* Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) – Thôi Hiệu
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi
Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc giữa khoảng không
Hạc vàng một khi đã bay đi không bao giờ trở lại nữa
(Chỉ còn) mây trắng tự ngàn xưa vẫn lững lờ trôi trên tầng không
(Trời trong), cây bên bờ hán Dương soi bóng xuống dòng sông nhìn rõ mồn một
Xa xa, trên bãi Anh Vũ, cỏ thơm mọc tươi xanh mơn mởn
Bóng chiều đã xuống, quê nhà ở nơi đâu?
Trên sông khói sóng mịt mù càng khiến người thêm buồn.
(Câu 6 có bản không chép là “phương thảo” mà là “xuân thảo” – cỏ mùa xuân)
Hoàng Hạc lâu được xếp vào hàng những danh tác của Đường thi, đưa tên tuổi Thôi Hiệu lưu danh thiên cổ. Mượn câu chuyện truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng bay đi làm cảm hứng, bài thơ bộc lộ những cảm xúc “tích cổ thương kim”, đăng lâu tư hương làm rung động lòng người bao thế hệ.
Bản dịch của Tản Đà được nhiều người đánh giá là bản dịch thành công nhất, hay nhất của Hoàng Hạc lâu tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu như trước kia Lý Bạch gác bút trước bài thơ của Thôi Hiệu thì ở Việt Nam, bản dịch của Tản Đà vẫn chưa khiến các dịch giả đi sau “tâm phục khẩu phục”. Như vậy nó cũng chưa phải là một bản dịch sát đúng, lột tả được hết tinh thần của nguyên tác.
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3204 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đi tìm độ vênh giữa bản dịch với nguyên tác thơ Đường (Qua SGK THCS từ 1989-Nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tía bay” (cấu trúc động tân: “sinh tử yên” chuyển thành cấu trúc chủ động: “khói tía bay”), khiến người đọc dễ tưởng ra hai cảnh khác nhau. Bản dịch không thể hiện được nghĩa của chữ “sinh” nên khó diễn đạt được làn khói tía huyền ảo kia là do mặt trời chiếu trên đỉnh Hương Lô cao nhất dãy Lư Sơn khiến cho mây mù bao quanh cái lư hương ấy (núi đỉnh tròn, hình dạng giống lư hương) phát ra làn khói màu tím. Có hình dung được điều này mới thấy được độ cao của ngọn núi nơi thác nước đổ xuống.
Câu thứ hai của nguyên tác là “Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”, ngoài cách hiểu như ở bản dịch nghĩa đã nêu, còn có một cách hiểu khác là: đứng từ xa nhìn thác nước treo trên dòng sông phía trước (dòng sông là vị trí mà thác đổ xuống). Chúng tôi cho rằng hiểu theo cách thứ nhất là hợp lí hơn, cách hiểu thứ hai là bình thường, không thể hiện được thủ pháp miêu tả thác nước của Lý Bạch. Ở đây nhà thơ đã lạ hóa cú pháp, tỉnh lược đi từ so sánh “như”, chỉ để lại hai đối tượng so sánh là thác nước và dòng sông. Lấy chiều dài của dòng sông treo trên cao để tả chiều cao của thác nước, đó mới là miêu tả. Bản thân Lý Bạch cũng đã có lần nói đến dòng sông từ trên trời đổ xuống: “Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai” (bài Tương tiến tửu). Cách hiểu thứ hai như bản dịch nghĩa trong SGK đã nêu là: Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước. Câu thơ dịch của Tương Như là theo cách hiểu thứ hai, mặc dù diễn đạt cũng chưa rõ (“trước sông” tức là thác đổ xuống phía trước con sông hay con sông phía trước?) Dù nói là hiểu theo cách thứ hai thì bản dịch của Tương Như vẫn không thành công, bởi đã đánh mất một chữ quan trọng nhất của câu thơ nguyên tác là chữ “quải” (treo). Chính từ này là tâm điểm thể hiện vẻ đẹp sống động và kì vĩ của thác nước Lư Sơn - treo lơ lửng giữa khoảng không vời vợi bao la. Chữ “quải” cộng với “tử yên”- khói tía phát sinh từ mây mù trên đỉnh núi cao khiến cho dòng thác mang vẻ đẹp của tiên cảnh: hùng vĩ một cách huyền bí, lãng mạn. Không có chữ “quải”(treo) ấy thì thác Lư Sơn cũng chỉ là một thác nước bình thường với vẻ đẹp trần tục, khiến bài thơ mất đi cảm quan vũ trụ cao rộng.
