MỤC LỤC
Lời mở đầu
I- Tổng quan về diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
1- Giới thiệu:
1.1- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương là gì ?
1.2- Sứ mệnh.
2- Lịch sử hình thành và phát triển
2.1- Bối cảnh và sự ra đời của APEC.
2.1.1- Sáng kiến của Ô-xtrây-lia về việc thành lập APEC .
2.1.2- Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC .
2.2- Quá trình phát triển
2.3- Điều kiện kết nạp thành viên
II- Cách thức hoạt động của APEC.
1- Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC
1.1- Mục tiêu
1.2- Nguyên tắc hoạt động
1.3- Phạm vi hoạt động
2- Cơ cấu tổ chức
2.1- Cấp chính sách
2.2- Cấp làm việc
2.3- Ban thư kí
2.4- Các quan sát viên tham gia
2.5- Tài chính .
2.6- Sơ lược về các kì hội nghị APEC
III- APEC và thế giới .
1- Vị thế của APEC trên thế giới
2- Vai trò của APEC đối với thế giới
IV- Mối quan hệ giữa Việt Nam và APEC
1- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC
1.1- Tiền đề để Việt Nam gia nhập APEC
1.2- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC
1.3- Nhiệm vụ Việt Nam cần thực hiện khi gia nhập APEC
2- Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi là thành viên của APEC
3- Vai trò của APEC đối với Việt Nam
4- Đóng góp của Việt Nam vào sự phát triển chung của APEC
Kết luận
45 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10430 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương- APEC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
• Hội nghị Bộ trưởng ngành:
Được tổ chức hàng năm tập trung vào nhiều lĩnh vực như: giáo dục, năng lượng, môi trường và sự phát triển bền vững, tài chính, hợp tác khoa học kỹ thuật khu vực, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp truyền thông và công nghệ thông tin, du lịch, thương mại, vận tải và vấn đề bình đẳng giới. Những đề xuất từ những Hội nghị này đều được các lãnh đạo kinh tế APEC xem xét.
• Hội đồng tư vấn kinh tế APEC ( ABAC ):
Hội nghị đề xuất cho các Lãnh đạo kinh tế APEC những vấn đề của APEC và những dự đoán về tình hình kinh tế thế giới qua một bản báo cáo chính thức. Ngoài ra, trong các báo cáo này còn có những đề xuất để cải thiện tình hình thương mại và đầu tư khu vực. Hội đồng tư vấn họp 4 năm một lần và sẽ cử đại diện để tham gia Hội nghị Bộ trưởng.
2.2- Cấp làm việc.
• Hội nghị các quan chức cao cấp (SOM) .
Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm, chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ chức chương trình hoạt động của APEC, chương trình hành động tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động của các nền kinh tế thành viên và các chương trình hợp tác kinh tế khoa học – công nghệ của APEC, xem xét và điều phối ngân sách và chương trình công tác của các Ủy ban, các nhóm công tác và Nhóm đặc trách.Trước Hội nghị quan chức cao cấp sẽ có các cuộc họp của các Nhóm công tác liên quan gồm đại diện cho các thành viên APEC để chuẩn bị những nội dung cần thiết báo cáo lên Hội nghị các quan chức cao cấp. Hội nghị các quan chức cao cấp có trách nhiệm thúc đẩy tiến trình APEC phù hợp với các quyết định của Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế, Hội nghị Bộ trưởng và các chương trình hành động thông qua các hội nghị này.
