Phần I: Mở đầu 1
PHẦN II: NỘI DUNG 4
Chương I: Lý luận chung về chuyển giao công nghệ 4
I/ Vai trò của chuyển giao khoa học - công nghệ và chuyển giao công nghệ đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước 4
1. Những khái niệm cơ bản về khoa học - kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. 4
1.1 Khái niệm khoa học - công nghệ. 4
1.2. Khái niệm chuyển giao công nghệ: 6
2/ Vai trò của khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 12
2-1. Khoa học công nghệ làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người. 12
2.2. Cách mạng khoa học công nghệ mang lại nền văn minh cho cuộc sống của con người. 15
2.3. Khoa học công nghệ tác động đến quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. 16
2.4. Khoa học công nghệ tạo điều kiện chuyển nền kinh tế tư phát triển chiều rộng sang phát triển chiều sâu. 17
II. Thực trạng chuyển giao công nghệ ở nước ta 17
1 .Giai đoạn kháng chiến chống Pháp(1945-1954) 17
2. Giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế(1955-1964) 18
3. Giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1965-1975). 19
4. Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước(1976-1990). 20
5. Giai đoạn từ 1991 đến nay. 21
CHƯƠNG II: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH VÀ PHÁT TRIỂN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ. 27
I. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở một số nước Châu Á. 27
1. ở một số nước cụ thể: 27
2. Đánh giá chung: Những kinh nghiệm thành công và những tác động tiêu cực chủ yếu trong việc tiếp thu công nghệ ở một số nước lựa chọn trên cho thấy: 32
2.1. Những kinh nghiệm thành công. 32
2.2 Những tác động tiêu cực trong chuyển giao công nghệ ở một số nước trong khu vực. 33
II. CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ - NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU: 34
1. Xây dựng năng lực khoa học và công nghệ nội sinh: 34
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỐI VỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ: 36
1. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực khoa học - công nghệ nội sinh của đất nước. 36
1.1. Huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghệ: 36
2. Tiếp thu công nghệ nước ngoài - một số giải pháp: 43
Phần III: Kết luận 50
52 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đề tài Một số hình thức chuyển giao công nghệ để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điện, chế biến ra khoáng ven biển...
Đã thiết kế chế tạo nhiều dây truyền sản xuất vật liệu hoá chất như phân lân, phân hỗn hợp NPK, thuốc trừ sâu thảo mộc, thuốc trừ sâu vi sinh, các hoạt động kích thích sinh trưởng, một số hoá chất cơ bản, hoá chất tinh khiết, các loại sơn bảo vệ, đặc biệt là sơn chống hà trên cơ sở cao su vòng hoá; nhiều loại vật liệu xây dựng được nghiên cứu và đưa vào sản xuất: xi măng trắng, xi măng giếng khoan...
Về mặt công nghệ chế tạo máy: Đã chế tạo các thiết bị động lực, các thiết bị điện, các máy móc thiết bị nông nghiệp, thuỷ lợi, các phương tiện vận tải đường bộ, đường biển, đường sắt, đóng tàu phà sông biển và tàu vận tải biển đến 3000T. Thiết kế chế tạo và lắp đặt nhiều dây truyền quy mô vừa, quy mô nhỏ phục vụ cho công nghiệp thực phẩm và các ngành công nghiệp nhẹ.
Công nghệ điện tử và tin học cũng có bước phát triển mới rất đáng kể kết hợp công tác nghiên cứu và triển khai trong nước với việc nhập công nghệ từ nước ngoài, đã lắp ráp hàng loạt thiết bị điện tử dân dụng đảm bảo nhu cầu văn hoá của nhân dân, thiết kế lắp ráp nhiều loại thiết kế đo lường, một số thiết bị thông tin kỹ thuật số như vi ba băng hẹp, tổng đài điện tử y tế, lắp ráp máy vi tính để sử dụng trong nước và xuất khẩu, kỹ thuật tin học được sử dụng ngày càng phổ biến.
Trong thời kỳ này chúng ta đã tiếp thu công nghệ từ nước ngoài qua kênh liên doanh, bước đầu tự động hoá một số trọng điểm của mạng lưới thông tin điện thoại, xây dựng và quản lý tốt mạng lưới thông tin vệ tinh hiện đại đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
5. Giai đoạn từ 1991 đến nay.
Xuất phát từ các nghị quyết, nghị định của Đảng và nhà nước, đã mở đường cho tiếp thu và phát triển khoa học công nghệ nước ta trên nhiều lĩnh vực. Giai đoạn này chuyển giao công nghệ được thực hiện một cách mạnh mẽ nhất là từ năm 1995 trở lại đây. Do khả năng có hạn của bản thân nên sẽ tập trung khai thác thực trạng tiếp thu công nghệ ở giai đoạn này theo các khía cạnh sau:
* Thành quả tiếp thu công nghệ mới các ngành trong cả nước.
