MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mở đầu
I - Lý do chọn đề tài:
2/ Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
3/ Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
4/ Đối tượng nghiên cứu:
5/ Thời gian nghiên cứu:
6/ Phương pháp nghiên cứu:
Nội dung chính
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1/ Cơ sở lý luận:
2/ Cơ sở thực tiễn:
Chương II
Các kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại
qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 3 chương trình 2000
2.1/ Mục đích yêu cầu của kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 3 chương trình 2000:
2.2/ Thống kê nội dung các chủ điểm được dạy của kiều bài cung cấp lý thuyết dùng từ loại cho học sinh lớp 3 thông qua phân môn luyện từ và câu.
2.3/ Dạy luyện từ và câu:
2/ Biện pháp dạy học chủ yếu
Chương III
Quy trình dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại
Qua phân môn luyện từ và câu lớp 3 chương trình 2000
3.1/ Biện pháp dạy kiều bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện từ và câu lớp 3 chương trình 2000:
3.2/ Quá trình dạy các kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và câu:
3.3/ Phương pháp và hình thức tổ chức dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và chương trình 2000:
Chương IV
Thực nghiệm thiết kế bài giảng
Bài 1: Luyện từ và câu
Bài 2: Luyện từ và câu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10057 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện từ và câu lớp 3 - Chương trình năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guyên tắc giáo dục học. Nguyên tắc dạy vàv học Tiếng việt phải cụ thể hoá mục tiêu và nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ môn cuả mình. Ngoài ra, việc dạy từ loại trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh cần dựa trên cơ sở quy luật chi phối quá trình dạy học Tiếng việt. Bởi vì, môn Tiếng việt có những quy luật riêng được khái quát từ thực tiễn dạy học bộ môn này. Trên cơ sở những quy luật nguyên tắc để đề ra một phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy và Tiếng việt xác định nội dung dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn.
- Sự phát triển tâm lý ở từng lứa tuổi, từng giai đoạn có liên quan đến việc tiếp nhận tiếng mẹ đẻ. Phương pháp dạy học Tiếng việt đã vận dụng quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của học sinh Tiểu học vào bộ môn của mình. ở giai đoạn đầu của bậc tiểu học, tri giác của trẻ mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết mang tính không chủ định, phân biệt đối tượng chưa chính xác. Vì vậy trong dạy học giáo viên cần sử dụng đồ dùng trực quan, tài liệu học sinh động, tổ chức nhiều hình thức dạy học phong phú, hấp hẫn.
1.1/ Mục tiêu môn Tiếng việt chương trình 2000:
Giáo dục trong nhà trường tiểu học hiện nay nhấn mạnh mục đích đào tạo con người phát triển toàn diện: Có đức, có tài, có khả năng thích ứng với cuộc sống. Mục tiêu của môn Tiếng việt ở nhà trường tiểu học nói chung là:
a/ Hình thành và phát triển các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh nhằm giúp các em sử dụng Tiếng việt có hiệu quả trong học tập và giao tiếp ở gia đình, nhà trường và xã hội.
b/ Góp phần cùng với môn học khác phát triển năng lực tư duy cho học sinh.
c/ Trang bị cho học sinh những hiểu biết ban đầu về văn học, văn hoá và ngôn ngữ văn hoá thông qua một số sáng tác văn học và một số loại văn bản khác của Việt Nam và thế giới, nhằm hình thành ở các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng rung cảm trước cái đẹp, những buồn vui, yêu ghét của con người.
d/ Góp phần hình thành nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi đúng đắn của con người Việt Nam hiện đại trong quan hệ gia đình và xã hội.
So với chương trình cải cách giáo dục, mục tiêu chương trình 2000 được diễn đạt súc tích, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. ở mục tiêu thứ nhấ, các soạn giảng đã đặc biệt chú trọng việc hình thành và phát triển các kỹ năng lời nói, kỹ năng giao tiếp, ở mục tiêu hai đã được hiểu và phát triển cả tư duy lôgíc lẫn tư duy trừu tượng.