Câu thơ cuối dịch từ “cửu thiên” bằng một chữ “mây”, một lần nữa lại không đạt ý nguyên tác. Phải là sông Ngân rơi xuống từ chín tầng trời cao thì mới có thể so sánh với thác nước Lư Sơn.
Chính vì bản dịch thơ không lột tả hết được vẻ đẹp của thác Lư Sơn trong nguyên tác, nên cũng không thể hiện được con người Lý Bạch, phong cách Lý Bạch ẩn trong bài thơ. Với tư duy nghệ thuật “thiên nhân hợp nhất” – con người hợp nhất với thiên nhiên, Lý Bạch đã hòa cái chủ thể của mình vào cái khách thể là thác nước Lư Sơn, khiến cho ở một khoảnh khắc nào đó ta không còn phân biệt được đâu là Lư Sơn, đâu là Lý Bạch nữa. Thác nước đã lên tiếng nói hộ tâm trạng con người. Ở đây, bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ mang vẻ đẹp của cõi tiên đã đối lập với không gian thực tại: quan trường gò bó. Qua đó trước hết là sự thể hiện bản ngã, khẳng định tính cách khoáng đạt tự do, lí tưởng cao đẹp của nhà thơ. Ở tầng sâu hơn, nó còn là sự tiếp thu quan niệm của Đạo gia: vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên tượng trưng cho một giá trị cao cả vượt lên khỏi đời sống nhân sinh, vượt lên những giá trị trước mắt của danh lợi chốn quan trường mà Lý Bạch đã từ bỏ. Những điều này bản dịch thơ của Tương Như chưa thể hiện được, và cũng không chuyển đạt được cái phong cách thơ bay bổng lãng mạn “thiên mã hành không” – như ngựa trời bay giữa không trung - của “thi tiên” Lý Bạch.
* Tĩnh dạ tứ - Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Trước giường ánh trăng sáng
Ngỡ như là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Tĩnh dạ tứ là bài thơ tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Lý Bạch: “Thanh thủy xuất phù dung/ Thiên nhiên khử điêu sức” (nước trong hoa sen mọc, thiên nhiên không cần tô điểm, bài trí). Ngôn từ mộc mạc, giản dị mà ý tứ sâu sắc. Cái nỗi niềm “tư hương” thì ai cũng đọc thấy, nhưng nguyên cớ sâu xa của nó ẩn giấu trong bài thơ thì không phải ai cũng hiểu, nhất là khi bản dịch chuyển đạt không thành công ý nghĩa của nguyên tác.
Hai câu sau của bài thơ nội dung tương đối dễ hiểu, và có thể nói hai câu thơ dịch diễn đạt ý cũng khá trọn vẹn. Chúng tôi đồng ý rằng nên để nguyên từ “cố hương” bởi nó đã rất quen thuộc, hoàn toàn nằm trong tầm tiếp nhận của độc giả. Người đọc hiện đại vẫn có thể hiểu được ý nghĩa và tình cảm thể hiện trong đó mà nếu dịch ra sẽ mất đi ít nhiều.
Còn hai câu đầu, dịch như Tương Như là đã làm ý nguyên tác bị thay đổi đi rất nhiều. Sự thay đổi này xuất phát từ độ vênh về mặt hình thức ở hai câu thơ dịch (“Đầu giường ánh trăng rọi/ Ngỡ mặt đất phủ sương”). Ở đây xuất hiện tới hai động từ (rọi, phủ) trong khi nguyên tác chỉ hoàn toàn dùng cấu trúc định trung: minh nguyệt quang (ánh trăng sáng), địa thượng sương (sương trên mặt đất). Như vậy, trong nguyên tác chỉ có duy nhất một chủ thể hành động là nhân vật trữ tình (Nghi…), còn ở câu thơ dịch, ánh trăng và sương lại trở thành hai chủ thể hành động nữa bên cạnh nhân vật trữ tình, thực ra đó chỉ là hai yếu tố nằm trong hành động của chủ thể trữ tình duy nhất mà thôi. Câu thơ dịch đã làm mờ nhạt đi hình ảnh nhân vật trữ tình, cho nên không chuyển đạt đầy đủ ý thơ của nguyên tác. Phải ý thức được chủ thể và đối tượng của hành động ở hai câu trước thì mới hiểu rõ được nỗi nhớ cố hương ở hai câu sau. Ở đây, nhân vật trữ tình nhìn ánh trăng sáng tỏa xuống đầu giường mà ngỡ là sương bởi vì đó là người lữ khách tha hương vốn đã quen với sương gió đường đời, và câu thơ cũng chỉ nhấn mạnh điều đó thôi. Chính từ đây ta thấy giữa chủ thể - nhân vật trữ tình và khách thể - “minh nguyệt” vừa có sự thống nhất, vừa có sự đối lập: trăng tròn – người khuyết (xa quê nhà). Người khuyết nên ngắm trăng tròn mới thấy lòng trống trải, day dứt nỗi nhớ cố hương. Mối liên hệ sâu xa này ở bản dịch thơ rất mờ nhạt. Cho nên bản dịch chỉ chuyển đạt được nỗi nhớ quê mà không chuyển đạt được chiều sâu của nó, chỉ có hình thức thủ pháp bạch miêu mà không có được cái hiệu quả ý tại ngôn ngoại.
