MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
I- Cơ sở lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3
1. Thực chất của cổ phần hoá. Sự cần thiết khách quan phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 3
1.1. Thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3
1.2. Sự cần thiết khách quan phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 4
1.3. Mục tiêu cổ phần hoá 5
2. Qui trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần 6
II- Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 6
1. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua 6
1.1. Giai đoạn thí điểm từ 1992 đến tháng 5/1996 6
1.2. Giai đoạn 2 từ 5/1996 – 6/1998 11
1.3. Giai đoạn triển khai hàng loạt từ 6/1998 đến nay 17
2. Những nhận xét chung về quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam 22
2.1. Những kết quả đạt được 23
2.2. Những mặt hạn chế 24
III- Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá DNNN 26
1. Một số giải pháp nhằm cổ phần hoá các DNNN 26
2. Một số kiến nghị 29
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 33
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N thành công ty cổ phần.
Quyết định số 25-CP của chính phủ ngày 26/3 97 sửa đổi một số điều của nghị định số 28-CP của chính phủ ngày 7/5/96 về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Chỉ thị số 658-TTG của thủ tướng chính phủ ngày 20/8/97 về việc thúc đẩy triển khai cổ phần hoá DNNN.
Sau 4 năm thí điểm cổ phần hoá Nhà nước ta đã rút được một số kinh nghiệm để bổ xung và sửa đổi chế độ cổ phần hoá, ngày 7/5/96 chính phủ đã ra nghị định 28-CP thay thế quyết định số 202-CP với quy định cụ thể và mở rộng hành lang pháp lí cho các DNNN chuyển sang các công ty cổ phần.
Tính từ năm 1993 với doanh nghệp đại lý liên hiệp vận chuyển ( Thành Phố Hồ Chí Minh ) cổ phần hoá ngày 1/7/93 đến cuối năm1997 cổ phần hoá được 18 DNNN với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng. Trong số 18 DNNN nói trên có một DNNN bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào; số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18% cao nhất là 51% cổ phần của công ty ( bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần có 11 doanh nghiệp hoạt động từ một năm trở nên, trong đó có hai doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lơị, hoạt động có lãi cao là công ty cổ phần Cơ điện lạnh, công ty cổ phần Đại lí liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp vốn giảm dần, như xí nghiệp VIFOCO, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định...
Trong giai đoạn này tốc độ cổ phần hoá được thực hiện nhanh và vững chắc so với giai đoạn thí điểm. Đạt được điều này là do cổ phần hoá không những đảm bảo các mục tiêu kinh tế là huy động vốn nhanh, phát triển sản xuất, kinh doanh... mà còn bảo đảm các mục tiêu xã hội như phát huy vai trò làm chủ của người lao động, tạo việc làm mới, tăng thu nhập... Hơn nữa do chúng ta đã kịp thời sửa đổi chế độ chính sách để tạo những bước chuyển biến tích cực tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá.