Chương trình Tiếng việt Tiểu học năm 2000 đặc biệt chú trọng nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kỹ năng sử dụng Tiếng việt. Phát triển 4 kỹ năng lời nói làm cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ và giúp trẻ sử dụng tốt Tiếng việt trong giao tiếp.
So với chương trình cải cách giáo dục, chương trình 2000 tuy vẫn coi trọng các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết những đã chú ý đúng mức hơn tới nhiệm vụ rèn luyện các kỹ năng nghe, nói. Các bài tập thực hành trong chương trình có nhiều cái mới như: Tập đóng vai, tập phát biểu ý kiến, nói viết theo tưởng tượng, trí nhớ. Chương trình cải cách giáo dục có chú ý dạy giao tiếp và hình hành phát triển các kỹ năng lời nói nhưng sự chú ý chưa đầy đủ, đúng mức và coi nhẹ việc rèn luyện kỹ năng nghe, nói. Cụ thể là nặng về dạy lý thuyết, chưa có bài tập dạy cho học sinh biết nghe, tổ chức dạy nói học sinh nói chưa tốt, kỹ năng đọc được rèn qua các bài tập đọc song chú ý đến số lượng bài hơn là chất lượng, đọc diễn cảm có được dạy song dựa vào kinh nghiệm của mỗi giáo viên chưa có bài tập dạy cho học sinh đọc thầm, đọc lướt, nắm ý. Kỹ năng viết được dạy nhiều ở các dạng bài tập làm văn song lại có xu hướng chỉ chú ý đến những thể văn mang sắc thái nghệ thuật….
Chương trình 2000 đạt được mục tiêu rèn luyện kỹ năng lên hàng đầu nhưng không coi nhẹ việc dạy tri thức Tiếng việt. Những tri thức được chọn lọc đưa vào chương trình là những tri thức làm cơ sở cho việc hình thành kỹ năng, đồng thời cũng cung cấp cho học sinh một số vốn ban đầu để các em nắm vững vàng học lên cấp 2, chuẩn bị cho việc phổ cập THCS ở Việt Nam vào năm 2010.
1.2/ Nguyên tắc xây dựng chương trình:
Bộ môn Tiếng việt tong nhà trường tiểu học là sự kết hợp của 6 phân môn từng phân môn đều tuân theo nguyên tắc dạy học nói chung… Song việc chỉ đạo xây dựng chương trình Tiếng việt 2000 tuân theo 3 nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc dạy học Tiếng việt thông qua hoạt động giao tiếp; Nguyên tắc tận dụng những kinh nghiệm sử dụng Tiếng việt của học sinh; Nguyên tắc tích hợp.
Dạy Tiếng việt phải qua hoạt động giao tiếp thì nói, nghe, đọc, viết là 4 kỹ năng giao tiếp chỉ được hình thành và phát triển thông qua giao tiếp mà không thể qua con đường nào khác. Việc lựa chọn nội dung chương trình đã coi trọng quan điểm “dung hoà” tức là đưa vào chương trình sách giáo khoa những văn bản có sẵn để rèn kỹ năng tiếp nhận và sản sinh văn bản, đồng thời vẫn có một tỷ lệ cần thiết những bài dạy gắn với những tình huống giao tiếp tự nhiên mà vẫn là điển hình và giàu tính sư phạm. Dựa trên mối quan hệ qua lại giữa 2 quá trình lĩnh hội và sản sinh văn bản trong giao tiếp, chương trình sắp xếp nội dung học đọc, học viết song song với nội dung học nghe, học nói ở tất cả các lớp. Nội dung học đọc, học viết chiếm tỷ lệ cao hơn sơ với nội dung học nghe, học nói ở các lớp 1, 2, 3 nội dung học nghe chiếm tỷ lệ cao hơn so với nội dung học nghe, nói ở lớp 4, 5. Sự sắp xếp đó có dụng ý: Dùng hình thức giao tiếp bằng lời (nghe nói) làm cơ sở để học cách giao tiếp bằng chữ (đọc, viết) sau đó dùng hình thức giao tiếp bằng chữ làm cơ sở để hoàn thiện hình thức giao tiếp bằng lời
Những học sinh coi Tiếng việt là tiếng mẹ đẻ bước vào lớp 1 đã có trong hành trang một số vốn từ, một số kiểu câu, quy tắc giao tiếp và các em đã biết sử dụng chúng trong giao tiếp ở mức tự giác còn thấp, giáo viên dạy Tiếng việt trong nhà trường Tiểu học không thể quen đặc điểm này để khai thác cái vốn mà trẻ đã có.