* Thái liên khúc – Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Cô gái hái sen bên khe Nhược Gia
Cười nói với ai sau đám hoa sen
Mặt trời chiếu vào trang phục mới làm sáng cả đáy nước
Gió thổi ống tay áo đượm hương bay trong không trung
Trên bờ, những chàng trai con nhà nào dạo chơi
Tốp năm tốp ba nổi bật dưới rặng thùy dương
Con tuấn mã màu tía hí vang, bước vào miền hoa rụng
Thấy cảnh kia, chần chừ không đi (vì) tiếc đứt ruột
Bản dịch thơ lục bát của Tản Đà âm điệu khá hay, ngôn từ bay bổng, giàu hình ảnh và cảm xúc. Ý dịch tương đối sát và đủ (lưu ý là bốn câu đầu đã phải dịch thành tám câu lục bát), tuy nhiên vẫn còn một vài chỗ diễn đạt chưa chính xác. Chẳng hạn như câu 3 dịch thành: “Áo quần mới mặc sáng tinh/ Nắng soi đáy nước rung rinh bóng hồng”. Câu thơ dịch gần như đã tách “áo quần” khỏi đối tượng của “nắng soi”, làm mất đi tính khúc xạ ánh sáng trong câu thơ nguyên tác: ánh mặt tròi chiếu vào “tân trang”, rồi mới phản chiếu xuống làm sáng cả đáy nước. “Hương duệ” dịch là “thơm tho vạt áo” cũng không đúng, bởi “duệ” ở đây là ống tay áo chứ không phải vạt áo. Chú ý rằng người Trung Quốc xưa thường mặc áo có ống tay rộng, hơn nữa khi ngồi hái sen trên thuyền thì chỉ có ống tay áo đưa lên, gió thổi bay nổi bật giữa đám hoa sen, lá sen. Không nên hiểu theo cách tư duy hiện đại là chỉ có vạt áo mới có thể bay trong gió. Câu thứ sáu của nguyên tác có cụm từ “tam tam ngũ ngũ”, có người cho rằng đây là rải rác mấy cây thùy dương, nhưng đa số hiểu là tốp năm tốp ba (những chàng trai trẻ đang dạo chơi). Xét trong cấu trúc câu thì cách hiểu thứ hai có vẻ hợp lí hơn. Dù sao đó vẫn là tính đa nghĩa của ngôn từ trong nguyên tác mà bản dịch dù có tài hoa cũng chỉ thể hiện được một cách hiểu. Những câu thơ cuối cũng là trường hợp tương tự. Không xét đến việc dịch “tử lưu” thành “ngựa hồng” (đúng ra phải là ngựa tía), câu thơ dịch của Tản Đà rất tài hoa: “Ngựa kêu lần bước hoa rơi/ Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương”. Theo ý nguyên tác là: thấy cảnh ấy, trù trừ không muốn đi. Có thể hiểu chủ thể của “trì trù” là chàng trai, mà cũng có thể là con ngựa. Nếu hiểu chủ thể là con ngựa thì ở đây, tác giả đã sử dụng thủ pháp “tá khách hình chủ” rất thành công, nói ngựa không đi là để nói con người tiếc cảnh đẹp không còn thiết giục ngựa đi tiếp. Đối với bản dịch thơ, SGK chú thích: “bản dịch thơ… ở đây lại cho chủ ngữ của “trù trừ” là ngựa”, nhưng chúng tôi thấy không phải như vậy. Cái nhìn “đoái trông ai đó” để rồi dẫn đến “ngậm ngùi tiếc thương” không thể là cái nhìn của con ngựa mà phải là của con người. Hơn nữa, câu thơ dịch cũng không thể hiện được cái nghĩa “trù trừ” của động từ “trì trù”, “ngậm ngùi” chưa hẳn đã là “trù trừ” không đi. Theo chúng tôi, câu thơ dịch đã thể hiện chủ ngữ là chàng trai, và như vậy vẫn không chuyển đạt được tính đa nghĩa của nguyên tác. Nhìn chung, dù bản dịch thơ rất hay và thoát, có phong cách bay bổng tinh tế, nhưng với hình thức lục bát thì nội dung vẫn không chuyển đạt được hoàn toàn mà đã bị “Việt hóa” khá nhiều. Cái thần bay bổng ở đây đậm nét Tản Đà hơn là cái bay bổng từ phong cách “thanh thủy xuất phù dung” của Lý Bạch.
