Đề tài Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Trung Quốc và Thái Lan - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU . . 1

CHưƠNG 1:

TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC THưƠNG MẠI

THẾ GIỚI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP

NÔNG NGHIỆP .3

I. TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH CỦA WTO . 3

1. Vấn đề nông nghiệp và trợ cấp nông nghiệp trước khi Hiệp định Nông

nghiệp của WTO ra đời . 3

2. Hiệp định Nông nghiệp của WTO và những quy định về trợ cấp nông nghiệp . 7

2.1. Vòng đàm phán Urugoay và sự ra đời Hiệp định Nông nghiệp . 7

2.2. Trợ cấp nông nghiệp theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO . . 8

2.2.1. Các chính sách hỗ trợ nông nghiệp trong nước . 9

2.2.2. Các chính sách trợ cấp xuất khẩu nông sản . 12

3. Những phát sinh trong quá trình thực thi Hiệp định Nông nghiệp của WTO về

vấn đề trợ cấp nông nghiệp. 13

3.1. Những phát sinh trong việc cắt giảm hỗ trợ trong nước. 13

3.2. Những phát sinh trong việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. 15

II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG

NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO. 16

1. Tính thiết yếu chung của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp đối với

các nước trên thế giới. 16

1.1. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp, trước hết, nhằm thực hiện cam

kết khi gia nhập WTO. 16

1.2. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp nhằm tận dụng những tác động

tích cực đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa

nông nghiệp. 17

1.3. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp nhằm phát huy vai trò của nhà

nước trong việc giảm thiểu những thất bại của thị trường nông nghiệp. 18

2. Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp đối với Việt Nam. 20

2.1. Nhìn trên góc độ chủ quan. 20

2.2. Nhìn trên góc độ khách quan. 22

CHưƠNG 2:

THỰC TẾ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG

QUỐC VÀ THÁI LAN - BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM . .

I. ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC

SAU KHI GIA NHẬP WTO . 23

1. Nông nghiệp Trung Quốc và những cam kết về trợ cấp nông nghiệp của Trung

Quốc khi gia nhập WTO 23

1.1. Tổng quan về nông nghiệp Trung Quốc . 23

1.2. Một số cam kết của Trung Quốc về trợ cấp nông nghiệp khi gia nhập WTO. 24

2. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Trung Quố . 26

3. Đánh giá tác động của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp Trung

Quốc hậu WTO . 34

3.1. Tác động tích cực của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp . 34

3.2. Những vấn đề tồn tại của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp . 35

II. ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA THÁI LAN

SAU KHI GIA NHẬP WTO . 36

1. Nông nghiệp Trung Quốc và những cam kết về trợ cấp nông nghiệp của Thái

Lan sau khi gia nhập WTO . 36

1.1. Tổng quan về nông nghiệp Thái Lan . 36

1.2. Một số cam kết của Thái Lan về trợ cấp nông nghiệp khi gia nhập WTO. . 37

2. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp

3. Đánh giá điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp hậu WTO của Thái Lan . 44

3.1. Tác động tích cực của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp

3.2. Những tồn tại trong việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp .

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TỪ VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH

SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁI LAN SAU

KHI GIA NHẬP WTO . 45

1. Bài học kinh nghiệm chung của Trung Quốc và Thái Lan . . 45

2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc . 46

3. Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan . . 47

CHưƠNG 3:

PHưƠNG HưỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG BÀI HỌC KINH

NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC VÀ THÁI LAN TRONG VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH

SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP SAU KHI GIA NHẬP WTO .49

I. DỰ BÁO XU HưỚNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG

NGHIỆP CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO . . 49

1. Chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam trước khi gia nhập WTO . 49

2. Đánh giá tác động của các chính sách trợ cấp nông nghiệp tới nền kinh tế Việt Nam . 59

3. Dự báo xu hướng điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam trong

thời gian tới . 60

II. PHưƠNG HưỚNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP

CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO . . 62

1. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp theo hướng đảm bảo an ninh lương

thực cho Việt Nam . 63

2. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp theo hướng nâng cao năng lực cạnh

tranh, hướng mạnh vào xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam . 64

3. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam . 66

III. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG NHỮNG KINH

NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁI LAN TRONG VIỆC ĐIỀU CHỈNH

CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP . 67

1. Nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển dịch vụ chung . . 67

1.1. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn . 67

1.2. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp, công tác đào tạo

và khuyến nông . 69

1.3. Hỗ trợ phát triển hoạt động tín dụng nông thôn 70

2. Nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển sản phẩm nông nghiệp . 72

2.1. Đầu tư phát triển hệ thống thông tin thị trường . 72

2.2. Hỗ trợ phát triển quy trình sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh

an toàn thực phẩm . 73

2.3. Hỗ trợ sau thu hoạch, hỗ trợ tiếp thị và vận tải . 74

3. Nhóm giải pháp hỗ trợ người nông dân . 75

3.1. Nhà nước tham gia đóng góp kinh phí cho các chương trình bảo hiểm và bảo

đảm thu nhập . 75

3.2. Hỗ trợ nông dân có đất nông nghiệp bị giải tỏa, thu hồi để sử dụng cho mục

đích khác . 76

4. Đề xuất mô hình liên kết trong nông nghiệp ở Việt Nam . 77

KẾT LUẬN . . 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

pdf139 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Trung Quốc và Thái Lan - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bình của chƣơng trình phát triển trong giai đoạn 1999-2001. Chính phủ đã thành lập Ngân hàng Ngƣời nghèo với mục đích cho ngƣời nghèo vay vốn tín dụng ngắn hạn ƣu đãi để phát triển sản xuất. Năm 2003, Ngân hàng Ngƣời nghèo đƣợc chuyển thành Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm đáp ứng tốt hơn chức năng hỗ trợ tài chính thông qua hoạt động cho vay vốn đối với các đối tƣợng nghèo và góp phần xóa đói giảm nghèo. Thứ ba, trợ cấp khuyến khích xóa bỏ cây thuốc phiện: Chính phủ dành ngân sách hỗ trợ cho ngƣời dân chấm dứt trồng cây thuốc phiện bất hợp pháp và chuyển sang trồng các loại cây trồng khác thông qua hình thức cung ứng giống cây, giống con với giá ƣu đãi, phổ biến kiến thức, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi cho bà con. Trong giai đoạn 1996-1998, mức trợ cấp trung bình của chƣơng trình khuyến khích xóa bỏ cây thuốc phiện là 15,6 tỷ đồng. Đến năm 2001, mức hỗ trợ đã giảm dần và chỉ còn khoảng 1,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau năm 2001 chƣơng trình trợ cấp này vẫn tiếp tục đƣợc áp dụng. 1.3. Các chính sách hỗ trợ Hộp hổ phách 1.3.1. Mục tiêu chính sách Hộp hổ phách Giá nông sản trên thị trƣờng thế giới thƣờng xuyên biến động mạnh. Khi giá thế giới của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam rớt mạnh, thu nhập của ngƣời nông dân cũng bị giảm theo. Vì thế, mục tiêu chủ yếu của chính sách hộp hổ phách của Việt Nam là hỗ trợ giá thị trƣờng, tức là hình thức can thiệp của Nhà nƣớc, theo đó, Nhà nƣớc mua vào sản phẩm ở mức giá cao hơn giá thị trƣờng thế giới của sản phẩm đó, nhằm nâng giá mua, giúp đảm bảo thu nhập cho nông dân. 56 1.3.2. Các biện pháp và công cụ chính sách Hộp hổ phách Các biện pháp hỗ trợ hộp hổ phách bao gồm những khoản chi ngân sách hỗ trợ không cho sản phẩm cụ thể và hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể. Thứ nhất, đối với các biện pháp hỗ trợ không cho sản phẩm cụ thể, Việt Nam đã triển khai thực hiện dƣới hình thức trợ cấp tiền điện phục vụ tƣới tiêu, trợ cấp thủy lợi phí và trợ cấp phân bón. Thứ hai, đối với các sản phẩm cụ thể, các biện pháp hỗ trợ rất đa dạng, bao gồm giá thu mua tối thiểu, hạn ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi xuất tín dụng đầu tƣ, thu mua nông sản vào thời điểm thu hoạch, hỗ trợ lãi xuất để phát triển vùng nguyên liệu, hỗ trợ bù lỗ do biến động tỷ giá và hỗ trợ nhập khẩu giống mới. Trong giai đoạn 1999-2001, hầu hết các biện pháp hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể của Việt Nam dƣới hình thức hỗ trợ giá thị trƣờng và tập trung vào bốn nhóm nông sản chính là gạo, mía đƣờng, bông và thịt lợn. Trong đó, hỗ trợ cho ngành mía