Môn Tiếng việt đặc biết chú trọng dạy Tiếng việt tích hợp với dạy văn hoá các bài học dùng ngữ điệu là các tác phảam hay đoạn trích tác phẩm văn học có giá trị nội dung nghệ thuật cao. Nhờ đó trẻ em bước đầu được tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, rung cảm trước vẻ đẹp của nó, nắm được một số đặc điểm chính của nó. Để vận dụng trong việc tiếp nhận các tác phẩm văn học phù hợp với lứa tuổi và trong việc sáng taọ lời nói. Nhờ dạy Tiếng việt tích hợp với dạy học sinh còn được bước đầu làm quen với một số khái niệm (Tác phẩm, tác giả, nhân vật, thể loại…) có một số kỹ năng cơ bản, kể chuyện, tóm tắt, tìm đại ý… để vận dụng trong học tập trên lớp, thưởng thức nghệ thuật ngoài lớp; Bước đầu tiếp xúc với các hình tượng văn học, rung cảm trước những buồn, vui, yêu, ghét của con người, hình thành và phát triển nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi đúng đắn trong cuộc sống.
1.3/ Các phương pháp dạy học Tiếng việt chủ yếu:
Chương trình Tiếng việt năm 2000 coi trọng hình thức học cá nhân và học theo nhóm ngay trong giờ học với những tài liệu học tập phong phú về thể loại và hấp dẫn học sinh. Coi trọng phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tiếng việt là dạy học theo tình huống nhằm kích thích những ứng xử bằng ngôn ngữ mang tính sáng tạo của trẻ em, đồng thời phát huy những ưu thế của các phương pháp dạy học truyền thống (nêu vấn đề, đàm thoại, gợi mở…)
ở giai đoạn đầu của bậc tiểu học, việc sử dụng hình ảnh minh họa, trò chơi ngôn ngữ, trò chơi đóng vai, hình thức học bằng thảo luận, đàm thoại có vai trò quan trọng, ở giai đoạn thứ hai cần phối hợp thêm nhiều phương pháp và hình thức khác khi tổ chức dạy các bài học, như phương pháp chương trình hoá nêu vấn đề, thực hành giao tiếp, tổ chức học nhóm, cá nhân tự học… nhằm phát triển năng lực năng lực tư duy, nâng cao năng lực ứng xử bằng Tiếng việt cho học sinh, giúp các em nắm được phương pháp học, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Cá thể hoá việc học và đảm bảo nhịp độ phát triển của mỗi cá nhân. Với các phân môn tích hợp dạy Tiếng việt với văn học như tập đọc, kể chuyện, tập làm văn, giáo viên cần đặc biệt tôn trọng và khuyến khích cái riêng, cái mớu, cái độc đáo, sáng tạo trong suy nghĩ và cảm thụ của mỗi em. Việc sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên cần đạt được mục đích. Làm cho giờ học được thực hiện vui, nhẹ nhàng, thiết thực làm cho mỗi học sinh đều có niềm vui vì đã thành công.
Đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ trọng tâm. Sách giáo khoa có nhiệm vụ thể hiện và tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học; Trong đó thầy cô đóng vai trò tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, được bộc lộ ý kiến của mình và được phát triển.
So với sách giáo khoa cải cách giáo dục và các phương pháp dạy Tiếng việt mà sách giáo viên hướng dẫn, các phương pháp dạy Tiếng việt, đặc biệt là dạy luyện từ và câu chương trình 2000 mang tínhưu việt hơn, điểm nổi bật nhất là phát huy tính tích cực, chủ động và gây hứng thú học tập cho học sinh, góp phần đào tạo thế hệ mới năng động, sáng tạo, tích ứng với sự phát triển của xã hội.
1.4/ Phân bố chương trình sách giáo khoa:
Tuân theo những mục tiêu và nguyên tắc đã trình bày trên đây nội dung chương trình Tiếng việt ở Tiểu học bao gồm những bộ phận sau:
- Kỹ năng sử dụng Tiếng việt (nghe, đọc, nói, viết)
- Tri thức Tiếng việt (Một số hiểu biết, tối thiểu về hữu ích, về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp…)
- Tri thức về văn học, về xã hội và tự nhiên (một số hiểu biết tối thiểu về sáng tác văn học, các tiếp cận chúng về con người và đời sống tinh thần, vật chất của học sinh, về đất nước và dân tộc Việt Nam).
Nội dung này được sắp xếp theo 2 giai đoạn phát triển:
a/ Giai đoạn 1 (các lớp 1, 2, 3).
Nội dung có nhiệm vụ hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết, định hướng, việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn Tiếng việt mà trẻ em đã có. Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là những bài thực hành: Đọc, viết, nghe, nói. Tri thức Tiếng việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra từ bài thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua hoạt động thực hành. Phần “tri thức” có trong nội dung chương trình của lớp 1, 2, 3 chỉ có ý nghĩa xác định những tri thức cần học sinh làm quen.
b/ Giai đoạn 2 (các lớp 4, 5)
Nội dung chương trình nhằm phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói lên một mức độ cao hơn, trong đó có yêu cầu: Viết hoàn chỉnh một số văn bản và đọc hiểu được đặc biệt coi trọng. Học sinh ở giai đoạn này đã bước đầu được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng việt, làm nền móng vững chắc cho sự phát triển kỹ năng. Bên cạnh những bài học thực hành các em còn học về những bài tri thức Tiếng việt (từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách…) những bài học này cũng không phải là lý thuyết đơn thuần trực tiếp nhận hoàn toàn bằng con đường tư duy, trừu tương mà chủ yếu bằng nhận diện phát hiện trên những ngữ điệu đã học, viết, nghe, nói rồi mới khái quát bằng khái niệm ban đầu.
Chương trình sách giáo khoa 2000 với lượng kiến thức không nhiều nhưng đa dạng, phong phú trong khi đó chương trình cải cách giáo dục nặng phần kiến thức, nhấn mạnh kiến thức làm cho việc dạy Tiếng việt của học sinh Tiểu học có phần nặng nề và trở thành việc đào tạo những nhà nghiên cứu.
Chương trình sách giáo khoa 2000 vận dụng sâu sắc quan điểm tích hợp. Tích cực trong nội bộ môn Tiếng việt, kết hợp các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong từng bài học, kết hợp dạy thực hành với các kỹ năng trên và dạy kiến thức Tiếng việt, tích hợp Tiếng việt với kiến thức văn học nhờ đó các phân môn Tiếng việt nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài học, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Việc phân bố nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng việt tiểu học 2000 vẫn được tuân theo nguyên tắc đồng tâm, kiến thức kỹ năng lớp trên bao hàm kiến thức kỹ năng lớp dưới nhưng cao hơn, sâu hơn.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình dạy học chúng ta thường quan tâm đến 3 vấn đề quan trọng đó là sách giáo khoa và các tài liệu khác, trình độ giáo viên, trình độ học sinh.