* Thu phố ca – Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Lửa lò chiếu sáng trời đất
Những đốm đỏ bay loạn trong làn khói tím
Người thợ (luyện kim) má ửng đỏ trong đêm trăng sáng
Hát khúc ca vang động cả dòng sông lạnh
Bản dịch thơ của N.K.P có hai điểm đáng chú ý là câu 2 và câu 3. Câu 2 dịch: “Khói tím rộn tía hồng lấp lánh”, nghĩa là trong làn khói tím, những tia sáng màu tía, hồng lấp lánh rộn ràng, như vậy chưa hẳn đúng với ý nguyên tác. Trong câu thơ nguyên tác, màu đỏ và màu tím đều chỉ được nhắc đến một lần (chứ không phải vừa tím lại vừa tía như câu thơ dịch), trong đó màu đỏ của những tàn lửa là điểm nhấn của câu thơ. Nó bay loạn lên, nổi bật trong làn khói tím, tạo nên một khung cảnh thật vui mắt và ấm áp. Trong câu thơ dịch thì màu đỏ đã bị trộn lẫn với màu tía, làm nhòa đi hình ảnh những đốm lửa đỏ.
Câu 3 của bản dịch thơ cũng chỉ thể hiện được một cách hiểu của câu thơ nguyên tác đa nghĩa và tương đối khó hiểu. Bản thân từ “noãn lang” cũng phải đặt vào trong bối cảnh sáng tác của bài thơ mới hiểu và dịch được. Ở đây, “noãn” không còn nguyên nghĩa là đỏ mặt vì xấu hổ, “lang” cũng không còn đơn thuần là “chàng” hay “chàng trẻ tuổi”. Muốn giải thích được phải lưu ý đến địa danh Thu Phố: ở đời Đường, nơi đây nổi tiếng là một trung tâm sản xuất đồng và bạc (bằng phương pháp thủ công). Vì thế, trong bài này, “lang” là từ dùng chỉ người thợ luyện kim, “noãn” thể hiện sắc mặt đỏ của người thợ do ánh lửa lò hắt lên. Đa số người vẫn hiểu câu thơ là: Má người thợ ửng đỏ lên trong đêm trăng sáng. Nhưng SGK lại dẫn ra một kiến giải mới của nhà nghiên cứu Quách Mạt Nhược. Ông cho rằng ví câu 3 và câu 4 (nguyên tác) đối nhau rất chỉnh nên tương ứng với động từ “động” ở câu 4 thì “minh” ở câu 3 cùng phải là hình dung từ động từ hóa, nghĩa là làm sáng thêm. Như vậy câu 3 được hiểu là: (Lửa lò hắt lên khiến cho) khuôn mặt người thợ ửng đỏ, (nó phản quang, phát xạ) làm đêm trăng thêm sáng. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng diễn tả rất đẹp hình ảnh người thợ thủ công trong cảnh lao động bình thường, giản dị. Kết hợp với tiếng ca làm khua động dòng sông lạnh (ở câu dưới), hình ảnh người thợ đã trở thành tâm điểm khỏe khoắn, đẹp đẽ trong một bức tranh lao động đầy vui tươi, sảng khoái, một bài ca lao động hùng tráng, vang động lòng người. Vẫn do hạn chế của việc dịch, bản dịch thơ chỉ là một cách tiếp nhận đơn nghĩa, chuyển tải chỉ được một phần cái sắc, cái âm và cái thần của bức tranh – bài ca lao động hiện ra từ ngòi bút thơ Lý Bạch phóng khoáng và mạnh mẽ.
* Tuyệt cú (chùm 4 bài) – Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
Hai con chim oanh vàng hót trong rặng liễu biếc
Một hàng cò trắng bay lên trời xanh
Khung cửa sổ ngậm tuyết đọng hàng ngàn năm trên núi Tây Lĩnh
Trước cửa đậu những chiếc thuyền tới từ Đông Ngô xa vạn dặm
Với ngôn từ giản dị, trong sáng, bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp mà còn thể hiện tâm thái vui tươi của tác giả cùng những ước mơ, hi vọng mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Bốn câu thơ, mỗi câu một cảnh riêng biệt nhưng lại được đặt ghép bên nhau, tạo nên một bức tranh có bố cục thống nhất, hài hòa. Khung cảnh thiên nhiên yên bình ấy hiện lên trong cái nhìn của một tâm hồn thanh thản, thư thái. Sự yên bình đó không hẳn là thực, nhưng nó là sự hiện thực hóa bằng văn chương cái mơ ước của một con người nặng lòng với cuộc đời: ước mơ một cuộc sống yên bình cho mình và cho toàn thể nhân dân nói chung khi sống trong cảnh xã hội loạn li.
