Đề tài Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty dệt may Việt Nam

Thị trường Mỹ được định giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng lớn của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và Tổng công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) thực sự có lợi khi xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ. Với dân số đông, thu nhập cao và chi phí của dân cư Mỹ đầu tư vào việc mua sắm hàng may mặc thuộc vào loại cao trên thế giới, đây cũng là nơi thị trường mốt khá phát triển. Trải qua nhiều năm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Tổng công ty đã học được nhiều kiến thức, biết nhiều kinh nghiệm về thị trường Mỹ, hiểu biết luật pháp, lối sống của người Mỹ. Đó cũng là thuận lợi rất lớn khi tiến hành xuất khẩu vào thị trường Mỹ.

 

doc21 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3.1. Ban kế hoạch - thị trường: a) Nhiệm vụ: Ban kế hoạch thị trường là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp cơ quan Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực như: Qui hoạch, lập kế hoạch dài hạn; kế hoạch được đưa ra từng năm, thông tin quản trị; thông tin năng lực sản xuất; máy móc thiết bị, danh mục sản phẩm,... ở các đơn vị thành viên, các đơn vị phụ thuộc trong toàn Tổng Công ty cũng như việc sử dụng chúng trong sản xuất kinh doanh; các hoạt động tư vấn; xúc tiến liên quan tới thị trường nội bộ và thị trường nội địa. b. Nhiệm vụ: - Tổng hợp và xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch được chia ra từng năm của toàn Tổng Công ty trên cơ sở năng lực thực tế và kế hoạch đầu tư phát triển của các đơn vị thành viên kết hợp với mục tiêu chiến lược của toàn Tổng Công ty. - Kiểm tra các đơn vị thành viên trong quá trình hoạt động kinh doanh. - Thường xuyên cập nhật các thông tin số liệu phản ánh hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên. - Tổ chức, thực hiện việc nghiên cứu thị trường tại một số khu vực, thu thập thông tin lợi ích đến thị trường, xác định thị trường tiềm năng đối với danh mục những sản phẩm chủ yếu của Tổng Công ty. - Thực hiện các hoạt động xúc tiến thị trường nội bộ và thị trường ngoài nước. c. Mối quan hệ với các phòng ban - Với các phòng ban nói chung: + Ban kế hoạch thị trường là đầu mối về kế hoạch, thị trường trong nước. Các ban liên quan có tư bản cung cấp các thông tin cần thiết và phối hợp chặt chẽ với Ban tổ chức, thị trường cùng thực hiện nhiệm vụ nhà lãnh đạo Tổng Công ty giao. - Với các đơn vị thành viên: + Các đơn vị thành viên bảo vệ về Ban kế hoạch thị trường theo các lĩnh vực hoạt động của ban + Phối hợp với các đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ quảng cáo, xúc tiến, tiếp thị đối với thị trường trong nước. - Với các cơ quan quản lý nhà nước + Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý Nhà nước liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của Ban. + Trình lãnh đạo Tổng Công ty báo cáo, kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước về những mặt hoạt động liên quan đến ban. 3.2. Ban tổ chức hành chính: a. Chức năng: Ban tổ chức hành chính là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện hai chức năng. Thứ nhất, là bộ phận tham mưu giúp việc cho hội đồng quản trị, tổng giám đốc, tổng Công ty về các lĩnh vực tổ chức, cán bộ, kinh doanh tiền lương, công tác thanh tra... Thứ hai, là chức năng phục vụ hỗ trợ và tại điều kiện cho bộ máy văn phòng Tổng Công ty hoạt động b. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu, dự thảo nội dung sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. - Hướng dẫn các đơn vị thành viên của tổng Công ty, xây dựng sửa đổi, bổ sung điều lệ tổ chức và hoạt động. - Giúp tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong việc quản lý đội ngũ cán bộ thuộc diện tổng Công ty quản lý. - Đề xuất các biện pháp, giải pháp đối với công tác cán bộ nhân sự. Thực hiện các thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương đối với cán bộ viên chức. - Cùng với các bộ phận chức năng có liên quan đề xuất và làm thủ tục gửi cán bộ đi học tập nghiên cứu, khảo sát... hoặc làm chi nhánh, phân loại, theo dõi việc xử lý căn thư. Thực hiện tốt chế độ bảo mật tài liệu theo quy định của Nhà nước và của Tổng Công ty. c. Mối quan hệ với các ban trung tâm nói chung - Hướng dẫn, thông báo cho các ban, trung tâm về các chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên trong cơ quan. - Cùng các ban bàn bạc, xây dựng chức năng nhiệm vụ của từng ban, từng trung tâm, chi nhánh... * Mối quan hệ với các đơn vị thành viên: - Công tác quy hoạch cán bộ - Đánh giá cán bộ hàng năm - Đề nghị nâng lương, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật... đối với cán bộ do tổng Công ty quản lý. - Những vấn đề có liên quan đến thanh tra, khiếu tố, khiếu nại. * Mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước. - Thực hiện các báo cáo định kỳ theo quy định - Chịu sự kiểm tra về việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động trong tổng Công ty. - Đề nghị việc xếp hạng doanh nghiệp 3.3. Ban tài chính - kế toán a. Chức năng: Ban tài chính - kế toán là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho tổng giám đốc và Hội đồng quản trị về các lĩnh vực tài chính, tín dụng, kiểm toán, giá cả trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính sự nghiệp tại các đơn vị thành viên, các đơn vị phụ thuộc và các cơ quan văn phòng của tổng Công ty. b. Nhiệm vụ - Nghiên cứu, hướng dẫn chế độ tài chính, kế toán, giá cả và tín dụng - Phối hợp với các ban chức năng trong tổng Công ty, xây dựng và thực hiện công tác kế hoạch hóa trong toàn tổng Công ty. - Xây dựng dự án nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước, phương án giao vốn và các nguồn lực cho các đơn vị thành viên, phương án điều hòa vốn và nguồn lực cho các đơn vị thành viên. - Tổ chức, theo dõi việc thực hiện công tác kế toán ở các đơn vị thành viên. c. Mối quan hệ với các phòng ban * Với các phòng ban: - Hướng dẫn chế độ tài chính cho các phòng ban - Tham gia và xây dựng quy chế tài chính * Với các đơn vị thành viên: - Hàng năm các đơn vị thành viên bảo vệ kế hoạch tài chính của đơn vị mình về tổng Công ty để tổng hợp bảo vệ nhà nước. * Với cơ quan quản lý Nhà nước - Kế toán trưởng cùng tổng giám đốc tiếp nhận việc giao vốn từ Bộ tài chính cho tổng Công ty. - Ngoài ra, ban tài chính kế toán đưa ra kế hoạch về vốn, tài chính của tổng Công ty trình Tổng giám đốc và Tổng giám đốc trình Thứ trưởng uchính phủ phê duyệt. 3.4. Ban kỹ thuật đầu tư a. Chức năng: Ban kỹ thuật đầu tư là bộ môn giúp việc, có chức năng tham mưu cho tác dụng về kế hoạch đầu tư, về thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và công tác thống kê kế hoạch của Tổng Công ty. Bên cạnh đó, còn tham mưu cho Tổng Giám đốc về quản lý dự án, về khoa học kỹ thuật của Tổng Công ty. b. Nhiệm vụ - Tư vấn, đề xuất với lãnh đạo về các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của Tổng Công ty, các giải pháp và hình thức đầu tư. - Tổ chức thẩm định, quân khu hoạt động đầu tư, dự toán thanh quyết toán của các dự án đầu tư trình lãnh đạo phê duyệt. - Nghiên cứu, đề xuất các đề tài, giải pháp khoa học kỹ thuật ngành để phổ biến, áp dụng rộng rãi trong toàn Tổng công ty. c. Mối quan hệ với các phòng ban - Báo cáo cho Bộ công nghiệp định kỳ tình hình thực hiện kế hoạch thuộc luv kỹ thuật đầu tư và báo cáo các dự án đầu tư theo sự phân cấp để xin phê duyệt. - Tiếp nhận văn bản, chính sách có liên quan đến lĩnh vực quản lý của ban kỹ thuật đầu tư. - Báo