Sách giáo khoa có chức năng giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu những tri thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục học sinh đồng thời giúp giáo viên xác định nội dung kiến thức và lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học, tổ chức công tác dạy học của mình, vì vậy mỗi giáo viên cần phải tìm hiểu nghiên cứu để có hiểu biết về chương trình. Sự ra đời của bộ sách Tiếng việt chương trình 2000 là sự biên soạn công phu và chu đấo của các nhà soạn nhằm đổi mới cho phù hợp với tình hình mới hiện nay, phù hợp với sự phát triển của khoa học.
Về phía giáo viên tiểu học được đào tạo chuyên ngành với nhiều hình thức trình độ đào tạo khác nhau, có sự chênh lệch nhau về kiến thức, kỹ năng không ít giáo viên gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. Vì vậy dạy học ở tiểu học còn đơn điệu, nặng nề, học sinh chưa tích cực chủ động tiếp thu bài, giáo viên cũng không ít gặp khó khăn về cơ sở vật chất, về phương tiện dạy học…
Nguyên nhân trên là do trước kia chúng ta chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng của giáo dục Tiểu học - Bậc học nền tảng, chưa có sự đầu tư thoả đáng cho bậc học. Ngày nay người giáo viên tiểu học đã và đang thể hiện rõ hết trọng trách của mình trong giai đoạn phát triển mới của xã hội người giáo viên sẽ tìm những điều cần dạy trong sách giáo khoa nhưng phải biết chọn dạy cái gì? Dạy như thế nào? chò phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Đối với học sinh trong nhà trường, học sinh không chỉ là đối tượng được giáo dục mà chủ yếu là chủ thể nhận thức, rèn luyện kỹ năng và thông qua đó hình thành nhân cách con người mới. Vì vậy hoạt động giảng dạy của giáo viên đều hướng vào học sinh làm sao cho học sinh có hứng thú với bài học thông qua đó rút ra được kiến thức. Tuy nhiên học sinh Tiểu học ngại học môn từ ngữ, ngữ pháp vì đây là môn học khó, trừu tượng. Nếu giáo viên tổ chức không linh hoạt các hình thức dạy học thì học sinh thụ động tiếp thu kiến thức và không hứng thú học bộ môn này. Dựa trên cơ sở lý luận thực tiễn trên đây chúng tôi đi sâu việc tìm hiểu dạy về từ loại qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 chương trình 2000 để thấy rõ những đổi mới của một phân môn trong hệ thống Tiếng việt bậc Tiểu học.
Chương II
các kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại
qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 3 chương trình 2000
2.1/ Mục đích yêu cầu của kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 3 chương trình 2000:
- Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giảng về từ loại.
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng dùng từ loại để đặt câu
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen sử dụng từ loại: Danh, Động, Tính. Có ý thức thức dụng Tiếng việt văn hoá trong giao tiếp và thích hợp Tiếng việt.
2.2/ Thống kê nội dung các chủ điểm được dạy của kiều bài cung cấp lý thuyết dùng từ laọi cho học sinh lớp 3 thông qua phân môn luyện từ và câu.
Nội dung dạy Tiếng việt lớp 4 tập trung vào việc hình thành cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết. Các kiến thức Tiếng việt rút ra từ bài thực hành đọc, viết, nghe, nói mà không được dạy phần bài riêng. Học sinh chưa phải ghi nhớ những định hướng khái quát về các đơn vị của Tiếng việt hay các quy tắc sử dụng Tiếng việt song phải biết cách gọi tên chúng, nhận diện và sử dụng được chúng trong lúc đọc, nghe, nói, viết. Vì vậy các chủ điểm được dạy ở Tiếng việt 4 chương trình được bố trí như sau:
2.3/ Dạy luyện từ và câu:
Phần luyện từ và câu lớp 3 (62 tiết: 32 tiết học kỳ I và 3 tiết học kỳ II) bao gồm các nội dung sau:
a/ Mở rộng vốn từ: 19 tiết
- Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá theo các chủ điểm
+ Học kỳ I: 9 tiết
Nhân hậu, đoàn kết, (Tuần 2 và 3); Trung thực, tự trọng (tuần 5 và 6); ước mơ (tuần 9); ý chí, nghị lực (tuần 12 và 13); Đồ chơi, trò chơi (Tuần 15 và 16).