Bản dịch của Tản Đà:
Hai câu thơ đầu dịch khá sát với nguyên tác, từ cấu trúc cú pháp đến ý nghĩa ngôn từ. Trong đó, ta thấy xuất hiện đầy đủ các tín hiệu tạo thành một bức tranh chỉnh thể như ở nguyên tác: từ chỉ màu sắc (biếc, xanh, vàng, trắng), số từ và lượng từ (hai cái, một hàng), danh từ (chim oanh, rặng liễu, đàn cò, bầu trời), động từ (hót, vút – từ này dịch đúng mà thoát,giàu sức gợi hơn từ “thướng” trong nguyên tác). Tất cả những tín hiệu trên hoàn toàn có thể giúp cho người đọc hình dung được bức tranh mà nguyên tác gợi ra: bức tranh thiên nhiên với màu sắc tươi tắn, đường nét hài hòa, có âm thanh, có sự chuyển động làm nổi bật hơn cái tĩnh tại, thanh bình.
Hai câu sau thì nội dung lại “vênh” khá nhiều so với nguyên tác. Câu 3 dịch như Tản Đà: “Nghìn năm tuyết núi song in sắc” thì chỉ thấy được cái màu tuyết trắng hiện lên qua khung cửa mà thôi, không thấy được cái ý vị nên thơ của cảnh cửa sổ ngậm tuyết. Cả cái sắc, cái hình, cái giá băng của tuyết Tây Lĩnh ngàn năm kia như được ngậm, được thu cả vào trong cái khung cửa sổ nhỏ bé ấy. Nó tạo nên một đường viền cho bức tranh, thể hiện rõ hơn cái nhìn từ vị trí trung tâm của tác giả (từ bên trong nhìn ra cửa sổ, thu vào tầm mắt cả một khung cảnh rộng lớn, bao la). Mặt khác, để mất đi địa danh Tây Lĩnh như bản dịch thì cũng khó có thể hình dung được cái nhìn ấy: Tây Lĩnh, tức Mân Sơn, ở phía tây Thành Đô nơi Đỗ Phủ đang sống, cho nên từ khung cửa sổ ngôi thảo am trông ra Tây Lĩnh, thấy tuyết trắng tích tụ hàng nghìn năm trên đó.
Câu thứ tư, điểm cần lưu ý nhất là từ “rập rình”. Trong nguyên tác chỉ thấy nói “môn bạc”, nghĩa là trước cửa, (những chiếc thuyền tới từ Đông Ngô xa vạn dặm) đang neo đậu, đỗ bến. Đây hoàn toàn là một cảnh tĩnh chứ không có sự “rập rình” nào cả, không có sự đi lại của thuyền bè trên sông. Nếu dịch “rập rình” là đã hoàn toàn phá vỡ quá trình tĩnh hóa của bài thơ: từ lấy động tả tĩnh ở hai câu đầu đến hai câu cuối đã là sự tĩnh lặng tuyệt đối, hoàn toàn không có tiếng động, hoạt động nào. Việc mất đi sự tĩnh tại này ảnh hưởng rất nhiều đến ý nghĩa của hai câu cuối: chỉ còn phần nào cái tĩnh ngàn năm của tuyết mà mất hẳn ý những con thuyền đỗ bến bình yên sau hành trình vạn dặm. Chính cái yên bình đó mới khơi gợi nên ước mơ, hi vọng về một cuộc sống yên bình ở con người vừa trải qua loạn lạc.
Bản dịch của Tương Như:
Việc đảo cấu trúc ngữ pháp khác với nguyên tác ở hai câu đầu: “Liễu xanh hót cặp oanh vàng/ Trời lam trắng điểm một hàng cò bay” khiến ta có cảm tưởng câu thơ chỉ tập trung tô đậm hai đối tượng liễu xanh và trời lam, thiếu đi sự phối hợp hài hòa của nhiều yếu tố như ở nguyên tác. Mặt khác, tuy ý nghĩa của câu thứ hai đúng là đàn cò trắng bay lên thành một hàng, dải trắng ấy tô điểm cho trời xanh, nhưng phải chú ý ở nguyên tác là “bạch lộ”, màu trắng phải là yếu tố đi liền với “cò”, là định ngữ của “cò” (như oanh vàng) chứ không thể tách ra như Tương Như được. Hơn nữa, từ “bay” trong câu đó cũng chỉ một chuyển động đều đều, chỉ cho thấy đàn cò đang bay trên trời, không thấy được hướng của chuyển động (bay lên, vút lên trời xanh). Từ dưới đột ngột bay lên, vút lên – khoảnh khắc ấy phá vỡ sự tĩnh tại để khẳng định một sự im lặng hoàn toàn ở sau đó.