1.2.1.Những thành tựu đạt được
Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp người lao động đều có lợi. Cụ thể như sau Nghiên cứu kinh tế số 241, tháng 6/1998
:-
-Đối với các doanh nghiệp:
Vốn tăng bình quân 45%/năm
Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm
Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm
Nộp ngân sách tăng bình quân 98%/năm
Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6%/năm
_ Đối với nhà nước:
Từ khi chuyển sang công ty cổ phần với phương thức quản lý tiến bộ trách nhiệm người lao động nâng cao, hiệu quả làm việc ngày một tốt hơn dẫn đến doanh thu của các doanh nghiệp ngày càng tăng, lợi nhuận tăng lên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp nhiều hơn khi còn là DNNN. Ngoài ra nhà nứơc còn thu được 37724 triệu đồng từ các nguồn sau:
Tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng
Phần lợi tức của nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV 522 triệu đồng
( chưa kể số tiền CBCNV trong các công ty cổ phần mua chịu cổ phiếu là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả Nhà nước)
_Đối với người lao động và xã hội :
Các DNNN từ khi chuyển sang công ty cổ phần đã thay đổi cả về lượng và chất theo chiều hướng tích cực. Các công ty cổ phần này không những ổn định đủ việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp mà còn tạo thêm nhiều việc làm thu hút một khối lượng lớn lao động trong xã hội và trả với mức lương cao góp phần giải quyết một vấn đề lớn của xã hội. Thu nhập của người lao động cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với khi còn ở DNNN đó là chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22- 24%/năm. Ngoài số lao động cũ đã làm việc trong công ty từ nhiều năm trước, các công ty cổ phần này đã thu hút hơn 1000 người lao động ngoài xã hội vào làm việc.Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả nên lợi tức của các cổ đông thường cao hơn lãi suất gửi tiền tiết kiệm, đông thời tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh , giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5-2 lần( sau 1-2 năm hoạt động). Chẳng hạn như :Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển, sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu đã tăng 7lần; công ty cơ điện lạnh cũng trong thời kỳ đó giá trị cổ phiếu tăng hơn 6 lần. Công ty cổ phần cơ điện lạnh trước khi cổ phần hoá có 334 CBCNV sau khi sang công ty cổ phần hàng năm số lượng lao động mới tuyển vào đều tăng.Năm 94 tuyển 81 người làm việc, năm 95 thu hút 79 người vào làm việc và năm 96 thu hút thêm 153 người. Như vậy sau 3 năm cổ phần hoá công ty đã tạo ra 313 chỗ làm việc mới đưa tổng số người lao động trong công ty từ 334 người(1993) lên 647 người(1996). Tiền lương của người lao động không những được đảm bảo mà tăng đánh kể so với còn là DNNN. Trước cổ phần hoá tiền lương bình quân của người lao động là 647 ngàn đồng/tháng, dến năm 96 lương bình quân là 1,3 triệu đồng/tháng.Đại lý liên hiệp vận chuyển trước khi cổ phần hoá thu nhập của người lao động là 800 ngàn/ tháng (1993) lên 1,4 triệu đồng /tháng (1994) và đến năm 1996 thu nhập của người lao động trung bình lên tới 2,5 triệu đồng /tháng.
Trong giai đoạn này đã mở rộng và đa dạng hoá hơn hình thức cổ phần hoá, nếu như ở giai đoạn thí điểm chỉ có một hình thức cổ phần hoá là bán một phần giá trị hiện có cuả doanh nghiệp nên ít nhiều đã hạn chế tốc độ cổ phần hoá.Nay, Nghị định 28-CP đã cho phép cổ phần hoá theo 3 hình thức đó là:
-Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
-Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
-Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Với hình thức cổ phần hoá đa dạng nhiều doanh nghiệp có thể thực hiện cổ phần hoá hoặc với hình thức này hoặc với hình thức khác dựa vào những đặc điểm riêng của mình. Do vậy chọn hình thức nào để cổ phần hoá cho thích hợp là quyền và trách nhiệm của chính doanh nghiệp.
Chính sách ưu đãi của nhà nước đối với doanh nghiệp và người lao động hấp dẫn hơn:
Đối với doanh nghiệp, điều 10 Nghị định 28 CP đã làm rõ rằng khi cổ phần hoá DNNN được hưởng 6 ưu đãi:
+Được sử dụng số dư quỹ khen thưởng và phúc lợi chia cho CNV để mua cổ phiếu.
+Được giảm thuế lợi tức 50% trong 2 năm liên tiếp ( không phải xét hỏi như theo QĐ 202-CT ).
+ Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại quốc doanh như trước.
+Được tiếp tục xuất khẩu hàng hoá như trước.
+Được miễn lệ phí trước bạ khi chuyển quyền sở hữu tài sản từ DNNNsang công ty cổ phần.
+Được hạch toán các chi phí hợp lý và cần thiết khi cổ phần hoá và giá trị doanh nghiệp.