+ Học kỳ II: 9 tiết
Tài năng, (Tuần 19); Sức khoẻ (tuần 20); Cái đẹp (tuần 22 và 23); Dũng cảm (tuần 25 và 26); Du lịch, thầm hiêm (tuần 29 và 30); Lạc quan, yêu đời (tuần 33 và 34).
- Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá thông qua các bài tập.
+ Tìm từ ngữ theo chủ điểm
+ Tìm hiểu, năm nghĩa của từ ngữ
+ Phân loại từ ngữ
+ Tìm hiểu nghĩa của từ ngữ, tục ngữ theo chủ điểm
+ Luyện sử dụng từ ngữ
b/ Tiếng, cấu tạo từ: 5 tiết
Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ: Cấu tạo của tiếng (Tuần 1 - 2 tiết). Từ đơn và từ phức (Tuần 3 - 1 tiết). Từ ghép và từ láy (Tuần 4 - 2 tiết); thông qua các bài tập:
- Nhận diện, phân tích cấu tạo của tiếng, từ
- Phân loại từ theo cấu tạo.
- Tìm từ theo kiểu cấu tạo
- Luyện sử dụng từ
c/ Từ loại: 9 tiết
Cung cấp một số kiến thức sơ giản về các từ loại cơ bản của Tiếng việt: Danh từ (tuần 5, 6 , 7 và 8 - 5 tiết: Gồm cả cách viết danh từ riêng). Động từ (Tuần 9 và 11 - 2 tiết), tính từ (tuần 11 và 12 - 2 tiết) ; thông qua các bài tập.
- Nhận diện từ theo từ loại
- Luyện viết danh từ riêng
- Tìm và phân loại từ theo từ loại
- Luyện sử dụng từ
d/ Câu: 26 tiết
Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng và cách sử dụng các kiểu câu: Câu hỏi (tuần 13, 14 và 15 - 4 tiết), câu kế (tuần 16, 17, 1+, 20, 21, 22, 24, 25 và 26 - 12 tiết, bao gồm các kiểu câu: Ai làm gì, Ai thế nào, Ai là gì) Câu khiến (Tuần 27, 29 - 3 tiết), Câu cảm (tuần 30 - 1 tiết), Thêm trạng ngữ cho câu (Tuần 31, 32, 33, 34 - 6 tiết); thông qua các bài tập.
- Nhận diện các kiểu câu
- Phân tích cấu tạo câu
- Đặt câu theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước
- Lựa chọn câu để đảm bảo lịch sử trong giao tiếp
- Luyện sử dụng câu trong các tình huống khác nhau
- Luyện mở rộng câu.
e/ Dấu câu: 3 tiết
Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu: Dấu hai chấm (tuần 2 - 1 tiết) Dấu ngoặc kép (tuần 8 - 1 tiết). Dấu chấm hỏi (tuần 13 - học cùng câu hỏi), Dấu gạch ngang (tuần 23 - 1 tiết); thông qua các bài tập:
Tìm công dụng của dấu câu.
- Luyện sử dụng dấu câu
+ Đặc dấu câu vào chỗ thích hợp
+ Tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu.
2/ Biện pháp dạy học chủ yếu:
a/ Cung cấp kiến thức mới:
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm các bài tập ở phần Nhận xét theo các hình thức:
- Trao đổi chung cả lớp
- Trao đổi từng nhóm (tổ, bàn, hoặc 2, 3 học sinh)
- Tự làm cá nhân.