Câu thứ ba dùng từ “lồng” rất hay, dịch khá đạt chữ “hàm” của nguyên tác, nhưng đáng tiếc là đã để mất cái thời gian ngàn năm (thiên thu). Tuyết đọng nghìn năm không tan, đó là sự vĩnh hằng, sự ngưng đọng của thời gian – một sự tĩnh tại tuyệt đối. Như vậy, câu thơ dịch đã để mất đi sự đối sánh, bổ trợ của thời gian ngàn năm với không gian vạn dặm, không thể hiện được sự tĩnh tại một cách trọn vẹn.
Cả hai bản dịch thơ được chọn giới thiệu đều là của những dịch giả nổi tiếng, có phong cách dịch riêng nhiều sáng tạo. Song do nguyên tác giàu tính hàm súc nên cả hai bản dịch đều chuyển đạt nội dung chưa được trọn vẹn. Nếu bổ sung cho nhau, chúng sẽ giúp người đọc cảm nhận đầy đủ, rõ ràng hơn về nguyên tác.
* Giang bạn độc bộ tầm hoa – Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
(Cạnh) nhà cô Hoàng Tứ hoa nở đầy suối
Ngàn đóa, vạn đóa ép trĩu cành xuống
Đàn bướm chốc chốc lại bay đến lượn múa, lưu luyến chẳng muốn rời.
Con chim oanh đáng yêu hót lảnh lót một cách ung dung.
Trước hết, chúng tôi muốn nói qua một chút về vấn đề dị bản của nguyên tác. Trong SGK 1995, câu thứ nhất được phiên âm là: “Hoàng Tứ nương gia hoa mãn khê”. Ở một số tài liệu khác, chữ “khê” được thay bằng chữ “hề” – lối đi. Chữ “khê” nguyên nghĩa là khe, suối nhưng nhiều người cho rằng ở đây cũng có thể hiểu là lối đi trong khuôn viên nhà cô hàng xóm? Là suối hay lối đi thì đây cũng là khung cảnh tươi đẹp gắn với một cái tên có thể thật mà cũng có thể là không thật, nhưng đã trở nên bất hủ cùng với một tuyệt tác Đường thi.
Hai câu thơ cuối của bản dịch, có thể nói người dịch cũng đã rất cố gắng để chuyển tải trọn vẹn từ hình thức đến nội dung. Tuy nhiên, do dịch thiếu từ hí trong “hí điệp” – bướm rong chơi và kiều trong “kiều oanh”- chim oanh xinh đẹp, đáng yêu nên bản dịch thơ đã làm mất đi phần nào sự sinh động của bức tranh thiên nhiên đắm say lòng người.
* Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) – Thôi Hiệu
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi
Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc giữa khoảng không
Hạc vàng một khi đã bay đi không bao giờ trở lại nữa
(Chỉ còn) mây trắng tự ngàn xưa vẫn lững lờ trôi trên tầng không
(Trời trong), cây bên bờ hán Dương soi bóng xuống dòng sông nhìn rõ mồn một
Xa xa, trên bãi Anh Vũ, cỏ thơm mọc tươi xanh mơn mởn
Bóng chiều đã xuống, quê nhà ở nơi đâu?
Trên sông khói sóng mịt mù càng khiến người thêm buồn.
(Câu 6 có bản không chép là “phương thảo” mà là “xuân thảo” – cỏ mùa xuân)
Hoàng Hạc lâu được xếp vào hàng những danh tác của Đường thi, đưa tên tuổi Thôi Hiệu lưu danh thiên cổ. Mượn câu chuyện truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng bay đi làm cảm hứng, bài thơ bộc lộ những cảm xúc “tích cổ thương kim”, đăng lâu tư hương làm rung động lòng người bao thế hệ.
Bản dịch của Tản Đà được nhiều người đánh giá là bản dịch thành công nhất, hay nhất của Hoàng Hạc lâu tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu như trước kia Lý Bạch gác bút trước bài thơ của Thôi Hiệu thì ở Việt Nam, bản dịch của Tản Đà vẫn chưa khiến các dịch giả đi sau “tâm phục khẩu phục”. Như vậy nó cũng chưa phải là một bản dịch sát đúng, lột tả được hết tinh thần của nguyên tác.