cáo cho Bộ kế hoạch - đầu tư về tình hình kỹ thuật đầu tư của Tổng công ty theo yêu cầu của Bộ. 3.5. Trung tâm xúc tiến xuất khẩu a. Chức năng Trung tâm xúc tiến xuất khẩu là bộ phận chức năng giúp việc cho Tổng giám đốc về các lĩnh vực hoạt động quan hệ quốc tế, thị trường ngoài nước, các chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước. Bên cạnh đó, thực hiện nhiệm vụ xúc tiến xuất khẩu cho toàn Tổng công ty. b. Nhiệm vụ - Tham mưu cho lãnh đạo Tổng công ty xây dựng quy chế, chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước trong toàn Tổng công ty. - Thu nhập, tổng hợp, xử lý thông tin liên quan đến thị trường ngoài nước, nghiên cứu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu dệt may nguyên liệu phục vụ sản xuất ngành dệt may. - Đề xuất thành lập văn phòng đại diện Tổng công ty tại nước ngoài. Xúc tiến hình thành các tổ chức tiếp thị đối với thị trường ngoài nước và các liên doanh liên kết về thương mại với nước ngoài. - Tham gia, tổ chức hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. c. Mối quan hệ với các phòng ban * Với các phòng ban: - Trung tâm xúc tiến xuất khẩu thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối trên các lĩnh vực thị trường ngoài nước, chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước, các hoạt động yểm trợ xuất khẩu, quản lý văn phòng đại diện tại nước ngoài. * Với các đơn vị thành viên - Các đơn vị thành viên báo cáo về trung tâm, xúc tiến xuất khẩu theo các lĩnh vực hoạt động của trung tâm. * Với cơ quan quản lý Nhà nước: - Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý Nhà nước liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của trung tâm. 3.6 Trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp a. Chức năng Trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp Dệt may là bộ phận có chức năng tham mưu, giúp việc Tổng giám đốc và hội đồng quản trị về các lĩnh vực hoạt động, đào tạo nâng cao, bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức quản trị doanh nghiệp, kỹ thuật, công nghệ cho cán bộ ngành dệt may. b. Nhiệm vụ - Giúp lãnh đạo Tổng công ty nghiên cứu, dự báo, nắm bắt nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược phát triển của Tổng công ty. - Hỗ trợ cho các trường và các đơn vị thành viên để quyết định chuyển số học sinh tốt nghiệp vào các đơn vị có nhu cầu sử dụng. - Tổ chức đào tạo để phát triển nguồn nhân lực trong toàn Tổng công ty theo chương trình và nội dung đã được lãnh đạo phê duyệt. c. Mối quan hệ với các phòng ban * Với các phòng ban - Trung tâm đào tạo cán bộn quản trị doanh nghiệp dệt may thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối trên các lĩnh vực liên quan đến đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp. * Với các đơn vị thành viên: - Các đơn vị thành viên báo cáo về trung tâm đào tạo cán bộ quản trị điều kiện dệt may theo lĩnh vực hoạt động đào tạo của trung tâm. - Phối hợp tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao, cập nhật kiến thức cho các bộ quản trị doanh nghiệp tại các đơn vị thành viên. * Với các cơ quan quản lý Nhà nước - Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý nhà nước liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của trung tâm. II. Hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty dệt may Việt Nam 1. Những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty 1.1. Về năng lực sản xuất Tổng công ty dệt may Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty 91 (có HĐQT và TGĐ) là một hình thái tổ chức hoàn toàn mới so với nước ta, lại được thành lập theo quyết định hành chính nên có không ít những vướng mắc cần giải quyết cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên, từ khi thành lập cho đến nay Tổng công ty cũng đã không ngừng