Đối với người lao động:
Khắc phục những bất lợi về quyền lợi của người lao động trong quyết định 202 CT.Nghị định 28 CP đã lược bỏ những chi tiết không phù hợp, đưa thêm một ưu đãi mới và có mức khống chế chặt chẽ hơn. Cụ thể:
+ Nhà nước cấp cho công nhân viên một số cổ phiếu tuỳ theo thâm nlên và chất lượng công tác của từng người. Người lao động được hưởng 100% cổ tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại công ty cổ phần nhưng không được chuyển nhượng vì những cổ phiếu này thuộc sở hữu của Nhà nước như vậy, đây không phải là mua, nhưng cũng không phaỉ là” cho không” mà cho” quyền sử dụng”.
+Mức khống chế: Trị giá cổ phiếu mà mỗi người được cấp không quá 6 tháng lương và tổng số cổ phiếu cấp cho công nhân viên không quá 10% giá trị doanh nghiệp ( tức 10% số lượng cổ phiếu phát hành lần đầu).
+Công nhân viên được mua chịu trả chậm trong 5 năm với lãi suất 4%/năm, tổng mức mua chịu không quá 15% giá trị doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ tư 10% giá trị doanh nghiệp trở nên, thì mức mua chịu được tăng 5% nữa, tức tối đa là 20% giá trị doanh nghiệp.
Cổ phần hoá thay đổi phương thức quản lý, điều hành. Từ việc giám đốc DNNN do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầuhội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc, do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn.
Quyền lợi của người lao động trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Họ có trách nhiệm trong công việc và gắn bó với nhau, việc trả công minh bạch rõ ràng, vấn đề làm chủ tập thể của các cổ đông được phát huy cao độ. Người lao động một mặt rất phấn khởi với thu nhập ngày một tăng, tinh thần làm việc hăng say, mặt khác cũng yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn.
Tài sản của các DNNN được đánh giá lại chính xác hơn. Lâu nay tài sản của các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất.Qua ciệc cổ phần hoá 18 doanh nghiệp vừa qua, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán.
Chúng ta đã thống nhất hơn trong tư tưởng, qua thực hiện thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu, những bài học thành công, thất bại giúp cho việc chr đạo thực hiện cổ phần hoá trong giai đoạn
1.2.2. Những hạn chế trong giai đoạn này
Trước hết phải nói rằng trong giai đoạn này, cổ phần hoá các DNNN vẫn còn rừng lại ở mức độ thử nghiệm, mặt dù Nhà nước có khuyến khích động viên các DNNN cổ phần hoá thông qua một số ưu đãi về các đièu kiện tài chính nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Trong khi đó các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ các quan điểm về cổ phần hoá. Một số lãnh đạo chính quyền lo ngại cổ phần hoá xong sẽ không còn CNXH nữa.
Nhìn chung các doanh nghiệp chưa có phương án phát triển sản xuất thật hiệu quả. Chưa tìm ra được các hướng đầu tư mới. Điển hình là đại lý liên hiệp vận chuyển, thừa vốn không biết dùng vào đâu, phải cho tổng công ty hàng hải vay.Điều này thể hiện rõ trong số dự án của các doanh nghiệp này xin đăng ký tăng thêm vốn. Khi thực hiện cổ phần hoá hơn 121 tỷ giá trị vốn, thì vốn huy động thêm chỉ khoảng 10 tỷ, một tỷ lệ quá thấp.
Nhà nước chưa có văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chư rõ ràng thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát.Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình, Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi cổ phần hoá là nghĩa vụ bắt buộc, mà lại chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp, các địa phương, các bộ chủ quản. Chủ trương cổ phần hoá dàn đều, không tập chung vào các vùng trọng điểm.
Cách tính giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá cũng còn gặp không ít khó khăn và đã kéo dài lịch trình cổ phần hoá, thậm trí làm cho cổ phần hoá không thực hiện được. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi thế thực hiện chưa tốt và chưa có căn cứ khoa học ( mới chỉ có 3 doanh nghiệp đánh giá được lợi thế ). Nên chăng chúng ta áp dụng phương pháp do chuyên gia IFC đề xuất trong hội thảo đối với tiến trình cổ phần hoá.