Tạm bỏ qua chuyện hình thức lục bát làm nội dung bị “Việt hóa”, ta hãy xem bản dịch của Tản Đà được chọn trong SGK 1989 thể hiện được đến mức độ nào nội dung của nguyên tác.
Trước hết, câu đầu của nguyên tác mang ý khẳng định: người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi, còn trong câu thơ dịch, với hai từ “ai, đâu” đã khiến ý thơ chuyển sang nghi vấn, thể hiện rõ hơn tâm trạng bâng khuâng trước chuyện truyền thuyết xưa. Xét về tính sáng tạo thì câu thơ của Tản Đà giàu sức gợi hơn; nhưng xét về yêu cầu trung thành thì lại là chưa diễn đạt đúng những gì nguyên tác vốn có. Câu 2 Tản Đà dùng từ “trơ” rất hay nhưng vẫn chưa lột tả hết được ý nghĩa của chữ “không” đầy trống trải, quạnh vắng giữa bao la. Câu 3 dịch là “Hạc vàng đi mất từ xưa” cũng chưa thể hiện hết ý “một đi không trở lại” đầy tiếc nuối như ở nguyên tác. Câu thứ tư lại dịch thiếu chữ “không”, làm mất đi cái bao la vô biên của không gian trong thế hợp nhất với cái vĩnh hằng vô tận của thời gian. Mấy ý này còn liên quan đến cả cặp câu 5 và 6. Ở đây xuất hiện sự đối lập giữa cảm nhận về xã hội và tự nhiên. Xã hội thì đã mãi mãi mất đi không còn cảnh thịnh trị (giống như người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi, mang theo một cái gì thiêng liêng, đẹp đẽ). Thiên nhiên thì vẫn còn mây trắng tự ngàn năm, vẫn còn vẻ đẹp vĩnh hằng của cây cỏ. Cho nên con người đứng trên lầu Hoàng Hạc, trông lên khoảng bao la thấy mây trắng của ngàn xưa, thấy cây cỏ đẹp tươi của thiên nhiên trường tồn mà tiếc nuối, suy tư. Ở bản dịch, điều này có phần bị mờ nhạt đi.
Ở hai câu 5 và 6, do hai từ láy “lịch lịch” và “thê thê” quá hàm súc, nhiều ý nghĩa nôi tại nên vài chữ của câu thơ dịch chưa chuyển tải hết được cái quang cảnh vô cùng sáng tươi, đẹp đẽ bên bờ Hán Dương và trên bãi Anh Vũ. Mặt khác, hai chữ “thê thê” trong nguyên tác còn gợi đến một ý ở ngôn ngoại mà bản dịch không thể nào thể hiện được. “Thê thê” (hay “Xuân thảo thê thê” như một số bản khác) gợi đến câu trong bài “Chiêu ẩn sĩ” (Sở từ): “Vương tôn du hề bất quy/ Xuân thảo sinh hề thê thê” (Người đi chưa về, để mặc cỏ xuân mọc tươi tốt rậm dày như thế). Đây chính là ý thể hiện mối liên hệ sâu xa bên trong với ý “tư hương”ở hai câu cuối. Từ cái thế thiên nhiên đối lập với xã hội khiến người suy tư, ‘thê thê” (“xuân thảo thê thê”) gợi ra một phương thức ứng xử nhân sinh với hoàn cảnh ấy: quy hương, về với những giá trị cao đẹp của thiên nhiên vĩnh hằng, xa rời chốn quan trường của một xã hội đã suy vi, mất đi nhiều giá trị. Bản dịch (dù hai câu cuối dịch rất tài hoa) mới chỉ thể hiện được chuyện xúc cảnh sinh tình, đăng lâu tư hương ở bề ngoài mà chưa chuyển đạt được cái ý sâu xa bên trong.
* Phong Kiều dạ bạc - Trương Kế
Dịch nghĩa:
Trăng lặn, quạ kêu, sương giăng đầy trời
Trước cảnh lùm cây phong (đứng im lìm) bên sông, ánh lửa chài (le lói), (ta) buồn rầu không ngủ được
Chùa Hàn Sơn nằm ở ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng vọng đến thuyền khách.