Qua đó, học sinh tự rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ và kiến thức. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự ghi vào vở các kiến thức cần nhớ.
b/ Luyện tập và mở rộng vốn từ:
Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan (nếu cần), rồi tổ chức h làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân. Chú ý:
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ yêu cầu của bài tập
- Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài
- Hướng dẫn học sinh làm vào vở (hoặc bảng con, hoặc vở bài tập)
- Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra kết quả luyện tập.
Chương III
Quy trình dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại
Qua phân môn luyện từ và câu lớp 3 chương trình 2000
3.1/ Biện pháp dạy kiều bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện từ và câu lớp 4 chương trình 2000:
3.1.1/ Hướng dẫn học sinh làm bài tập:
- Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải thích).
- Giáo viên giúp học sinh chữa một phần của bài tập mẫu.
- Học sinh làm bài tập vào vở
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ và kiến thức.
3.2.1/ Cung cấp cho học sinh một số kiến thức sơ giản về từ loại:
Về vốn từ: Ngoài những từ loại được dạy trong các bài tập viết, học sinh bước đầu làm quen với một số từ địa phương.
Biện pháp: Thông qua các bài tập chứa đựng các nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh, giáo viên tổ chức lớp học dưới các hình thức phù hợp, phát huy tính tích cực của học sinh để:
+ Học sinh phát hiện kiến thức mới
+ Học sinh nhận diện kiến thức mới
+ Học sinh kiểm nghiệm kiến thức mới
+ Nắm vững bản chất kiến thức
+ Vận dụng luyện tập thực hành.
3.2/ Quá trình dạy các kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và câu:
Các bước lên lớp của một tiết dạy luyện từ và câu giữ một vị trí quan trọng, với nội dung kiến thức mỗi bài khác nhau, song lại tương đương nhau và “đồng dạng” nên có quy trình chung là :
3.2.1 Kiểm tra bài cũ:
Giáo viên yêu cầu học sinh giải được các bài tập ở nhà hoặc nêu ngắn gọn những điều đã học ở tiết trước, cho ví dụ minh hoạ.
3.2.2/ Dạy bài mới:
Giới thiệu bài: Có thể giới thiệu gián tiếp (như liên hệ với bài cũ)
Giới thiệu trực tiếp.
Hướng dẫn học sinh luyện tập: Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện từng bài tập trong sách giáo khoa theo một trình tự chung là:
+ Đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ Học sinh giải một phần bài tập làm mẫu
+ Học sinh làm bài tập theo hướng dẫn của giáo viên.
+ Tổ chức trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ vào kiến thức.
3.2.3/ Củng cố, dặn dò:
Giáo viên chốt lại những kiến thức, kỹ năng cần nắm vững ở bài luyện tập, nêu yêu cầu thực hành, luyện tập ở nhà.
3.3/ Phương pháp và hình thức tổ chức dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và câu chương trình 2000:
Theo định hướng dạy Tiếng việt thông qua các hoạt động giao tiếp chương trình 2000. Đặc biệt coi trọng phương pháp giáo viên tổ chức cho cá nhân học nhóm, trong giờ với những tài liệu học tập phong phú, đa dạng và hấp dẫn học sinh để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh môn Tiếng việt rất coi trọng phương pháp đặc trưng của môn học. Phương pháp dạy học theo tình huống. Về đại thể, dạy học theo phương pháp này giáo viên đưa ra một tập hợp các yếu tố thuộc ngữ cảnh như: Hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, đề tài giao tiếp rồi cho học sinh nhập vai, các nhân vật giao tiếp để các em chủ động đọc, viết, nghe, nói sao cho đạt mục đích của từng hoạt động giao tiếp do tình huống giao tiếp đặt ra. Phương pháp dạy học theo tình huống có tác dụng kích thích những ứng sử bằng ngôn ngữ mang tính sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó các phương pháp khác (nếu vấn đề, đàm thoại, gợi mở) cũng được dùng ở lớp 3 việc sử dụng hình ảnh minh hoạ, trò chơi ngôn ngữ, trò chơi đóng vai, hình thức học tập bằng thảo luận để tổ chức bài học có một vai trò đặc biệt quan trọng. Giờ Tiếng việt là giờ tương đói khó đối với học sinh lớp 3. Vì vậy khi thực hiện các phương pháp dạy học giáo viên cần tận dụng khéo léo sao cho học sinh cảm thấy giờ học nhẹ nhàng thiết thực mỗi học sinh đều có thể đạt được thành công, có hứng thú học tập.