Công tác kiểm toán đã gây cản trở trong công việc thực hiện cổ phần hoá. Kiểm toán chưa thực sự thực hiện được chức năng của mình. Chi phí kiểm toán rất cao, nhưng chỉ kiểm toán được hạch toán của doanh nghiệp, chưa xác định được giá trị doanh nghiệp, hơn nữa chi phí kiểm toán lại tính vào giá trị doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp miền Nam chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu nhà xưởng, đất đai cũng đã gây ách tắc cho quá trình cổ phần hoá.
Chúng ta chưa có thị trường chứng khoán nói chính xác hơn là thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn hình thành. Có ý kiến cho rằng đây không phải là nguyên nhân làm cho quá trình cổ phần hoá chậm, bởi vì họ cho rằng các cổ đông Việt Nam hiện tại không muốn bàn cổ phiếu của mình. Theo một số ý kiến thì điều này chỉ đúng phần nào đối với một số doanh nghiệp ở miền Bắc. Trên thực tế nếu thị trường chứng khoán hoạt động thì việc mua bán cổ phiếu trái phiếu, việc thu hồi vốn đầu tư khi cần thiết sẽ được thực hiện dễ dàng hơn và người đầu tư sẵn sàng hơn khi mua cổ phiếu. Thời gian qua việc mua bán cổ phiếu tại các công ty cổ phần chủ yếu là quan hệ thân tín, quen biết. Do đó khi việc mua bán cổ phiếu triển khai trên diện rộng sẽ gặp không ít khó khăn vì thiếu thông tin về tình trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ,thủ tục phương thức mua bán cổ phiếu .
Vấn đề bán cổ phiếu cho người nước ngoài chưa được đề cập với mục tiêu cổ phân hoá và thu hút mọi người vốn rộng rãi trong và ngoai nước. Điều này đã han chế các công ty cổ phần thu hút một khối lượng lớn vốn nước ngoài. Hiện tại chúng ta mới thu hút được một lượng vốn lớn trong nước và như vâỵ mục tiêu cổ phần hoá chưa được thưc hiện triệt để. Mặt khác khi các công ty cổ phần thực hiện bàn cổ phiếu, đại bộ phận dân chúng chưa dám mạo hiểm đầu tư mua cổ phiếu do sự hạn chế về vốn và chưa có thói quen đầu tư vào công ty cổ phần. Trong khi nước ngoài họ có sẵn vốn lại được trang bị kiến thức về đầu tư cổ phiếu thì lại chưa được mua. Đều này đã ảnh hưởng chung đến quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn này.
Nói chung ở giai đoạn này trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm ở giai đoạn trước, chính sách cổ phần hoá đã có nhiều chuyển biến tích cực, Chính phủ đã ban hành một số văn bản nhằm khắc phục, sửa đổi mhững sai lầm, đồng thời có chích sách ưu đãi để khuyến khích các DNNN thực hiện cổ phần hoá mang tinh thần tự nguyện. Tuy nhiên trong giai đoạn này cũng còn không ít những vướng mắc tiếp tục hoàn thiện để thúc đẩy cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn .
1.3.Giai đoạn triển khai hàng loạt từ 6/1998 đến nay.
Kể từ khi nghị định 28CP ngày 7/5/1996 ra đời đã làm thay đổi tốc độ cổ phần hoá, tạo một bước chuyển biến tích cực. Xong cùng với cơ chế vận động của kinh tế thị trường, sau hơn 2 năm thực hiện, Nghị định 28CP đã không còn phát huy được nhiều tác dụng, một số hạn chế của nó đã cản trở lại cho việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN. Nghị định 44-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển DNNN thành công ty cổ phần được ban hành đã giải quyết yêu cầu bức thiết về một văn bản mới phù hợp với tiến trình cổ phần hoá trong giai đoạn mới.
Cùng với Nghị định số 44-CP của Chính phủ quyết định số 128-QĐ-UBCK của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước ngày 1/8/1998 ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm Giao dịch Chứng khoán.