phát triển cải tiến khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản xuất trong đó về năng lực sản xuất để đạt được cụ thể như sau: 15 tấn bông xơ 100 ngàn tấn sợi 200 triệu m vải 150 triệu sản phẩm may dệt thoi 50 triệu sản phẩm may dệt kim 50 triệu chiếc khăn bông Không chỉ từ phía các doanh nghiệp, mà công tác chuẩn bị cho tiến trình hội nhập sâu hơn vào sân chơi quốc tế cũng được triển khai từ phía các bộ, ngành. Kế hoạch dài hạn về đầu tư cho việc sản xuất cũng như nâng cao năng lực sản xuất vải thoi và vải dệt kim, nhất là vải dệt kim. Sắp tới, Tổng công ty dệt may Việt Nam sẽ tập trung đầu tư bổ sung để đưa năng lực xử lý vải dệt thoi đạt 404,8 triệu m2 và 30.446 tấn vải dệt kim vào năm 2010. Hiện tại đạt 183,6 triệu m2/năm và vải dệt kim gồm 20.000 tấn/ năm, chưa thể đáp ứng được yêu cầu cho ngành may xuất khẩu. Theo quy hoạch chi tiết mặt hàng vải dệt thoi thành phẩm của Tổng công ty, sản phẩm vải nhuộm mày là mặt hàng chủ lực cung cấp vải đạt chất lượng cho may áo sơ mi và quần âu sẽ được tập trung sản xuất tại các Công ty dệt: Nam Định, Việt Thắng, nhuộm Yên Mĩ, nhuộm Thủ Đức, dệt nhuộm Sơn Trà và dệt may Đông á. Hiện tại, năng lực nhuộm sợi của Tổng công ty mới chỉ đạt 4.120 tấn/năm, nên trong giai đoạn tới chỉ tập trung đầu tư sản phẩm này tại các Công ty dệt 8/3, Nam Định, dệt may Thắng Lợi, đưa năng lực nhuộm sợi màu đạt 5.000 tấn/ năm. Năng lực thiết bị sản phẩm vải in hoa hiện mới đạt gần 10 triệu m2 nên sẽ được đầu tư mới tại các Công ty dệt may Thắng Lợi, dệt 8/3 để hình thành hai trung tâm in hoa vải và sản xuất vải ga, gối, Tổng công ty đang đầu tư các nhà máy nhuộn hoàn tất tại Yên Mĩ (Hưng Yên); Sơn Trà (Đà Nẵng) và Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh) với công suất 70,5 triệu m/năm. Do vải dệt kim ngày càng được ưa chuộng và sử dụng nhiều, nhất là thị trường Mỹ nên các doanh nghiệp như: dệt may Hà Nội, Thành Công, Đông á, Dệt kim Đông Xuân và Đông Phương, đẩy mạnh đầu tư sản xuất mặt hàng này với năng lực sản xuất từ 1.900 tấn đến 6.620 tấn/năm. Hiện nay, Tổng công ty đã đầu tư ở phía Bắc nhà máy hoàn tất vải dệt kim đồng bộ với dự án vải dệt kim co giảm và vải cào lông công suất 1.500 tấn/năm, dự kiến tăng năng suất lên gấp đôi trong 5 năm tới và chuẩn bị đầu tư một nhà máy dệt kim ở phía nam, với công suất 3000 tấn/ năm. 1.2. Về nguyên vật liệu Hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty (Vinatex) cũng lại ảnh hưởng bởi nguyên vật liệu. Hiện nay, Tổng công ty cũng có một số lượng lớn các nhà máy cung ứng các yếu tố đầu vào. Vải là nguyên liệu chính cho sản xuất và thường được nhập khẩu từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan; Hồng Kông; Trung Quốc. Trong nước, hầu như không cung cấp đủ mặt hàng vải các nguyên phụ liệu cũng chủ yếu nhập từ nước ngoài về, trong nước cũng có nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số nguyên phụ liệu dùng trong sản xuất những sản phẩm xuất khẩu. Chính vì nguyên phụ liệu sản xuất chủ yếu là nhập khẩu cho nên chất lượng sản phẩm thường dễ được các khách hàng chấp nhận, nhưng cũng chính vì thế mà dẫn đến ngành may của nước ta có một sự lệ thuộc lớn vào thị trường nguyên liệu bên ngoài. Mà trong khi đó, thị trường nguyên liệu bên ngoài thường không được ổn định và có thể gây ra những thay đổi lớn, bất ngờ trong hoạt động sản xuất, gây khó khăn trong việc đáp ứng kịp thời những yêu cầu của khách hàng. Việc xuất khẩu vào các nước có tính cạnh tranh cao thì việc chấp nhận nguyên phụ liệu của nhà nhập khẩu, có nghĩa là nhà nhập khẩu kiêm luôn nhà cung cấp nguyên phụ liệu, thường có cơ hội thâm nhập vào thị trường lớn hơn. Đó là một xu hướng đang hình thành đối với thị trường Mỹ EU. Điều đó, cũng cho thấy sự mâu thuẫn giữa việc tăng khả năng cạnh