Chương trình 2000 chú trọng thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm, chú trọng hệ thống quy tắc ngữ pháp dạy luyện từ và câu phải rút ra được quy tắc ngữ pháp. Ngoài ra tính thực hành thể hiện ra việc dạy luyện từ và câu ở tiểu học được thông qua hệ thống bài tập thích hợp, vừa sức của lệnh bài tập và ngữ liệu để từ đó bằng sự hướng dẫn của giáo viên thì học sinh có thể tự giải quyết các yêu cầu của bài tập đồng thời rút ra được tri thức mới bằng việc làm nhiều bài tập có thể hiểu rõ, hiểu bản chất vấn đề.
Trong quá trình làm bài tập có thể để học sinh tự xây dựng biểu bảng, sơ đồ làm các em sẽ tích cực làm việc với tài liệu dễ dàng ghi nhớ các dấu hiệu của khái niệm hoạt động học của học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp, hoạt đọng phân tích tổng hợp thực hành, lý thuyết.
Cả 2 hoạt động trên của học sinh có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau như: Làm việc độc lập; Trả lời câu hỏi thuyết trình hoặc làm mẫu trước lớp tổng hợp thực hành, lý thuyết, tham gia trò chơi…
Hoạt động nhận thức tích cực của học sinh còn thể hiện trong giờ học, học sinh biết kết hợp các kỹ năng và tự hoàn thành công việc trong những giai đoạn khác nhau của giờ học và biết tự kiểm tra bản thân điều này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực sư phạm, trình độ sư phạm lành nghề.
3.4/ Những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi thực hiện quy trình lên lớp phân môn luyện từ và câu lớp 3:
3.4.1/ Thuận lợi:
Quy trình lên lớp tiết luyện từ và câu lớp 3 được xây dựng trên cơ sở các bước lên lớp chính của 1 tiết học. Trong bước “Dạy bài mới” phần hướng dẫn cho học sinh luyện tập là trọng tâm, nhìn chung kiến thức các bài đáp ứng được mục tiêu của chương trình. Nội dung kiến thức vừa phải mở rộng, đa dạng, phong phú, hệ thống hệ thống bài tập đòi hỏi cách thức tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức của giáo viên. Giáo viên tổ chức hoạt động sinh động, linh hoạt hấp dẫn hơn phần nội dung kiến thức không chỉ giới thiệu những kiến thức mới mà còn củng cố ôn luyện những kiến thức đã học tập trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản thiết thực tích hợp được nhiều mặt giáo dục.
Trong chương trình Tiếng việt khi triển khai thực hiện giáo viên chủ động lựa chọn các nội dung và phương pháp thích hợp với từng đối tượng học sinh để tổ chức, hướng dãn học sinh tự học, tự phát triển và chiếm lĩnh tri thức mới. Hình thức tổ chức dạy học thường linh hoạt phối hợp giữa dạy học trong và ngoài lớp ở nhà trường và ở hiện trường. Phương pháp hiện nay đã thay đổi về căn bản cách dạy, cách học thụ động trước kia, giáo viên có thể sử dụng phiếu bài tập trong quá trình giảng dạy vì phiếu bài tập là cá thể hoá của việc học, thúc đẩy học sinh hoạt động trí t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van lop 3 Ltu.doc