Công văn số 3395-VPCP-ĐMDN của Văn phòng Chính phủ ngày 29/8/1998 hướng dẫn quy định và phương án mẫu cổ phần hoá . Nghị định 44CP ra đời đã thúc đẩy tốc độ cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn. Tính đến ngày 31/12/1999 cả nước đã cổ phần hoá được 370 doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm và nhỏ hẹp. Đến hết năm 1999, số DNNN cổ phần hoá mới chỉ chiếm 6,2% về số lượng và khoảng 1% về vốn trong tổng số DNNN. Số lượng DNNN thực hiện cổ phần hoá tăng nên, nhưng so với kế hoạch đề ra có xu hướng giảm xuống. Cụ thể năm 1998, kế hoạch cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhưng thực hiện được 111 doanh nghiệp, đạt được 74% kế hoạch; năm 1999, kế hoạch cổ phần hoá 400 doanh nghiệp, thực hiện được 250 doanh nghiệp, chỉ đạt 62,5% kế hoạch. Năm 2000 phải hoàn thành cổ phần hoá hơn 600 doanh nghiệp, nhưng 4 tháng đầu năm mới có hơn 40 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá.
Theo báo cáo của Ban đổi mới quản trị doanh nghiệp Trung ương về kết quả hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trên một năm thì:doanh thu bình quân tăng 1,3 lần; lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần; vốn tăng hơn 2,5 lần; nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi cổ phần hoá; cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng; việc làm và thu nhập cùng có xu hướng tăng.
1.3.1.Những thành tựu đạt được
Chủ trương chính sách và kế hoạch cổ phần hoá của Chính phủ tương đối đồng bộ và rõ ràng.Đối tương thực hiện cổ phần hoá đã được xác định cụ thể. Đã xác định rõ hai loại hình doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ lại 100% vốn,loại doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối,cổ phần đặc biệt và loại doanh nghiệp Nhà nước không cần giữ cổ phần hoặc chỉ là những cổ đông bình thường đầu tư để hưởng lợi tức.Từ đó tạo điều kiện cho Chính phủ đặt và giao kế hoạch cổ phân hoá cho từng Bộ, Ngành, địa phương, tổng công ty. Bên cạnh đó các chính sách được ban hành xác định tương đối rõ trình tự thủ tục và phương pháp cổ phần hoá,giảm bớt các thủ tục hành chính. Các chính sách ngày càng tiến tới tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế,các loại hình doanh nghiệp.
Đối tượng mua cổ phiếu và mức mua số lượng cô phiếu lần đầu tiên được mở rộng.Giai đoạn này,Nghị định 44 CP cho phép người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài,các tổ chức nước ngoài được quyền mua cổ phiếu tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.Mức khống chế mua lần đầu được mở rộng hơn cho các đối tượng, mức khống chế mua cổ phần tối đa theo quy định cũ là 5% đối với cá nhân và 10% so với pháp nhân giờ chỉ còn áp dụng với doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối,cổ phần đặc biệt. Còn đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mức mua lần đầu được mở rộng gấp đôi tương ứng với 10% đối với cá nhân và 20% đối với pháp nhân, tổng số giá trị cổ phần bàn cho các đối tượng này không quá 30% vốn điều lệ của mỗi công ty. Đặc biệt đối với công ty cổ phần mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần nào thì không khống chế mức mua cổ phần.
Các doanh nghiệp đã hoàn thành mục tiêu: vừa tăng đóng góp thêm lãi cho ngân sách Nhà nước, vừa tăng thu nhập của người lao dộng, vừa tăng doanh thu và lợi nhuận, vừa tăng thu hút vốn. Theo thống kê, đến hết tháng 10/1999 tổng số 50 doanh nghiệp được cổ phần hoá trên một năm thì Thời báo ngân hàng, tháng 9/1999
:
+Doanh thu tăng gấp 2 lần so với trước khi cổ phần hoá như công ty cổ phần Bông Bạch tuyết, thức ăn gia súc, có công ty doanh thu tăng gấp đôi như công ty cổ phần cơ điện lạnh tăng từ 46 tỷ lên 94 tỷ đồng.