tranh, khả năng thâm nhập thị trường với việc sử dụng các yếu tố điều vào thị trường nội địa, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài. Mà bên cạnh đó, một điểm đáng chú ý là ngành may lại sử dụng nhiều nguyên phụ liệu khác nhau, điều này làm cho công tác chuẩn bị đầu vào cho sản xuất gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Cho nên, việc đưa ra những giải pháp để dự trữ nguyên vật liệu luôn luôn được đặt ra cấp bách. Công tác chuẩn bị nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu trong năm 2006 đang được triển khai mạnh mẽ ngay từ cuối tháng năm nay. Nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, đặc biệt là mặt hàng vải. Kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam trong tháng 10 đạt 232 triệu USD), tăng 12% so với tháng trước cùng kỳ năm ngoái tăng tới 30%. Do nguyên liệu trong những không thể đáp ứng nổi nhu cầu cho xuất khẩu, nên chính phủ đã phê duyệt ngành dệt may là một trong những lĩnh vực được ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ trong thời gian tới. 1.3. Về máy móc thiết bị Máy móc thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty cũng vì máy móc thiết bị là yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng sản phẩm, năng suất lao động. Từ đầu những năm 90 trở lại đây, ngành may Việt Nam đã liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới các thiết bị máy móc nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Toàn Tổng công ty đã được trang bị thêm 20.000 máy may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng may mặc như áo sơ mi, Jacket, hàng dệt kim các loại... Các thiết bị nhập từ các nước Đông Âu đến nay đã cũ, lạc hậu, cho nên hầu hết các thiết bị mới được nhập thêm là ở Trung Quốc. Và kể từ năm 1996, thì các doanh nghiệp x lại nhập thêm thiết bị từ các nước Nhật, Hàn Quốc, dây chuyền hiện đại từ các nước Bỉ, Thụy sĩ... Vì các dây chuyền này là những công nghệ mới, có tính năng sử dụng cao. Việc đổi mới, mua sắm thêm máy móc thiết bị cũng đã giúp cho Tổng công ty có thể hoàn thành tốt các đơn đặt hàng của khách, cải thiện hơn về năng suất, chất lượng cũng như giảm giá thành sản phẩm may mặc xuất khẩu. Các máy may được sử dụng hiện nay, có tốc độ cao 4000 -5000 vòng/ phút có bơm dẫn dầu tự động đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã sử dụng loại máy trang thiết bị điện tử lại chỉ, cắt chỉ tự động, nhanh hơn như May 10, May Việt Tiến... Về công đoạn hoàn tất sản phẩm thì hầu hết các doanh nghiệp dùng hệ thống là hơi tự động, dùng các loại bàn là hơi nước, đảm bảo cho sản phẩm không bị nhăn, nhàu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa đủ những máy may chuyên dùng hiện đại, hệ thống trang thiết bị còn rất lạc hậu, cũ kỹ, không đồng bộ có ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Chính vì vậy, đó cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể vào hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp may, gây trở ngại lớn trong việc cạnh tranh xã hội trên một số thị trường. 1.4. Chiến lược hướng ra xuất khẩu của Tổng công ty Từ khi thành lập cho đến nay, mục tiêu chính của toàn Tổng công ty là xuất khẩu những sản phẩm may mặc để xuất khẩu. Vì vậy, hướng ra xuất khẩu luôn là chiến lược lâu dài của Tổng công ty. Chiến lược hướng ra xuất khẩu giúp cho Tổng công ty tập trung vào các thị trường xuất khẩu là chủ yếu, từ đó đầu tư nhiều vào máy móc thiết bị, phát triển các công trình kết cấu hạ tầng đều nhằm phục vụ cho việc xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Theo số liệu thống kê sơ bộ, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tuần từ 7 đ 11/11/2005 ước đạt khoảng 60 triệu USD. Trong khi đó, số liệu thống kê chính thức 10 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 3,899 tỷ USD tăng 6,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm nay cùng với tiến độ xuất khẩu trung bình/ ngày đạt khá trong những ngày đầu tháng 11 là điều kiện cho ngành dệt may đật được kết quả xuất khẩu tốt nhất trong hai tháng cuối năm 2005 khoảng 800 triệu USD. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu của cả năm chỉ đạt 4,699 tỷ USD bằng 94% kế hoạch năm. Việc kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta không thực hiện được như chỉ tiêu đã đặt ra trong năm cũng chưa phải là "quá buồn" Mà nhìn vào thực tế thì ngành dệt may của Việt Nam đã làm được hơn những gì mình có. Trong bố cảnh cạnh tranh quốc tế, tất cả các nhà xuất khẩu đều phải tính đến phương án giảm mạnh giá để cạnh tranh với hàng giá rẻ của Trung Quốc, thì giá sản phẩm dệt may của Việt Nam chỉ giảm rất nhẹ (thống kê của Bộ thương mại, giá xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sáng Mỹ chỉ giảm chưa đến 4%) giá xuất khẩu giảm nhẹ, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhẹ, chứng tỏ, khối lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng hơn so với 203 năm 2004. Năm 2005, khi chế độ hạn ngạch được dỡ bỏ cho thành viên của WTO, sản phẩm dệt may của Việt Nam được thị trường thế giới chấp nhận và kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng. 2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ 2.1. Tổng quan về thị trường Mỹ Với dân số đông vào khoảng 285,822 triệu người, chiếm 5% dân số thế giới, mật độ dân số khoảng 30 người/ km. Đây là nước đông dân thứ ba trên thế giới, có nền kinh tế, văn hóa đa dạng và phong phú, đại đa số là dân da trắng (chiếm 80% dân số), số còn lại là da màu. Tỷ lệ dân sống ở thành thị cao, (chiếm khoảng 75%) thu nhập quốc dân tính theo đầu người cao, trên 36 ngàn USD/ người/ năm. Mỹ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90 của thế kỷ 20 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, duy trì tiêu dùng ở mức độ cao. Trong thời gian từ năm 1989 - 1993, mức tiêu thụ hàng dệt may ở Mỹ tăng 15%. Đến năm 1993, tổng mức tiêu dùng khoảng 115 tỷ USD. Mỗi năm, Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD bằng cả lượng hàng dệt may của Nhật là EU cộng lại, Mỹ nhập khẩu hàng Dệt may chủ yếu từ Mêhicô, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc. Các những này chiếm đến 60% hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và là những đối thủ cạnh tranh đáng kể đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Trong những năm tới đây, Mỹ vẫn luôn được coi là thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam, đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết và Mỹ đã tiến hành bình thường hóa thương mại với Việt Nam. Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ 7 trên thị trường Mỹ, với tổng giá trị xuất khẩu năm 2003 đạt đến 2,48 tỉ USD, tăng 161,4% về giá trị và 131,07% về sản lượng so với năm 2002. Việt Nam được đánh giá là một thị trường ưa thích của các nhà nhập khẩu Mỹ vì giá cả các sản phẩm phải chăng là có chất lượng ổn định. 2.2. Vài nét về quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ: Trong một thời gian dài, chính phủ Mỹ đã thực hiện lệnh cấm vận giao lưu kinh tế với Việt Nam, tạo ra một tấm rào chắn kiên cố và dày đặc ngăn trở quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu cách đây 150 năm với những thương vụ nhỏ lẻ. Tháng 4/1975, Mỹ cũng chỉ quan hệ kinh tế với chính quyền Sài Gòn thông qua các khoản viện trợ chiến tranh. Khối lượng giao dịch kinh tế không đủ lớn, chủ yếu là các hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ như gỗ, cao su, gốm, hải sản.... và tuy nhiên, những điều đó là không phù hợp lắm với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới và gây cản trở, thiệt hại cho lợi ích