• Ủy ban thương mại và đầu tư.(CTI)
Ủy ban thương mại và đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở tuyên bố về “ Khuôn khổ về hợp tác và đầu tư ” của Hội nghị Bộ trưởng. Ủy ban thương mại và đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác kinh tế về tự do hóa thương mại và tạo môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Ủy ban thương mại và đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề có liên quan đến thương mại và đầu tư trong khu vực đồng thời chỉ đạo các tiểu ban kỹ thuật và nhóm có chuyên gia trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Uỷ ban thương mại đầu tư là một trong số những cơ quan chủ chốt của APEC giúp thực hiện kế hoạch hành động Osaka và kế hoạch hành động Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực như thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, giảm bớt các qy định, hòa giải tranh chấp, thực hiện có kết quả vòng đàm phán Uruquay, Đầu tư, Thủ tục Hải quan, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Đi lại của doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, Chi tiêu Chính phủ, Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực hiện tốt vai trò của mình trong 15 lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, hàng năm Uỷ ban thương mại và đầu tư nhóm họp 3 lần và đây thực sự đã trở thành Diễn đàn kinh tế hiệu quả đối với các nước thành viên để trao đổi các vấn đề về thương mại và chính sách.•Ủy ban Kinh tế (EC)
Các Ủy ban Kinh tế (EC) có một nhiệm vụ để thúc đẩy cải cách cơ cấu trong APEC bằng cách thực hiện phân tích chính sách và định hướng công việc hành động. EC Các tiến bộ này nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với các diễn đàn APEC liên quan khác.
• Ủy ban SOM về hợp tác kinh tế - kỹ thuật (ESC)
Được thành lập năm 1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị quan chức cao cấp (SOM) trong các hoạt động hỗ trợ hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chi là tiểu ban về ECOTECH, năm 2002 đổi thành Ủy ban SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật ESC. Bằng việc hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác ECOTECH, ủy ban SOM về hợp tác kinh tế kỹ thuật cùng với các Diễn đàn khác trong APEC giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững APEC.
• Ủy ban ngân sách và quản lý (BMC)
Được thành lập năm 1993 , có chức năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành. Ủy ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem xét các ngân sách hoạt động do các nhóm công tác , các Ủy ban đưa ra, và ngân sách hành chính do Ban thư ký đưa ra. Ủy ban có quyền đánh giá về hoạt động của các nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả, xem xét các khoản chi tiêu của nhóm công tác và dự án của các nhóm đặc trách. Uỷ ban quản lý họp mỗi năm hai lần vào cuối tháng ba và tháng bảy. Ủy ban Ngân Sách và quản lý có chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến ngân sách chung của APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế thành viên.
• Các nhóm công tác :
Các nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các Nhà lãnh đạo, Bộ trưởng và quan chức cao nhất giao cho. Cho tới nay, APEC đã lập ra 11 nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác kĩ thuật nông nghiệp, Năng lượng, Nghề cá, Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và viễn thông, Du lịch, Xúc tiến thương mại,Vận tải. Phần lớn hoạt động của Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này, các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Ủy ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
• Các Nhóm đặc trách của SOM
Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra 3 Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra các khuyến nghị về những lĩnh vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có 3 Nhóm đặc trách của SOM là Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới (Gender Focal-points Network), Nhóm chỉ đạo về Thương mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về chống khủng bố (Counter-Terrosim Task Force)
*Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003 nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập thế giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ giới vào các hoạt động Thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân của Nhóm đặc trách này là Nhóm tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập thế giới (the SOM Ad Hoc Advisory Group on Gender Integration-AGGI) tồn tại từ năm 1999 đến năm 2002.
_ Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999 với vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại của APEC thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán. Những nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong thời gian qua đã góp phần nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào lĩnh vực thương mại điện tử và qua đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử như Internet để tiến hành trao đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi giữa các nền kinh tế._Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan chức cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà lãnh đạo về Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10 năm 2002 tại Mexico. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng giúp đỡ nền kinh tế các nước thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện pháp cần thiết để chống khủng bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kĩ thuật và năng lực và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan đến chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của nhóm đặc trách về chống khủng bố là: Sáng kiến về bảo đảm an ninh Thương mại trong khu vực APEC (the Secure Trade in the APEC Region-STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố, tăng cường an ninh mạng, sáng kiến an ninh năng lượng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
2.3- Ban thư kí
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Bangkok năm 1992 nhận thấy cần phải có một cơ chế giúp việc hịêu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, đã nhất trí thành lập Ban thư kí APEC, đặt trụ sở tại Singapore và lập một quỹ chung của APEC.