Đúng như SGK nhận xét, “K.D đã rất tài hoa và hết sức sáng tạo trong việc dịch hai câu thơ đầu”. Câu thơ dịch rất bay bổng, thoát ý nhưng chúng tôi vẫn muốn lưu ý một chút về câu thứ nhất. Nếu là “trăng tà, chiếc quạ kêu sương” thì không thể hiện rõ được ba mảng ghép tạo thành bức tranh đêm như ở nguyên tác: trăng lặn (sau đám mây), quạ kêu tiếng ai oán, sương lạnh giăng đầy trời. Ba mảng này hợp lại tạo thành một bức tranh thiên nhiên trong đêm mang đầy tính ám thị: màn đêm tối đen (vì thiếu ánh trăng), quạ kêu bi thương, sương mù bao phủ là những hình ảnh ám chỉ thực tại xã hội đen tối, ảm đạm, cuộc sống (của nhân dân) lầm than, bi đát. Thủ pháp lấy sáng tả tối, lấy động tả tĩnh càng tô đậm thêm bức tranh u tối ấy khiến cho người khách tha hương mang nặng nỗi sầu thế sự. Hai câu thơ đầu của bản dịch có thể hiện được thiên nhiên ấy, nỗi sầu ấy nhưng chưa thực sự trọn vẹn.
Với hai câu sau thì đúng là người dịch đã không thành công. Trước hết là việc biến tiếng chuông vốn là chủ thể thành đối tượng (nghe tiếng chuông chùa), làm mất đi sự lan tỏa, âm vang của tiếng chuông trong đêm vắng. Do đó đã làm mất đi hiệu quả của thủ pháp lấy động tả tĩnh, mượn âm thanh để truyền hình ảnh, mô tả sự tĩnh mịch, thanh vắng của màn đêm bao phủ không gian Hàn Sơn – bến Phong Kiều – thành Cô Tô. Câu thơ dịch nói thuyền “đậu bến Cô Tô” là chưa hoàn toàn chính xác, làm mất đi ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ nguyên tác không nhấn mạnh đến con thuyền (đỗ bến Phong Kiều) mà là nhấn mạnh vào tiếng chuông vọng đến từ chùa Hàn Sơn, nhấn mạnh địa danh Cô Tô thành. Đây là địa danh lịch sử nơi Ngô Vương từng xây đài để vui chơi với Tây Thi, sau này dẫn đến họa mất nước. Hiểu đúng chất liệu lịch sử Cô Tô thành này thì mới hiểu rõ được ý nghĩa tiếng chuông chùa, sự gắn kết của hai câu sau với hai câu trước. Ở đây tác giả lấy cổ để nói kim, kết hợp những cảm nhận lịch sử với suy tư thời thế nên mới có nỗi sầu thế sự - trách nhiệm của kẻ sĩ quan tâm đến vận mệnh đất nước. Đáng tiếc là câu thơ dịch đã làm mờ nhạt mất những điều này.
Tiểu kết:
Qua việc so sánh nội dung giữa các bản dịch thơ và nguyên tác ở trên, chúng tôi thấy rằng tuy ý là yếu tố “khả dịch” nhưng đối với những bài thơ tình cảm sâu xa, ngôn ngữ hàm súc thì việc dịch và diễn đạt ý trong vài dòng thơ là rất khó. Nhiều khi chỉ chuyển đạt được ý bề mặt mà không thể hiện được ý sâu xa, chỉ dịch được một nghĩa trong cái đa nghĩa của nguyên tác. Nhìn chung, với những bài thơ tự sự, nội dung hiện thực là chủ yếu thì bản dịch có độ vênh tương đối ít, còn với những bài thơ trữ tình thì nội dung của bản dịch “vênh” khá nhiều so với nguyên tác. Đây không chỉ là đặc điểm của các bản dịch thơ Đường trong SGK THCS mà là đặc điểm chung của việc dịch thơ Đường ở nước ta những năm qua.
CHƯƠNG 2
DỊCH THƠ ĐƯỜNG TRONG SGK
- NHÌN TỪ GÓC ĐỘ MỸ HỌC TIẾP NHẬN
2.1. Dịch giả:
2.1.1. Dịch giả - người đọc đặc biệt:
Trước đây, mĩ học sáng tác khép kín chỉ thừa nhận mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm. Nhưng nay, mĩ học tiếp nhận đã bổ sung thêm vai trò vô cùng quan trọng của người tiếp nhận tác phẩm (tức người đọc). “Không có văn học nếu không có người đọc… văn học có từ mối quan hệ giữa tác phẩm và người tiếp nhận, từ đội ngũ thay đổi không ngừng về mặt lịch sử của những người tiếp nhận cùng thời và người tiếp nhận mai sau”[7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đi tìm độ vênh giữa bản dịch với nguyên tác thơ Đường (Qua SGK THCS từ 1989-nay).doc