đƣờng chiếm tới 98,7% tổng mức hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể của giai đoạn này. Mức hỗ trợ cho ba nhóm nông sản còn lại hầu nhƣ không đáng kể, chiếm lần lƣợt 0,99%, 0,28% và 0,04% đối với gạo, bông và thịt lợn. Hình 3.2 cho thấy giá trị hỗ trợ đối với ba mặt hàng gạo, bông và thịt lợn giai đoạn 1999-2001 đều thấp hơn nhiều so với ngƣỡng hỗ trợ cho phép (de minimis) của các sản phẩm này. Nhƣ vậy, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục hỗ trợ cho các sản phẩm này. 0,03 6,788 2,95 0,663 0,008 0,013 0,001 1,703 0 1 2 3 4 5 6 7 ng hì n tỉ VN Đ Gạo Đƣờng Bông Thịt lợn Hình 3.2. Mức hỗ trợ bình quân/năm của các biện pháp thuộc Hộp hổ phách so với ngƣỡng hỗ trợ cho phép (de minimis) Giai đoạn 1999 - 2001 Mức hỗ trợ bình quân/năm của nhóm hỗ trợ Hộp hổ phách Ngƣỡng hỗ trợ cho phép Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tính toán căn cứ vào số liệu trích từ tài liệu WT/ACC/SPEC/VNM/3/Rev.5 57 Từ sau năm 2001, hình thức của các chính sách, biện pháp hỗ trợ thuộc Hộp hổ phách của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Gạo và thịt lợn không nằm trong nhóm đối tƣợng đƣợc nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nƣớc. Với bông, Nhà nƣớc thành lập Quỹ phòng ngừa rủi ro do thiên tai và tiếp thị để chia sẻ gánh nặng với doanh nghiệp, thay vì yêu cầu các doanh nghiệp phải cam kết mua bông hạt của nông dân với giá sàn mà không có cơ chế bù lỗ cho doanh nghiệp. 1.3.3. Đối chiếu các chính sách Hộp hổ phách của Việt Nam với các quy định của WTO Hình 3.1 cho thấy, hỗ trợ thuộc nhóm Hộp hổ phách của Việt Nam có xu hƣớng giảm dần từ mức chiếm 30% tổng kinh phí hỗ trợ ngành nông nghiệp năm 1999 xuống chỉ còn 17% năm 2001. Tổng mức hỗ trợ tính gộp (tổng AMS) của Việt Nam cũng giảm dần từ 3,4 nghìn tỷ đồng năm 1999 xuống còn 2 nghìn tỷ đồng năm 2001. Trong khi đó, mức cam kết về tổng AMS của Việt Nam khi gia nhập WTO là gần 4 nghìn tỷ đồng. Nhƣ vậy, mức hỗ trợ trong nƣớc của Việt Nam thấp hơn ngƣỡng hỗ trợ cho phép (de minimis) nên Việt Nam vẫn có thể tăng các khoản chi ngân sách cho các biện pháp, chính sách thuộc hộp hổ phách. Sự thay đổi đáng kể về hình thức của các chính sách, biện pháp hỗ trợ hộp hổ phách cũng cho thấy chính sách hỗ trợ của Việt Nam đã và đang trong quá trình chuyển đổi tích cực theo hƣớng ngày càng phù hợp hơn với các quy định của WTO. 1.3.4 . Tác động của các chính sách Hộp hổ phách Trong giai đoạn 1999-2001, do ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, giá nông sản thế giới xuống thấp, Chính phủ Việt Nam mới áp dụng một số chính sách thu mua nông sản can thiệp thị trƣờng thuộc nhóm hộp hổ phách. Việc áp dụng các chính sách này nhằm đảm bảo thu nhập cho ngƣời nông dân, tránh bị tác động bất lợi khi giá nông sản biến động. 1.4. Các chính sách trợ cấp xuất khẩu 1.4.1. Mục tiêu chính sách trợ cấp xuất khẩu Mục tiêu chủ yếu của chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam là bù lỗ cho các doanh nghiệp xuất khẩu một số nhóm nông sản và khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trƣờng các nƣớc. 1.4.2. Các biện pháp và công cụ chính sách trợ cấp xuất khẩu Trƣớc năm 1998, Việt Nam chƣa áp dụng trợ cấp xuất khẩu nông sản. Sang giai đoạn 1999-2001, Chính phủ mới đề ra một số chính sách trợ cấp xuất khẩu nhƣ 58 hỗ trợ lãi suất cho các hợp đồng xuất khẩu nông sản, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp thu mua nông sản tạm trữ, hỗ trợ bù lỗ xuất khẩu nông sản cho các doanh nghiệp đã thu mua tạm trữ theo chỉ đạo và thƣởng xuất khẩu. Trong giai đoạn này, có 4 nhóm hàng nông sản chính đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ là gạo, cà phê, thịt lợn và rau quả (dứa hộp và dƣa chuột hộp). Đến năm 2002, nhằm hƣớng tới phát triển các công cụ chính sách khuyến khích xuất khẩu phù hợp với quy định của WTO, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành quyết định thành lập, sử dụng và quản lý Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng.26 Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận, hỗ trợ lẫn nhau giữa các hội viên trong hiệp hội, góp phần khắc phục và hạn chế rủi ro, ổn định sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Kể từ năm 2003, Việt Nam đã có những điều chỉnh về trợ cấp xuất khẩu theo hƣớng ngày càng phù hợp hơn với các quy định của WTO. Việt Nam đã chuyển đổi trợ cấp xuất khẩu trực tiếp sang các hình thức hỗ trợ chi phí tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu trong khuôn khổ các chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại trọng điểm quốc gia. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thành lập Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, với chức năng là cho vay xuất khẩu và cấp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các hoạt động liên quan tới xuất khẩu nông sản nhƣ sản xuất, chế biến và thƣơng mại cũng đƣợc Quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ dƣới hình thức cho vay đầu tƣ với lãi suất ƣu đãi. 1.4.3. Đối chiếu các chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam với các quy định của WTO Việt Nam cam kết xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản kể từ ngày gia nhập WTO. Nhƣ vậy, tất cả các biện pháp trợ cấp xuất khẩu hiện hành nhƣ đã trình bày ở trên phải bị xóa bỏ. Tuy nhiên, với địa vị là một nƣớc đang phát triển, Việt Nam đƣợc phép áp dụng hai loại hình trợ cấp xuất khẩu mà WTO cho phép. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ áp dụng trợ cấp xúc tiến xuất khẩu và tƣ vấn xuất khẩu. Một số biện pháp khác đƣợc phép nhƣ trợ cấp cho chi phí xử lý, nâng cấp, chế biến hàng xuất khẩu và trợ cấp chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu vẫn chƣa đƣợc triển khai áp dụng. 1.4.4. Tác động của các chính sách trợ cấp xuất khẩu Trong giai đoạn 1999-2001, chính sách trợ cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhìn chung chỉ đƣợc triển khai áp dụng khi giá nông sản trên thị trƣờng thế 26 Quyết định số 110/2002/QĐ – TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thành lập, sử dụng và quản lý Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. 59 giới bị rớt mạnh. Tuy nhiên, mức giá trị trợ cấp là không lớn, thƣờng không vƣợt quá 3% kim ngạch xuất khẩu và số lƣợng doanh nghiệp đƣợc hƣởng trợ cấp xuất khẩu là không nhiều. Theo kết quả “Khảo sát điều tra về các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU” 27, chỉ có 3,2% các doanh nghiệp đƣợc điều tra đƣợc hƣởng trợ cấp xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu của Nhà nƣớc; 18% doanh nghiệp đƣợc khảo sát đƣợc thƣởng xuất khẩu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do: thủ tục xin trợ cấp rƣờm ra, nhiêu khê và kéo dài, mà khoản tiền trợ cấp nhận đƣợc thì rất nhỏ. Do vậy, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã quyết định không nộp hồ sơ xin trợ cấp xuất khẩu của Nhà nƣớc. Cũng theo kết quả điều tra trên, mặc dù 30% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng trợ cấp xuất khẩu có tác dụng tích cực đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, nhƣng một nửa số này lại cho rằng năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp không bị ảnh hƣởng gì nếu Nhà nƣớc chấm dứt chính sách trợ cấp xuất khẩu. Nhƣ vậy, chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam tuy có ý nghĩa tích cực nhƣng sự tác động của các chính sách này đến doanh nghiệp xuất khẩu thì vẫn còn rất nhỏ. 2. Đánh giá tác động của các chính sách trợ cấp nông nghiệp tới nền kinh tế Việt Nam Chính sách trợ cấp nông nghiệp kết hợp với nhiều chính sách nông nghiệp khác trong thời gian qua đã có tác động tích cực đối với sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Hình 3.3 cho thấy giá trị sản xuất nông nghiệp đã tăng đều qua các năm từ 1996 cho đến 2007 với tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm là 3,8%. Kể từ năm 2003 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam cũng liên tục tăng (11,5% năm 2003, 26,6% năm 2004, 32% năm 2005, 32,8% năm 2006 và 35,8% năm 2007) mà không cần đến các biện pháp trợ cấp xuất khẩu từ phía Nhà nƣớc. 27 Võ Trí Thành, Đinh Hiền Minh, Phạm Thiên Hoàng, Nguyễn Ánh Dƣơng, Trịnh Quang Long. Khảo sát điều tra về các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU. NXB Tài chính. Hà Nội 2007. 