Ban thư kí APEC đứng đầu là một Giám đốc điều hành, do nước giữ ghế Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do nước sẽ giữ chức Chủ tịch vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức của Chính phủ mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban thư kí APEC hiện có khoảng 20 Giám đốc chương trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên chuyên nghiệp (cũng được biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên phục vụ.
Ban thư kí làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp và có quan hệ thông tin trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Ủy ban, các Nhóm công tác và các nhóm đặc trách của APEC. Mới đây, Ban thư kí APEC quyết định nâng cấp trang Mạng (website) của mình nhằm giới thiệu về APEC, giúp cho việc tiếp cận các thông tin về hoạt động của APEC được dễ dàng hơn.
Ban thư kí APEC giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của APEC, có chức năng tư vấn, hỗ trợ kĩ thuật, phối hợp các hoạt động của APEC, cũng như quản lí thông tin và các dịch vụ thông tin tuyên truyền. Từ năm 1993, do vấn đề tài chính và ngân sách trở nên phức tạp, chức năng điều hành tài chính được chuyển giao cho Ủy ban Ngân sách và Quản lý. Ban thư kí APEC đồng thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý các dự án của APEC. Hiện Ban thư kí APEC đang hỗ trợ các nền kinh tế thành viên và các diễn đàn trong khuôn khổ APEC quản lý hơn 230 dự án lấy kinh phí từ quỹ của APEC.
2.4- Các quan sát viên.
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) có ba quan sát viên chính thức: Ban Thư ký ASEAN , Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), và không có quy chế quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các nhóm quan sát cung cấp các quan hệ đối tác, chuyên môn và hiểu biết mà hỗ trợ APEC để đạt được mục tiêu của mình và thực hiện các sáng kiến của mình. Các nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC.
2.5- Tài chính.
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư năm 1992 quyết định thành lập Ban Thư Kí APEC và quỹ tài chính chung do các thành viên đóng góp. Mức đóng góp căn cứ trên GNP của từng nền kinh tế thành viên và bình quân GNP/người trong 3 năm gần nhất. Hiện trong Apec có 4 mức phí đóng góp: đứng đầu là Mỹ và Nhật Bản, đóng góp tới 18% tổng ngân quỹ, tiếp đến là Singapore, Hongkong, New Zealand đóng 2.75%, xếp hàng thứ 3 là Trung Quốc, Australia, Canada, Mexico, Hàn Quốc, Đài Loan, Liên bang Nga, đóng góp mức thấp nhất là Chile, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Brunei, Indonesia, Pa-pua Niu-ghinê, Peru, Việt Nam, mỗi thành viên đóng góp 1.5% ngân quỹ. Cho đến nay, quỹ chung của APEC gồm 3 khoản chính: *Chi phí hành chính cho hoạt động của APEC, cụ thể là chi phí cho hoạt động của Ban thư kí.
*Chi phí cho các dự án của APEC
*Quỹ đặc biệt để thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hoá Thương mại và đầu tư trong APEC, quỹ này do Nhật Bản đóng góp (năm 1995), Nhật Bản cam kết sẽ đóng góp 10 tỷ yên để hỗ trợ cho việc thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hoá Thương mại và Đầu tư.
2.6- Sơ lược về các kì hội nghị.
Hàng năm một trong 21 thành viên APEC sẽ đăng cai các hội nghị lớn của APEC và làm Chủ tịch APEC theo qui tắc 1 thành viên ASEAN rồi đến 2 thành viên ngoài ASEAN. Thành viên đăng cai APEC sẽ chịu trách nhiệm làm Chủ tịch Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế (Economic Leaders’ Meeting-AELM), Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao – Kinh tế (AMM), và một số Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành, các Hội nghị Quan chức Cấp cao (SOM), Hội nghị của các Uỷ ban và một số nhóm công tác, đồng thời đảm nhận vị trí Giám đốc điều hành Ban Thư ký APEC.