- Tính đổi mới đồng bộ trong sự tiếp thu các ngành như:1- Vô tuyến viễn thông là ngành “ hiện đại hoá” nhanh, đi thẳng vào hướng “mã số hoá” tự động hóa và đa dạng dịch vụ, sử dụng vệ tinh viễn thông, truyền dẫn mạng bằng cáp quang vi ba băng rộng (Tức tổng đài tự động trong cả nước) hệ thống viễn thông di động, chuyển mạng gói truyền số liệu...2- Trong công nghiệp nhẹ: nhiều mô hình tiếp thu công nghệ mới mang tính điển hình trong đổi mới thiết bị - công nghệ như: Dệt ( sớm cải tiến cơ chế quản lý, kỹ thuật, tiếp thu công nghệ nước ngoài...) đã cố gắng cứu nguy cho tình trạng suy thoái của ngành, làm tăng sản lượng sợi- vải gấp 2-3 lần năm trước đó. Chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên khu vực Đông á. Thành quả tiếp thu đã đổi mới thiết bị dệt, dệt kim, may, nhuộm phụ trợ, thí nghiệm... tạo ra mặt hàng phong phú, đa dạng, chất lượng cao. Tăng lượng hàng dệt kim 23, 2%/1991 so với năm 1990( tỷ trọng sản phẩm tăng 10% năm. Nhiều đề tài tiếp thu công nghệ mới như kéo sợi bông nội địa, thiết kế, dây chuyền ươm tơ và thiết bị kiểm nghiệm tơ, sản xuất lụa và lụa mềm, tiếp thu công nghệ mới sản xuất sợi pha tổng hợp, sản xuất máy dệt mới... đã nâng cao trình độ tiếp thu mới trong ngành dệt.3- Trong ngành công nghiệp nặng: Thực trạng tiếp thu nâng cao tiềm lực công nghệ quốc gia tăng rõ rệt công nghệ xây cầu: Thăng long, thuỷ điện Trị an, dầu khí Vũng Tàu, cáp quang ra đảo...Đặc biệt, tiếp thu công nghệ xây dựng đường dây 500kVA Bắc - Nam (khởi công 1992, hoàn thành 1994, có công suất thiết kế 1.487km, 5 trạm biến thế quy mô lớn. Vốn đầu tư 5.714 tỷ đồng). Thuỷ điện Hoà Bình(1979-1994) công suất thiết kế 1.920 MW, vốn 1.563 tỷ đồng, thuỷ điện Yaly (1993-1999) công suất thiết kế 690 MW, vốn 5.713 tỷ đồng, công trình FIR tại thành phố Hồ Chí Minh (1993- 1998, vốn 50 triệu USD+ phụ kiện 8 tỷ) [19, 32].
Còn nhiều công trình hoá dầu, mở rộng cảng sâu, hiện đại hoá sân bay, quốc lộ I... Mức độ công nghệ mới được tiếp thu còn phản ánh trên trình độ điện khí hoá nông thôn - Đã có 5.381 xã có điện (chiếm 60,2% số xã cả nước) trong đó 4.400 dùng điện của (500kVA) quốc gia- Cả nước tỷ lệ xã dùng điện cao nhất là đồng bằng sông Hồng 98%, tiếp đến vùng Đông Nam Bộ 72%, đồng bằng sông Cửu Long 67% Bắc khu 4 cũ 62%, Duyên Hải miền trung 55%. Có những vùng điện khí hoá cao như Nam Hà 99%, Thái Bình 91%, nhưng cũng có vùng rất thấp; miền núi Bắc bộ 37%, vùng Tây Nguyên 31% [22,30]. Thành quả tiếp thu công nghệ mới trên, đồng thời cũng mở ra điều kiện tăng nhu cầu công nghệ mới trên các lĩnh vực khác.