60 Hình 3.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản giai đoạn 1995-2007 Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp từ website Tổng cục thống kê CHXHCN Việt Nam. Nhƣ đã phân tích ở phần trên, trong giai đoạn 1999-2001, do ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, giá nông sản thế giới xuống thấp, Chính phủ Việt Nam mới áp dụng một số chính sách thu mua nông sản can thiệp thị trƣờng thuộc nhóm hộp hổ phách và trợ cấp xuất khẩu (nhƣ bù lỗ, thƣởng xuất khẩu…). Nhƣng kể từ thời điểm năm 2001, hầu hết các biện pháp hỗ trợ gây bóp méo thƣơng mại đã bị cắt giảm mạnh và trợ cấp xuất khẩu cũng dần bị bãi bỏ. Tuy vậy, những kết quả rất khả quan của sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản nhƣ trình bày ở trên đã chứng tỏ năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam mà không cần đến các biện pháp hỗ trợ hộp hổ phách hay trợ cấp xuất khẩu của Nhà nƣớc. 3. Dự báo xu hƣớng điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới Qua những phân tích ở trên, có thể thấy rằng: kể từ năm 2001 trở lại đây, các chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam đã đƣợc điều chỉnh mạnh mẽ theo hƣớng ngày càng tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của WTO, nhằm tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam đồng thời giảm bớt sự can thiệp của chính phủ vào thị trƣờng. Nhƣ vậy, việc thực thi các cam kết gia nhập WTO về cắt giảm hỗ trợ trong nƣớc và trợ cấp xuất khẩu sẽ không gây ra những tác động tiêu cực tới ngành nông nghiệp nƣớc ta. Tuy nhiên, chủ động trƣớc những diễn biến mới nhất của Vòng đám phán Doha về vấn đề trợ cấp nông nghiệp, đồng thời từng bƣớc 61 thực hiện mục tiêu chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam trở thành một ngành kinh tế thƣơng mại hàng hóa hiện đại với sự tham gia của hàng triệu hộ nông dân nhỏ lẻ, yêu cầu đặt ra đối với nông nghiệp Việt Nam là phải có những sự điều chỉnh phù hợp về chính sách trợ cấp nông nghiệp. Theo xu thế chung của các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ học hỏi từ những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan về vấn đề điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp, đồng thời xuất phát từ những điều kiện đặc thù riêng của nền nông nghiệp Việt Nam, nhóm nghiên cứu đƣa ra những dự báo về xu hƣớng điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới nhƣ sau: Thứ nhất, các chính sách trọng tâm cần nhận đƣợc sự hỗ trợ của Nhà nƣớc là các chính sách, biện pháp thuộc nhóm Hộp xanh lá cây. Mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nƣớc đối với các biện pháp hộp xanh lá cây ở Việt Nam hiện nay còn khá thấp. Tỷ trọng chi ngân sách cho nông nghiệp của Việt Nam chỉ khoảng 6%. Trong khi đó, con số này ở Trung Quốc và Thái Lan vào khoảng 8 – 16% 28. Nguyên nhân cho thực tế này là do sự eo hẹp trong ngân sách của Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả mức hỗ trợ khiêm tốn từ ngân sách nhà nƣớc của Việt Nam hiện nay cũng vẫn chƣa đƣợc đầu tƣ một cách hiệu quả nhất. Nhƣ đã trình bày ở phần trên, thủy lợi, mặc dù là yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào sự tăng trƣởng của nông nghiệp, nhƣng chƣơng trình đầu tƣ cho thủy lợi của Việt Nam lại không mang lại hiệu quả kinh tế nhƣ dự kiến. Theo nghiên cứu của Fan và các