+Nộp ngân sách tăng bình quân từ 2 đến 2,5 lần.
+Thu nhập của người lao động tăng bình quân 50%, có những công ty cổ phần tăng rất lớn như công ty cổ phần Ong Mật từ 0,5 triệu lên 1,2 triệu/ một người/ một tháng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển tù 1,4 triệu/ người/ tháng.
+Lao động sử dụng tăng thêm 30%, không có doanh nghiệp nào phải đưa người lao động ra ngoài doanh nghiệp trừ những người muốn chấm dứt hợp đồng lao động
+Lợi nhuận tăng từ 2-3 lần ở tất cả các doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong thời gian trên một năm hoạt động.
+Tốc độ tăng vốn bao gồm cả phần vốn tự tích luỹ từ lợi nhuận và phát hành thêm cổ phiếu là 2 lần, có đến công ty tăng đến 5 lần như công ty cổ phần chế biến xuất khẩu Long An.
+Mức cổ tức tính trên vốn đạt bình quân từ 1-2%/ tháng( cao hơn lãi suất ký thác tiết kiệm ngân hàng).
Tăng thêm hình thức tiến hành cổ phần hoá. Ngoài ba hình thức được quy định trong Nghị định 38-CP đén nay đã quy định thêm một hình thức mới để DNNN tiến hành cổ phần hoá đó là: bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Việc đa dạng hoá hình thức tiến hành cổ phần hoá là một bước chuyển mới có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trên cơ sở tự do lựa chọn hình thức cổ phần hoá cho phù hợp với tính chất và đậc điểm riêng có của mỗi doanh nghiệp.
Vấn đề định giá tài sản doanh nghiệp rất quan trọng quyết định đến tiến trình cổ phần hoá nhanh hay chậm đã được tháo gỡ.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp và các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp được đánh giá tại thời điểm cổ phần hoá, xuất phát từ các yếu tố phát sinh tại thời điểm đó như sổ sách kế toán của doanh nghiệp, giá thị trường, lợi thế kinh doanh, trên nguyên tắc” người mua ,người bán cổ phần đều chấp nhận được”.Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.
Chính sách ưu đãi đối với người lao động được mở rộng hơn, có tính đến người lao động nghèo. Người lao động không còn băn khoăn về việc làm vì doanh nghiệp cổ phần hoá phải có trách nhiệm sắp xếp sử dụng số lao động.Trong đó họ được hưởng những ưu đãi:Nhà nước bán cổ phần với giá ưu đãi đặc biệt, mỗi năm làm việc cho Nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần với mức giảm giá 30%. Tổng giá trị ưu đãi không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Chủ sở hữu có thể chuyển nhượng, thừa kế và các quyền khác của cổ đông .Người lao động nghèo được trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi suất và hoàn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức.
Bên cạnh những thành tựu mà tất cả chúng ta thừa nhận còn có một số những cản trở nhỏ và khi nghị định đi vào thực tế mới phát sinh.
1.3.2 Những hạn chế cơ bản
Mức khống chế mua cổ phần theo giá ưu đãi của cán bộ quản lí. Theo quy định hiện tại cán bộ quản lí doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi không quá mức bình quân cuả những người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này chưa khuyến khích, không tạo được niềm tin các cổ đông khác mua cổ phần. Mặt khác quy định cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần ưu đãi không vượt quá mức cổ phần ưu đãi bình quân của người lao động trong doanh nghiệp đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa những lãnh đạo có năm làm việc cho Nhà nước cao hơn mức bình quân bị thiệt thòi. Khống chế mức mua cổ phần còn quá cứng nhắc chặt chẽ khiến một số doanh nghiệp chưa huy động vốn đủ nhưng do bị khống chế nên nhiều cá nhân, pháp nhân có tiền mà không được mua thêm.
Việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hóa đa số là hoạt động kinh doanh khó khăn, kém hiệu quả tình hình tài chính không lành mạnh, chư có biện pháp củng cố nhưng đã đưa vào kế hoạch cổ phần hoá, dẫn đến không hấp dẫn đối với người mua cổ phiếu.Tâm lý của của cán bộ doanh nghiệp cổ phần hoá lo sợ ảnh hưởng đến vị trí công tác, quyền lợi của một bộ phận cán quản lý trực tiếp tại doanh nghiệp Nhà nước và các cơ quan quản lý Nhà nứoc trung gian. Tiến độ cổ phần hoá nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào bản thân doanh nghiệp. Hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên doanh nghiệp lo ngại khi đã cổ phần hoá sẽ khó bán cổ phần. Một số doanh nghiệp lại muốn chậm cổ phần hoá để tích luỹ thêm quỹ khen thưởng và phúc lợi chia cho công nhân viên.
Việc ban hành quy định bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài còn gây nhiều tranh cãi. Khống chế mức mua cổ phần còn quá chặt chẽ và cứng nhắc khiến một số doanh nghiệp không huy động được vốn đủ nhưng do bị khống chế nên nhiều cá nhân, pháp nhân muốn đầu tư mà không được. Một vấn đề nữa là giá bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự thống nhất trong cacs văn bản đã gây nên tình trạng công ty cổ phần không biết bán cổ phần cho các đầu tư nước ngoài theo giá nào.
Vấn đề nguồn vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp cũng còn nhiều điều chưa thoả đáng. Nguyên tắc chung là người lao động được hưởng lao động từ tiền lương còn lợi nhuận sau thuế là sở hữu của nhà đầu tư. Tuy nhiên trong thực tế nhiều doanh nghiệp không được Nhà nước đầu tư vốn đầy đủ nên phải chịu rủi ro trong việc vay thêm vốn để đầu tư mới công nghệ và mở rộng sản xuất vì vậy họ phải đẩy nhanh khấu hao giả trích quỹ phúc lợi, giảm tiền thưởng để sớm trả xong nợ vay, nhiều nơi còn huy động vốn góp của công nhân trong doanh nghiệp theo lãi suất thấp hơn lãi suất thực của doanh nghiệp. Nhưng đến khi xác định tài sản của doanh nghiệp để cổ phần hoá thì số tài sản đầu tư mới này lại thường được đánh giá cao hơn so với sổ sách kế toán. Thực tế này đã dẫn đến nhiều cán bộ công nhân viên trong nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hài lòng và không nhiệt tình ủng hộ cổ phần hoá.
Một số quy định ưu đãi với DNNN cổ phần hoá ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp đang chuẩn bị cổ phần hoá và các doanh nghiệp khác trong diện cổ phần hoá.
Nói chung đến giai đoạn này chúng ta đã có chính sách cổ phần hoá tương đối hoàn chỉnh đã tạo nhiều chuyển biến tích cực thúc đẩy các DNNN thực hiện cổ phần hoá, tốc độ cổ phần hoá diễn ra tương đối nhanh quy trình và hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần đã thực sự vững chắc và hiệu quả.Tuy nhiên trong quá trình triển khai, thực tế cổ phần hoá vẫn còn nảy sinh nhiều vướng mắc hạn chế tiến trình cổ phần hoá. Cùng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, thay đổi môi trường kinh doanh do đó trong thời gian tới chúng ta phải có kế hoạch để tiếp tục hoàn thiện những vấn đề chưa phù hợp với thực tế và có các chính sách quy định mới để cổ phần hoá thực sự là một hình thức kinh doanh có hiệu quả nhất trong tương lai.
2. Những nhận xét chung về quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam
Tính đến ngày 31/12/1999 cả nước ta đã cổ phần hoá được 370 DNNN trong đó suốt thời kỳ thí điểm (tháng 6 năm 1992 đến tháng 5 năm 1996) có 18 doanh nghiệp đăng ký làm thủ tục nhưng thực tế chỉ cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp. Sang thời kỳ triển khai việc chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định 28 CP (từ tháng 5 năm 1996 đến tháng 6 năm 1998) tròn 2 năm nhưng cũng chỉ cổ phần hoá được 14 doanh nghiệp. Sau khi ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35035.doc