Thực trạng tiếp thu công nghệ phản ánh trên vốn đầu tư: 5 năm (1991-1995) nhà nước đầu tư hơn 1.192 tỷ đồng cho ngành Bưu điện, đã bảo đảm liên lạc “ điện thoại” thông suất cả nước mở rộng đàm thoại quốc tế tăng từ 19,9 triệu phút/1991 lên 136 triệu phút/1994 và 7 tháng đầu năm 1995 đã có 218 triệu phút. Trong cả nước đã có nhiều doanh nghiệp chú trọng đầu tư để tiếp thu công nghệ mới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được quá trình chuyển giao công nghệ không tránh khỏi những hạn chế sau:
* Thực trạng yếu kém của tiếp thu- đổi mới công nghệ
chuyển giao công nghệ trong những năm vừa qua cho thấy: Tuy có tiếp thu - đổi mới công nghệ, nhưng thực trạng tình hình là hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ năng suất hiệu quả thấp. Do đó, sản phẩm chất lượng thấp giá thành cao, không hợp thị hiếu thị trường ( cả trong nước: hàng ngoại lấn, áp đảo. ở ngoài nước: không đủ sức cạnh tranh, thiếu độ tin cậy), sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dạng thô bán thành phẩm.
Thực trạng tiếp thu - đổi mới công nghệ trong các ngành:
1- Điện lực (nhất là nhiệt điện): Lạc hậu, hiệu suất nhiệt cao nhất không quá 27-29% trong khi bình quân của Hàn Quốc năm 1993 là 37, 35% (năm 1961 là 22,64%, năm 1975 là 33,3%). Tổn thất điện năng cuả ta là 22-28% của Hàn Quốc năm 1993 là 5,57% (năm 1961 là 29,35%) năm 1975 là 11,5%.
2- Ngành sản xuất xi măng: Được xem là tiếp thu công nghệ tiên tiến nhưng kém xa các NICS: Xi măng Hoàng Thạch vẫn tiêu thụ 1000 đến 1100 kilokalo/1kg clinke và năng suất lao động là 450 tấn xi măng/ 1người/1năm, trong khi các nước tiên tiến của thế giới là 720 kilôcalo/1clinke, năng suất lao động là 5000tấn xi măng/1người/1năm.
3- Các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến rất kém hiệu quả năm 1993 khảo sát 24 hạng mục công trình có 76% thiết bị thuộc thế hệ I, sản xuất những năm 50-60, 24% thuộc thế hệ II. Xét chung 24 hạng mục đã khấu hao 30%, tân trang lại 52% [5,114]
Thực trạng tiếp thu - đổi mới công nghệ theo tính chất chuyên dùng, mức độ tự động hoá trong vận hành chỉ chiếm 16% so với mức tiên tiến của thế giới. ở nước ta công nghệ tham gia chế biến chỉ 10-20% hệ số đổi mới chỉ 7%, chưa bằng 1/2 mức đổi mới ở nước đang phát triển. Một số ngành tích cực đổi mới công nghệ nhưng mức đổi mới thấp: Dệt 33%, May 46%, khai thác than 37%, chế biến thuỷ sản 33% [15,25]
Trình độ cơ khí hóa nền kinh tế còn thấp chỉ 43% lao động trong khu vực kinh tế TW, 23% thuộc địa phương là có cơ giới hoá, trong công nghiệp có cơ khí hoá cao nhưng chỉ hơn 50% (công nghệ TW 60%, công nghệ địa phương 47%) còn ngành nông nghiệp chưa quá 20% (NNTW 19%, NNĐP 18,4%) [5,115]
Vốn ít, sản xuất - kinh doanh kém hiệu quả khó cho tiếp thu - đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp nhà nước được xem là lực lượng hùng hậu trong tiếp thu đổi mới công nghệ. Nhưng theo cục thống kê cho thấy: Vốn nhỏ và thiếu vốn, trong 6460 doanh nghiệp bình quân vốn 6,9 ty đồng/ 1 doanh nghiệp, xấp xỉ 600 nghìn USD(15,2%), vốn dưới 1 tỷ ( đến 49,9%), vốn trên 10 tỷ ( chỉ chiếm 7,7%), trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan, Malaixia, indonexia... là 1-1,5 triệu USD/1 doanh nghiệp, trong các ngành doanh nghiệp, thương mại vốn từ 5-10 tỷ/1 doanh nghiệp chỉ 19,6-10,5%. Trong số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, doanh thu, lãi suất, nộp ngân sách rất thấp là nguyên nhân gây cản trở việc tiếp thu đổi mới công nghệ.