mỗi quốc gia khi mà vẫn tồn tại lệnh cấm vận. Bởi vậy, từ đầu thập kỷ 90, chính phủ Mỹ dần dần nới lỏng và đi tới chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận vào ngày 03/02/2004. Từ đó, quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ bắt đầu có điều kiện hình thành và phát triển. Tiếp theo sau đó, Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm các nước: Bắc Triều Tiên, Cu Ba; Việt Nam) lên nhóm Y ít bị hạn chế về thương mại hơn (gồm: Liên Xô, Cam-pu-chia và Việt Nam). Bộ vận tải và Bộ thương mại Mỹ bãi bỏ bệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ của Việt Nam vào được cảng của Mỹ (nhưng còn phải hạn chế xin phép trước 3 ngày). Ngay từ khi chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN); quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập mà các nước phát triển cam kết dành cho các nước đang phát triển (GSP), các doanh nghiệp Việt Nam đã dần bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Quyết định hủy bỏ lệnh cấm vận này chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hàng dệt may Việt Nam với ưu thế giá rẻ, chất lượng được đánh giá cao và thời gian giao hàng được xếp vào loại tốt nhất châu á, đã từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ đầy rẫy những khó khăn và thử thách này. 2.3. Những chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may của Việt Nam: Chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được xóa bỏ thì hàng hóa xuất khẩu Việt Nam nói chung, và hàng dệt may nói riêng mới có cơ hội và điều kiện để xâm nhập vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam còn phụ thuộc vào bước tiến trong quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Bên cạnh hàng dệt may Việt Nam chưa được hưởng chế độ ưu đãi. Từ phía Mỹ, thì hàng dệt may còn phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Theo các chuyên gia, vấn đề dệt may sẽ được phía Mỹ đề cập trong khuôn khổi đàm phán song phương về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO như họ đã làm với Trung Quốc. Từ năm 2003, Mỹ chính thức áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Mặc dù đã áp dụng hạn ngạch nhưng phía Mỹ vẫn tiếp tục dùng các biện pháp hạn chế khác như: điều tra chống phá giá; đánh thuế đổi khách. Mà đôi khi các biện pháp này được cố tình sử dụng nhằm hạn chế thương mại. Đối với mặt hàng dệt may, thị trường Mỹ có nhiều đẳng cấp, yêu cầu phong phú về chủng loại mặt hàng, không khó tính lắm như thị trường EU và Nhật nhưng đòi hỏi phải phong phú và luôn đổi mới mẫu mã, chất lượng. * Chính sách thuế quan Mỹ đã áp dụng thuế quan trên cơ sở giá FOB thấp hơn giá CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ cũng thấp hơn so với các nước khác. - Thuế suất: Mặc dù mức thuế suất MFN trung bình của Mỹ là 5,7% năm 1993, nhưng mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm dệt là 10,3% và sản phẩm may là 11,3%. Một số nhóm sản phẩm còn phải chịu thuế cao hơn như quần áo 13,7%, sợi filament nhân tạo 13,3%. Riêng với các loại sản phẩm dệt mức độ bảo hộ thực tế còn cao hơn vì thuế suất áp dụng chong sản phẩm đầu vào chỉ là 3% nhưng đối với sản phẩm gia công đã gia công chế biến thì thuế suất có thể cao hơn gấp 3 lần. Đối với hàng dệt máy Việt Nam, do vẫn chưa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế nên mức thuế suất vẫn rất cao, thường từ 40 - 90%%, đây cũng là một cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và xâm nhập vào thị trường Mỹ. Biểu 1: Các mức thuế suất của Mỹ đối với hàng dệt máy xuất khẩu vào Mỹ TT Mặt hàng Thuế suất (MFN (%) Thuế suất phổ thông (%) Mức chênh lệch (%) 1 Sản phẩm dệt 10,3 51,1 44,8 2 Sản phẩm may mặc 13,4 68,9 55,5 Nguồn: Việt Nam -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC740.doc
Tài liệu liên quan