quan là do thủ tục hành chính nhiêu khê nhưng chậm sửa đổi. Một thực tế đáng suy nghĩ là không ít nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển dự án từ 2 thành phố này ra các tỉnh xung quanh trong những năm gần đây dù cơ sở hạ tầng yếu kém hơn.
Hai là, cơ cấu đầu tư không hợp lý: tỷ lệ vốn đầu tư cho khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, cho các vùng n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0212.doc