Thực trạng tiếp thu đang để lại công nghệ có công suất và hệ số sử dụng thấp: Hệ số làm việc chỉ 0,2 cá biệt công suất hoạt động của công nghệ chỉ 45%, hệ số sử dụng chỉ 25-30% ( ngành cơ khí chỉ 20%)
Tiếp thu công nghệ nước người bằng kênh FDI gây nhiều thiệt hại về giá, công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường trong nước, kênh FDI thường đưa vào công nghệ thiết bị... Qua hơn 7 năm (87-95) vốn FDI thăng đăng ký đến 7/1995 đạt 17 tỷ USD, trong số 1.432 dự án. Nhưng thực tế hoạt động mới 33,6 dự án và vốn tương ứng 3,878 tỷ USD ( tính đến 12/1994)
* Đánh giá chung
+ Ưu điểm: Trong cả nước : Nhiều ngành tích cực đầu tư, tiếp thu đổi mới công nghệ, điển hình là: Dệt, May, Giấy, Điên- Điện tử, Bưu chính viễn thông, công nghiệp, chế biến và tiêu dùng. Các ngành lắp ráp ô tô, xe máy, nhiều công trình lớn đã và đang xây dựng càng thu hút công nghệ mới vào, công nghệ điện tử, công nghệ tin học...Đóng góp phần lớn làm tăng năng lực sản xuất, tăng sản phẩm công nghiệp đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu cho sản xuất - đời sống - xuất khẩu. Nhiều công trình lớn được xây dựng, một số ngành và khu công nghiệp lớn đã hình thành, tăng cường tiềm lực công nghệ quốc gia. Góp phần quan trọng làm tăng GDP bình quân/năm: 7,50%, tăng trưởng nông nghiệp 4%/năm đưa sản lượng nông nghiệp từ 21 triệu tấn/1990 lên 35,6 triệu tấn/2000, đưa tốc độ công nghiệp tăng bình quân 13,6%/năm, thành quả tiếp thu công nghệ mới đưa sản lượng điện, dầu thô, xi măng , bưu điện... tăng đáng kể, đưa kinh tế xuất nhập khẩu tăng 20%/năm tạo điều kiện đầu tư (FDI) phát triển. Đẩy lùi lạm phát từ 67% (1991) xuống 5% (1993) tăng GDP/người. Góp phần tích cực phát triển kinh tế- xã hội đất nước.
Nguyên nhân của những thành tựu trong việc tiếp thu - đổi mới công nghệ mang lại khách quan là do sức ép của thị trường cạnh tranh sản phẩm. Chủ quan là do: 1- Đảng và nhà nước có nghị quyết, nghị định đổi mới hoạt động khoa học công nghệ thúc đẩy việc tiếp thu công nghệ mới. 2- Doanh nghiệp có kinh nghiệm trong tiếp thu công nghệ ở khâu trọng yếu, bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhà nước hỗ trợ tư vấn, doanh nghiệp tự lựa chọn công nghệ, đào tạo chuyên gia, chọn đối tác đàm phán và hợp tác tái kinh doanh tiếp thu công nghệ có hiệu quả.
+ Đánh giá mặt hạn chế:
Một là: Tiếp thu đổi mới công nghệ lẻ tẻ, thiếu quy hoạch chiến lược cơ bản, bị động vài áp lực của thị trường. Phần lớn các công nghệ tiếp thu, chủ yếu do phía nước ngoài giới thiệu, doanh nghiệp không chủ động tìm kiếm lựa chọn tiếp thu công nghệ nước ngoài trong lúc ta thiếu nhiều điều kiện tiền đề: Vốn, thị trường, kết cấu hạ tầng, năng lực lao động- quản lý thiếu thông tin, yếu trình độ.
Hai là: Tiếp thu- đổi mới công nghệ gây lãng phí vốn đầu tư, gây ô nhiễm môi trường. Tâm lý tiếp thu công nghệ hiện đại sẽ là sức ép đến vấn đề việc làm và thất nghiệp.
Ba là: Tiếp thu- đổi mới công nghệ thường chú ý phần cứng, những kinh nghiệm, bí quyết của phần mềm ít đề cập và lựa chọn.
Bốn là: Quá trình tiếp thu... thiếu quan hệ giữa doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với ngành chủ quản. Có trường hợp ngành chủ quản không nắm trình độ công nghệ, trong ngành, có viện R-D không nắm thông tin công nghệ quốc tế, thiếu năng lực tham gia giám định tư vấn cho doanh nghiệp, để lựa chọn công nghệ mới hiệu quả.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
Về khách quan: Sản xuất kinh doanh nước ta vừa chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường ở trạng thái còn nhiều bỡ ngỡ và mới mẻ. Trên lĩnh vực “đầu tư - công nghệ” nhà nước còn thiếu những chiến lược vĩ mô, trong khi thị trường đang áp lực nhiều phía ( cạnh tranh, giá cả, độc quyền...) buộc phải bị động tiếp thu nôn nóng để cứu nguy cho doành nghiệp. Đặc biệt chưa chuẩn bị những tiền đề cần thiết để thích nghi với công nghệ mới vào đã gây lên nhiều hạn chế lãng phí lớn cho nền kinh tế đất nước.