III- APEC và thế giới:
1-Vị thế của APEC trên thế giới:
Từ khi được thành lập vào năm 1989, khu vực APEC luôn là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Trong 10 năm đầu tiên, nền kinh tế APEC đã chiếm gần 70% tỷ lệ tăng trưởng toàn thế giới và luôn đi trước phần còn lại của thế giới bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á năm 1997.So với toàn thế giới, APEC có vị trí rất quan trọng, với 21 nền kinh tế thành viên có khoảng 2,5 tỷ dân; diện tích chiếm 52%, dân số chiếm 41,2%, mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm 57,7%, GDP bình quân đầu người bằng 140,1%, xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người bằng 121,7%. Đóng góp khoảng 19.000 tỷ USD GDP mỗi năm, chiếm hơn 50% thương mại thế giới, APEC bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Bắc Mỹ (Mỹ, Canada và Mêhicô) và khu vực Đông Á.
Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, Trung Quốc với tốc độ tăng cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài kỷ lục chẳng mấy năm sẽ vượt Pháp, Anh, Đức và theo nhiều dự đoán đến năm 2020 sẽ vượt qua Nhật Bản và đến năm 2040 sẽ vượt cả Mỹ để đứng đầu thế giới.
Vị trí của 6 nước đứng đầu thế giới
Trong 6 nước đứng đầu thế giới thì Apec đã có tới 3 nước giữ vị trí đầu tiên. Đặc biệt sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc, hiện đang giữ vị trí thứ 2 sau Mỹ.
APEC là một tổ chức hợp tác kinh tế liên châu lục có thành phần đa dạng, bao gồm các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canađa, New Zealand, Australia; các nền kinh tế công nghiệp hoá mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, các nền kinh tế đang phát triển với các tiềm năng lớn như các nưóc ASEAN, Trung Quốc... Về thực lực kinh tế, APEC có 2 trong số 3 trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới là Mỹ và Nhật Bản; có các nền kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á phát triển năng động nhất thế giới.
"Với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) chiếm khoảng 1/2 tổng sản phẩm toàn thế giới, tổng kim ngạch mậu dịch hàng hoá chiếm tới 46% tổng kim ngạch mậu dịch toàn cầu... APEC là một đối tác quan trọng trong hệ thống kinh tế - thương mại thế giới"
Một số nước thành viên của APEC giữ vai trò trụ cột trong các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF. Bốn trong số tám thành viên của tổ chức các nước công nghiệp phát triển G8 thuộc APEC. Thực tế cho thấy, APEC có vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và an ninh thế giới.
2- Vai trò của APEC đối với nền kinh tế thế giới:
APEC là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. APEC đóng vai trò là diễn đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện. Các cam kết không mang tính ràng buộc, do đó không gây sức ép mà mang tích khuyến khích, thúc đẩy. Các diễn đàn trong APEC cũng là cơ hội để các nước đang phát triển kêu gọi sự trợ giúp và linh hoạt trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Đồng thời, quá trình hợp tác APEC cũng góp phần đáng kể nâng cao năng lực của nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế năng động của khu vực.
Hợp tác APEC, với ba trụ cột là tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại - đầu tư và hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTEC), đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Ngày nay APEC đã trở thành một diễn đàn liên khu vực quan trọng, kết nối nhiều nền kinh tế năng động và đóng góp cho sự phồn vinh và phát triển bền vững trong khu vực cũng như trên thế giới. Mặc dù phải ứng phó với những tác động sâu sắc của toàn cầu hóa, phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008, APEC vẫn đứng vững và thể hiện rõ sức sống của một khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới. Hơn 60% GDP, 50% thương mại và 70% tăng trưởng toàn cầu là có sự đóng góp của hai mươi mốt thành viên APEC. Không những thế, APEC tiếp tục được đánh giá là nơi có nhiều nền kinh tế năng động nhất trên thế giới, có khả năng phục hồi mạnh mẽ nhất sau khủng hoảng, và được kỳ vọng sẽ là động lực của kinh tế toàn cầu trong thời gian tới.
Trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố và sự gia tăng của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đặt ra những thách thức mới cho khu vực, sự quan tâm của APEC không chỉ giới hạn trong hợp tác kinh tế mà đã mở rộng sang các vấn đề an ninh và chính trị của khu vực. Lãnh đạo APEC đã ra hai tuyên bố riêng về chống khủng bố năm 2001, 2002 và một tuyên bố về biến đổi khí hậu năm 2007. Cho tới nay APEC đã thông qua hàng loạt sáng kiến trong các lĩnh vực an ninh hàng không, đường sắt, hàng hải, an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh, thiên tai…Là một cơ chế đối thoại mở dựa trên các nguyên tắc đồng thuận, tự nguyện, không ràng buộc và linh hoạt, APEC đã chứng tỏ mình là một cơ chế hợp tác quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương, bổ sung một cách hiệu quả cho các cơ chế hợp tác khu vực khác như ASEAN, ASEAN+3 (10 nước ASEAN và ba nước đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), và Cấp cao Đông Á (EAS). Các nước ASEAN đóng vai trò quan trọng trong hợp tác APEC, đồng thời tìm thấy ở APEC một diễn đàn hiệu quả để khẳng định vị thế của mình và tích cực đóng góp cho sự phát triển chung của Châu Á – Thái Bình Dương.
Không chỉ dừng lại ở những thành tựu khu vực, APEC hơn hai mươi năm qua còn có nhiều đóng góp mang ý nghĩa toàn cầu. Ngay từ Hội nghị Bộ trưởng đầu tiên tại Canbera, APEC đã kêu gọi hoàn thành Vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa phương; và đã góp phần tích cực vào việc kết thúc thành công vòng đàm phán này, đặt nền móng cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc APEC đạt được thỏa thuận về xóa bỏ thuế quan đối với các sản phẩm công nghệ thông tin chính là cơ sở để WTO đạt được Thỏa thuận về Công nghệ Thông tin (ITA).
Trong nhiều năm qua, APEC đã góp tiếng nói quan trọng vào quá trình củng cố hệ thống thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO và kiên trì thúc đẩy Vòng đàm phán Doha. Các nhà lãnh đạo APEC đã hơn một lần tuyên bố khẳng định sự nhất trí của APEC trong việc ủng hộ Vòng đàm phán Doha, trong đó có tuyên bố riêng về Nghị trình Phát triển Doha được thông qua ở Hội nghị Cấp cao APEC 2006 tại Hà Nội.
Ngoài ra APEC còn đóng vai trò duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực, phát huy ảnh hưởng tích cực đối với khu vực và thế giới, khuyến khích các luồng hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và vốn, tăng cường hệ thống thương mại đa phương, hạn chế dần những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
III- Quan hệ giữa Việt Nam và APEC.
1- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC.
1.1- Những tiền đề để Việt Nam gia nhập APEC.
Qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1995), nước ta đã đạt được những kết quả to lớn về nhiều mặt, đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế. Những năm 1991 - 1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm hơn 7%. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân đã được cải thiện một cách đáng kể. Lòng lin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước được củng cố. Giữ vững được ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
_Về đối ngoại: "Tính đến tháng 11-1996, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 163 nước lớn nhỏ. Lần đầu tiên nước ta có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc... Hàng trăm điều ước được ký kết tạo hành lang pháp lý cho việc mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau". Từ chỗ thị trường bị thu hẹp, ta đã chủ động tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, thì năm 1998 đạt 9.361 triệu USD. Về đầu tư nước ngoài, từ chỗ hầu như số không đến năm 1998 số dự án cấp giấy phép lên tới 2.588, với tổng số vốn đăng ký 35.302 triệu USD. Đại hội VIII đánh giá: "Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế nước ta trên thế giới…
Thành tựu sự nghiệp đổi mới đã tạo nên thế và lực mới cho đất nước trong quan hệ khu vực và quốc tế. Hoạt động đối ngoại của Việt Nam với các nước châu Á - Thái Bình Dương đã đạt được nhiều thành công lớn: tháng 11-1991, quan hệ Việt - Trung chính thức được bình thường hoá; ngày 17- 1995 bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ; ngày 28-7-1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Đến giữa thập kỷ 90, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước châu Á - Thái Bình Dương, khép lại quá khứ nặng nề, thù địch, thế bị biệt lập với khu vực.