Về chủ quan: Do thiếu thông tin, hạn chế năng lựcvề tri thức công nghệ, chỉ thấy phần cứng còn phần mềm của công nghệ chưa được hiểu. Hoặc quá cảnh giác để đàm phán tiếp thu công nghệ mới. Có khi bàng hoàng trước những công xưởng, tiềm lực khoa học- công nghệ hùng hậu của nước ngoài. Nên tiếp thu công nghệ lạc hậu không phù hợp với nước ta. Đặc biệt, một số người lợi dụng cơ chế thoáng của nhà nước khuyến khích việc tiếp thu công nghệ mới nên nhờ đối tác nước ngoài mua công nghệ - thiết bị với giá cao nhằm thu vén lợi ích cá nhân, thông qua nâng giá, hưởng hoa hồng. Không lại trừ thủ đoạn của đối tác nước ngoài, lợi dụng sơ hở - những hạn chế của phía Việt Nam, để họ kinh doanh trục lợi, cả ý đồ tha hoá cán bộ.
Những hạn chế trong tiếp thu đổi mới công nghệ thời gian qua và những nguyên nhân đã nêu trên là những bài học “quý giá” và cần thiết. Đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm đúng, lựa chọn kinh nghiệm một số nước tìm thấy những giải pháp tối ưu. Để tiếp thu - đổi mới công nghệ có hiệu quả trong thời gian tới.
Chương II: Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và phát triển chuyển giao công nghệ.
I. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở một số nước Châu á.
ở một số nước cụ thể:
* Nhật Bản: Sau thế chiến II nền kinh tế phát triển “Thần kỳ” nhờ tiếp thu, phát triển khoa học công nghệ theo hướng “Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản” [14,1].
Nhật không giàu tài nguyên (đứng thứ 9 trên thế giới) ngoài than đá (8,5 tỷ tấn) và bạc, còn các thứ khác không đáng kể. Đất hẹp người đông(300m2/ người vào 1994) - 80% diên tích đồi núi, 90% dân cư sống ở thành phố và ven biển, xã hội hóa nhanh và không ít khó khăn cho y tế- giáo dục và giao thông...
Nhật công nghiệp hoá trước chiến tranh (từ công nghiệp dệt, chế tạo máy, sản xuất hàng tiêu dùng). Sau thế chiến II: Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, ngoại thương, kỹ thuật- công nghệ... không ngừng phát triển. Đến nay là nước có tự động hoá, và sử dụng nhiều người máy, có thu nhâp GDP theo đầu người cao nhất thế giới.
A/ Rô bốt sử dụng trong các
ngành công nghiệp ( 50.000)
b/ Bình quân
GDP/người USD
1984
1987
1989
1994
Nhật
30.000
106.000
43RB/50.000
37.561
Mỹ
15.000
30.000
62RB/50.000
25.687
CHLB Đức
6.000
14.900
Thứ 3
23.520
Anh
2.000
4.300
16.300
Trích từ: a/ PTS Đặng Kim Nhung - chuyển giao công nghệ trong kinh tế thị trường và VN, NXBNM, H-1994, tr32.
b/ Tạp trí nghiên cứu kinh tế số 2(4/1995)
* Tình hình tiếp thu công nghệ- Qua chính sách phát triển khoa học công nghệ:
Trong công nghiệp: Xoá các cơ sở sản xuất kém hiệu quả, phát triển công nghệ ít tốn năng lượng và tiên tiến. Hiện đại hoá và hợp lý hoá doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng và phát triển đầu tư ra nước ngoài- Tập trung đầu tư cho cá ngành công nghệ “ trí tuệ”; điện tử cao cấp, máy tính, rô bốt...
Trong nông nghiệp: Phát triển thâm canh cơ giới hoá- hoá học- Thuỷ lợi- điện khí hoá ngày càng cao. Mở rộng diện tích canh tác, đan xen trồng cây công nghiệp ( ngắn và dài ngày) thích hợp.
Phát triển nguồn nhân lực khoa học- công nghệ xác định “ khoa học công nghệ là yếu tố” quyết định cho phát triển kinh tế Nhật. Thời kỳ đầu tiếp thu công nghệ tiên tiến từ Tây Âu + Mỹ, qua R-D Nhật đã chế tạo được công nghệ cao là nhờ “chính sách giáo dục” đúng đắn: Biết lấy “ sáng tạo” làm chuẩn mực, lấy phổ cập văn hoá cao làm thước đo và lấy siêng năng- cần cù học tập, khéo tay, tận tâm học theo “ ông chủ”... làm tiêu biểu cho người Nhật. Mục tiêu của các nhà khoa học Nhật là R-D có nhiều (sáng kiến phát minh) khoa học cấp thế giới. Họ sớm tiếp thu công nghệ ngoài vào: Nếu năm 1543 Nhật mua một khẩu súng thì năm 1553 đã sản xuất được 5000 khẩu. Nếu trước chiến tranh Thái Bình Dương, Nhật mua nylon của Mỹ thì sau chiến tranh ấy đã xuất khẩu nylon. Chất lượng R-D nghiêm khắc, sát hạch phát minh đạt tỷ lệ 50%. Nhưng số lượng bằng “ phát minh” được cấp vượt cả Mỹ, Anh.
Trong chương trình đào tạo luôn đổi mới nội dung và phương pháp. áp dụng cấu trúc 6-3-3-4 ( tương ứng các hệ tiểu học- trung học thấp- trung học cao- đại học) và lấy đào tạo qua thực tế “công ty” làm nét đặc thù của Nhật “ học đầy đủ đạo đức, năng lực tiếp thu công nghệ sao cho phù hợp với các chỉ tiêu của doanh nghiệp” [10,219] đó là phương pháp dạy- học của Nhật. áp dụng chính sách văn hoá “hai tầng” là nét tiêu biểu: “Giữ gìn truyền thống văn hoá Nhật- tiếp thu văn hoá phương Tây” xem là nguyên tắc cuộc sống ( ở công sở là bộ âu phục , trong gia đình là bộ kimônô, ăn đũa, “tôn sư trọng đạo- gắn với khí phách oai hùng “ tinh thần võ sĩ trọng đạo” được biểu tượng “ Thanh kiếm và hoa Anh đào” càng thể hiện cốt cách người Nhật.
Đầu tư mạnh cho R-D trong những năm 70 Nhật đầu tư phát triển công nghệ vượt cả Anh, Pháp. Đến năm 1975 đầu tư vượt Tây Đức và đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ) từ ( 1960-1973) Nhật chi R-D tăng 10 lần, đến 1979 đạt 4.500 tỷ Yên, 1989 lên 11,875 tỷ yên, tức là 1980-1985 tăng bình quân 9,8 %/năm, 1985-1985 tăng 6,2%/năm chiếm tỷ lệ 2,03% GNP/1989, so với Mỹ – Anh – Pháp thì Nhật chi cho R-D lớn nhất [17,170]. Hiệu quả của R-D công nghệ đem lại là: Nhật không chi tiết kiệm 100 tỷ USD(1985-1985) mà còn cải tiến công nghệ và tăng năng suất lao động không ngừng. Vốn đầu tư R-D nhà nước tiết kiệm là nhờ các doanh nghiệp tư nhân góp vốn từ 5%/1980 đến 6,6% 1998 (bằng 4748tỷ yên đã chiếm 58,1%/1980lên 69,7%/1988 so với vốn nhà nước)
- Hợp tác R-D để tiếp thu khoa học- công nghệ quốc tế, qua hợp tác đa phương và song phương với Mỹ, Đức, Pháp...và các nước đang phát triển. Nhật đã tăng cường trao đổi thiết bị nhân lực, trợ giúp kỹ thuật và học bổng. Lập các trung tâm kỹ thuật quốc tế, triễn lãm khoa học- công nghệ mới. Những hợp tác trên đã giúp Nhật tiếp thu nhanh chóng công nghệ nước ngoài. Đã bù đắp những yếu kém của Nhật về công nghệ cơ bản, có khả năng ứng dụng công nghệ mới và giúp Nhật sớm thương mại hoá những sản phẩm có hàm lượng công nghệ trí tuệ cao
* Trung Quốc: Phát triển công nghệ cổ truyền và tiếp thu công nghệ bậc cao : Lấy vi điện tử làm biến đổi công nghệ và công nghệ cổ truyền. Đẩy mạnh phát triển công nghệ bậc cao- và công nghệ cổ truyền; hình thành công nghệ hỗn hợp làm cơ sở cho công nghiệp hoá.
- Tiếp thu và phát triển công nghệ theo kế hoạch nhà nước quản lý: Nhà nước điều tiết các kênh tiếp thu công nghệ qua “ Pháp luật”, kiểm soát hành chính kế hoạch nhập công nghệ ( dự án trên 5 triệu USD đưa vào kế hoạch nhà nước, dưới mức đó do kế hoạch địa phương.
- Tiếp thu công nghệ: Thông qua kế hoạch “ lựa chọn (1986-1990)”. Thu hút đầu tư vốn và tăng cường nhập công nghệ tiên tiến lấy công nghệ nhập để sản xuất hàng xuất khẩu. Công nghệ được tiếp thu phải thích nghi đối với kinh tế Trung Quốc.