1.2- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC.
Đến năm 1996, quan hệ song phương giữa Việt Nam với các thành viên APEC đã được thiết lập và mở rộng. Đây là một trong những cơ sở quan trọng trực tiếp dẫn đến việc ngày 14-6-1996 Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định việc nước ta chính thức xin gia nhập APEC.
Ngày 15/06/1996, Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập APEC do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký. Tiếp theo đó Việt Nam đã xây dựng và gửi bản ghi nhớ về chế độ kinh tế VIệt Nam (Aide – Memorie) cho ban thư ký APEC để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước APEC trong quá trình nghiên cứu và xét duyệt việc gia nhập của Việt Nam, động thời cũng tiến hành chuẩn bị những yếu tố cần thiết để có thể tham gia đầy đủ vào các chương trình hợp tác của APEC sau khi là thành viên.
Ngày 30/11/1996 Hội nghị các nguyên thủ quốc gia APEC họp tại Manila quyết định chấm dứt giai đoạn đóng cửa và đã đưa ra bàn bạc việc kết nạp thành viên mới.
Ngày 25/04/1997 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập vào 3 nhóm công tác của APEC là nhóm công tác về xúc tiến thương mại, nhóm công tác về KH-CN trong công nghiệp và nhóm chuyên gia về hợp tác kĩ thuật nông nghiệp. Tại hội nghị thượng đỉnh và hội nghị cấp Bộ trưởng APEC vào ngày 24-25/11/1997 tại Van courver (Canada), APEC đã tuyên bố chấp nhận kết nạp Việt Nam, Peru và Nga vào tháng 11/1998.
Với sự nỗ lực phấn đấu của Việt Nam và được sự đồng tình ủng hộ của các nước trong khu vực, tại Hội nghị Ngoại trưởng APEC ngày 14, 15-11-1998 (Kualalumpur, Malaysia) Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của APEC.
1.3- Nhiệm vụ của Việt Nam cần thực hiện khi gia nhập APEC.
• Tham gia chương trình tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư của APEC với mốc hoàn thành là năm 2020.
• Tham gia các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật.
• Xây dựng kế hoạch hành động riêng về tự do hoá, thuận lợi hoá thưong mại và đầu tư cho 15 lĩnh vực để đạt mục tiêu tự do hoá vào năm 2020.
• Đưa ra một số cam kết tự nguyện khác.Những công việc mà Việt Nam cần thực hiện để tham gia có hiệu quả vào tổ chức APEC.
• Hệ thống pháp luật về thuế quan: Thực hiện cải cách hệ thống thuế đặc biệt là thuế xuất , nhập khẩu; hoàn thiện danh mục biểu thuế phù hợp với danh mục hài hoà HS sáu chữ số; thực hiện Hiệp Định xác định trị giá Hải Quan theo WTO; quy định về việc tiếp tục cắt giảm thuế quan nhằm đạt được mục tiêu tự do hoá thương mại của APEC vào 2020.
• Thủ tục hải quan: Việt Nam là thành viên của tổ chức Hải Quan thế giới ( World Customs Organisation- WCO), trong những năm tới cần: Nhanh chóng ban hành luật hải quan, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan của WTO khi Việt Nam trở thành viên của WTO.
• Chính sách và pháp luật về cạnh tranh, chống độc quyền: Tranh thủ sự giúp đỡ về khoa học kỹ thuật của các thành viên APEC trong việc thực thi chính sách và pháp luật về cạnh tranh; ban hành các văn bản dưới luật về để thực hiện Luật Cạnh Tranh có hiệu lực và hiệu quả hơn. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại: Ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư như Pháp lệnh trọng tài thương mại…; tích cực tham gia các cơ chế giải quyết tranh chấp của các liên kết kinh tế thương mại quốc tế và khu vực; từng bước tham gia vào các công ước quốc tế trong các lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ.
2- Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi gia nhập APEC.
2.1- Thuận lợi.
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về Hội nhập Kinh tế quốc tế, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ cụ thể trong qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương- APEC.doc