- Lập các tổ chức quản lý khoa học- công nghệ, các uỷ ban và trung tâm R-D khoa học- công nghệ có nhiệm vụ: Nghiên cứu các giải pháp và hạng mục xây dựng quan trọng. Về R-D công nghệ được quy định chế độ bản quyền. Xây dựng và mở rộng thị trường công nghệ, thử nghiệm việc hợp đồng lập quĩ R-D. Tổ chức cơ quan trao đổi nhân tài và làm dịch vụ khoa học. Phát triển giáo dục đại học, giáo dục chức nghiệp, tăng cường bồi dưỡng cán bộ- công nhân viên chức nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp thu công nghệ.
* Hàn Quốc: Là một trong 4 con rồng ở Châu á kinh tế- xã hội phát triển nhanh chóng, đảm bảo cho Hàn Quốc thành công công nghiệp hoá trong vòng 11năm theo chính sách tiếp thu khoa học công nghệ qua 3 giai đoạn.
- Thời kỳ (những năm 60) : Công nghệ dựa trên lao động giản đơn nhằm đáp ứng ngành công nghệ cơ bản để “ thay thế nhập khẩu” mở rộng cho công nghiệp nhẹ xuất khẩu. Thời kỳ này công nghiệp địa phương yếu ớt nên thường tiếp thu công nghệ nước ngoài “ trọn gói”. Nhà nước cũng lập hai cơ quan : 1- Bộ khoa học công nghệ TW; 2- Lập viện khoa học công nghệ quốc gia. Bằng phương châm “ lấy công nghiệp xuất khẩu làm nền cho phát triển khoa học công nghệ trong nước.
- Thời kỳ ( những năm 70): Lập các tổ chức R-D nhằm “ địa phương hóa” công nghệ nước ngoài. Theo hướng “ phát triển công nghệ trong công nghiệp phải thích nghi và thay thế công nghệ ngoài vào” . Do đó hàng chục viện R-D trên lĩnh vực; chế tạo máy, điện tử, đóng tàu..được phát triển. Đặc biệt mở rộng các trường đại học- giáo dục dạy nghề cho các ngành đó. Lập “ viện khoa học tiên tiến Hàn Quốc năm 1970 để tạo những kỹ sư và khoa học đầu đàn, góp phần định hướng lại công tác nghiên cứu và giáo dục khoa học trong các trường đại học. Kết quả là tiếp thu R-D nhanh, thúc đẩy công nghiệp nặng cải tạo công nghiệp địa phương sang giai đoạn phát triển.
- Thời kỳ (những năm 80): Tiếp thu công nghệ nước ngoài theo mục tiêu: chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động sang công nghệ có hàm lượng trí tuệ cao. Nhưng do chính sách bảo hộ giá công nghệ cao, thúc ép Hàn Quốc phát triển tiềm lực công nghệ bên trong. Do đó, R-D trong nước cực kỳ quan trọng không chỉ tiếp thu “ cải tiến công nghệ nhập vào, mà phải hoàn thiện các công nghệ then chốt tiến tới xuất công nghệ”. Tiêu biểu là dự án Hàn Quốc phát triển cao (HANP) qua phát triển công nghệ đặc thù bắt kịp các nước phát triển và đáp ứng cạnh tranh thị trường quốc tế. Dù giải quyết những khó khăn như: Thiếu vốn (5-20% của chi phí R-D), nhân lực tương ứng, tích luỹ năng lực công nghệ cao... song dự án phải được hoàn thành năm 2001.
* Đài Loan: Là vùng đảo phía nam Trung Quốc, Đài Loan có diện tích 36.000km2, 21 triệu dân (1994). Núi rừng gần70%, diện tích canh tác chỉ 25%, dân sống thành phố 25%, lao động đông và giá rẻ.
- Qua 6 giai đoạn tiếp thu và phát triển: Gđ1 ( 1945-1952), xây dựng các vùng công nghiệp cơ bản; Gđ2 (1953-1960), công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu; Gđ3 (1961-1972) lấy ngoại thương để chuyển dịch “ cơ cấu kinh tế hướng ngoại; Gđ4 (1973-1983) công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu lần II tự sản xuất TLSX; Gđ5(1984-1990) công nghiệp hoá hướng ngoại lần II: xuất khẩu sản phẩm của ngành có hàm lượng kỹ thuật cao; Gđ6(1991-1995): Tự động hoá, quốc tế hoá, chú trọng nhu cầu trong nước...Đầu tư công nghệ cao và tăng mức sống trong nước..10 năm công nghiệp hoá, đưa Đài Loan lên nước công nghiệp mới NIC là 1 trong 4 con rồng châu á. Bình quân đầu người cao: 148USD/1992, 7720USD/1993, 11.900USD/1994. Ngoại thương 1960-1990 tăng 200 lần ( đứng thứ 13 trên thế giới)
Tiếp thu công nghệ nước ngoài qua các chính sách: Phát triển khoa học- công nghệ linh hoạt: Lựa chọn khoa học công nghệ phù hợp trong từng lĩnh vực như:
1-Chú trọng công nghệ thích hợp “lấy nông nghiệp bồi dưỡng công nghiệp, lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển”, sử dụng công nghệ ít vốn thay giống mới, cải tiến phương pháp cạnh tranh, tăng phân bón theo nhu cầu hợp lý...Nhờ đó nông nghiệp tăng trưởng 60%.
2- Đặt Đài Loan trong một khâu dây truyền sản xuất của các công ty xuyên quốc gia: Những năm 60 công nghiệp hoá hướng ngoại. Chú trọng nông nghiệp dùng nhiều lao động có quy mô nhỏ và công nghệ trung bình. Trong công nghiệp lắp ráp nhập công nghệ đồng bộ, thu hút các xí nghiệp Dệt- điện tử có quy mô nhỏ- công nghệ cao của Mỹ vào để cạnh tranh lại Nhật. Trong dây truyền hơp tác sản xuất Mỹ- Đài Loan, giúp Đài Loan tiếp thu công nghệ mới và trình độ có nâng rõ rệt.
3- Những năm 70 có khó khăn về chính trị- kinh tế, vẫn chủ trương phát triển khoa học công nghệ để chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng “ những ngành có hàm lượng lao động cao sang những ngành sản xuất có hàm lượng tư bản cao- cần kỹ thuật- công nghệ phức tạp”.
* Singapo: Là nước có 587km2, 3,95 triệu dân có bình quân GDP đầu người cao ( 19.092USD của 1994). Hiện nay quá trình công nghiệp hoá có chậm lại, nhưng việc mở rộng các ngành dịch vụ( ngân hàng, giao thông, viễn thông , kinh doanh...) đang có xu hướng bành trướng nhu cầu cấp bách về công nghệ cao (vốn nhiều, hàm lượng trí tuệ lớn...) đang cần cho công nghệ xuất khẩu
- Tiếp thu công nghệ nước ngoài qua các chính sách: 1- Có khuyến khích ưu tiên để các cơ sở tiếp thu công nghệ hiện đại; 2- Ưu tiên phát triển các nhóm công nghệ mới; 3- Khai thác ưu thế dịch vụ vận tải biển nhờ kênh đào Xuy-Ê nối Đông - Tây đại dương nên phát triển mạnh du lịch- dịch vụ...tạo điều kiện cho tiếp thu và phát khoa học công nghệ cao.
2. Đánh giá chung: Những kinh nghiệm thành công và những tác động tiêu cực chủ yếu trong việc tiếp thu công nghệ ở một số nước lựa chọn trên cho thấy:
2.1. Những kinh nghiệm thành công.
- Sớm thành lập các trung tâm R-D: từ 1960 Nhật xây dựng các trung tâm tự động hoá, cử các chuyên gia giỏi, trẻ (25 đến 35 tuổi) vào làm việc. Đến năm 1990 đã có 5 MHM lớn( trong khi Mỹ chỉ 1 MHM ) [11,36]. Hàn Quốc: Những năm 70 lập tổ hợp công nghệ ở các vùng chủ yếu, đến năm 1980 xây dựng thành phố khoa học Đacduk( 28km2, có 8 viện của chính phủ, 3 viện của tư nhân, 1 số trường Đại học)- Đacduk là trung tâm hạt nhân R-D, tiếp thu phát triển công nghệ cao. Đài Loan: Xây dựng làng khoa học Hsinchư để tiếp thu R-D công nghệ mới rất hiệu quả. Singapo: xây dựng tầng I: chuỗi dài các cơ quan R-D công nghệ từ TW đến địa phương. Tầng II; lấy hệ thông tài chính hoàn hảo đầu tư cho R-D. Trung Quốc xây dựng chương trình “ Bó đuốc” và “ Đốm lửa” làm trung tâm công nghệ Duyên Hải và công nghiệp hoá tại nông thôn.
- Đầu tư mạnh cho khoa học công nghệ khuyến khích tư nhân đóng góp ngân sách vào R-D. Nhật huy động kinh phí đầu tư theo sự phối hợp nhà nước+gia đình+ doanh nghiệp + hợp tác quốc tế. Hàn Qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0045.doc