cộng sự năm 2004 29, cứ mỗi đồng ngân sách chi cho đầu tƣ hệ thống thủy lợi thì đem lại 0,42 đồng giá trị, tức là lợi ích thu về từ việc đầu tƣ cho thủy lợi đã không đủ bù đắp chi phí bỏ ra của ngân sách. Trong khi đó, việc chi ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp lại mang lại giá trị lợi ích to lớn nhất đối với sản xuất nông nghiệp. Cứ mỗi đồng ngân sách cho nghiên cứu khoa học góp phần tạo ra 12,22 đồng giá trị sản lƣợng nông nghiệp. Do vậy, nhà nƣớc cần điều chỉnh mức phân bổ kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động, lĩnh vực trong nông nghiệp một cách hiệu quả hơn. Thứ hai, các lĩnh vực còn hạn chế của ngành nông nghiệp Việt Nam cần nhận đƣợc nhiều sự hỗ trợ từ chính phủ, đó là: (i) hoạt động nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp, công tác khuyến nông và đào tạo, phổ biến kỹ năng và kiến thức cho 28 Kherallah, M. , Golleti, F. . Kiểm điểm tình hình chi tiêu công của Việt Nam (Vietnam Public Expenditure Review). Báo cáo thành phần của Báo cáo tổng thể về ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn. Hà Nội, 2000. 29 Nguồn đã dẫn. 62 nông dân; (ii) hệ thống thông tin thị trƣờng; (iii) vấn đề liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, trong đó đặc biệt chú ý tới việc hỗ trợ sau thu hoạch, hỗ trợ tiếp thị và vận tải (biện pháp trợ cấp xuất khẩu mà các nƣớc đang phát triển đƣợc phép áp dụng, nhƣng hiện nay Việt Nam vẫn chƣa áp dụng), cũng nhƣ chú ý tới chất lƣợng sản phẩm (vệ sinh an toàn thực phẩm và dịch tễ); (iv) các biện pháp thuộc Hộp xanh lá cây mà Việt Nam chƣa áp dụng nhƣng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhƣ: nhà nƣớc tham gia đóng góp kinh phí cho các chƣơng trình bảo hiểm và bảo đảm thu nhập và hỗ trợ nông dân có đất nông nghiệp bị giải tỏa, thu hồi để sử dụng cho mục đích khác; và (v) phát triển hệ thống tín dụng nông thôn, một biện pháp nằm trong chƣơng trình phát triển, là những đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Thứ ba, về nguyên tắc điều chỉnh, Nhà nƣớc nên triển khai thực hiện quá trình điều chỉnh theo một số nguyên tắc sau: (i) hỗ trợ theo chƣơng trình, kế hoạch đƣợc hoạch định với mục tiêu rõ ràng, cụ thể thay vì các biện pháp hỗ trợ mang tính chất tình thế, đối phó; (ii) chuyển từ chính sách hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể sang chính sách hỗ trợ chung không theo sản phẩm cụ thể để tạo môi trƣờng bình đẳng và có lợi hơn cho ngƣời nông dân; (iii) chuyển từ hỗ trợ cho doanh nghiệp sang hỗ trợ trực tiếp cho nông dân có thu nhập thấp; (iv) quan tâm đặc biệt tới các vùng có điều kiện khó khăn, tỷ lệ nghèo cao và các hộ nông dân có thu nhập thấp; (v) việc hỗ trợ cần tính tới tác động phối hợp đồng thời của nhiều hoạt động và biện pháp khác nhau nhằm đạt đƣợc hiệu quả tối ƣu, từ đó, nhà nƣớc nên đƣa ra, ƣu tiên phát triển và mở rộng mô hình liên kết trong nông nghiệp (mối liên kết giữa nhà nƣớc, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp và mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản…). II. PHƢƠNG HƢỚNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, vai trò của nông nghiệp đƣợc nhìn nhận một cách rất tổng thể. Ngay từ khi mới thành lập nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ngƣời đã xác định: “Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu quan trọng. Nông thôn là thị trường tiêu thụ to lớn nhất hiện nay cho nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát 63 triển các ngành kinh tế khác”30 . Khi kháng chiến thành công, bắt đầu đi vào xây dựng kinh tế, Ngƣời nhấn mạnh “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”31. Cách nhìn vai trò tổng hợp của nông nghiệp (cung cấp lƣơng thực, nguyên liệu, tạo thị trƣờng cho công nghiệp, cung cấp hàng hóa xuất khẩu) và chủ trƣơng về một nền kinh tế liên kết giữa nông nghiệp và công nghiệp cùng phát triển rất rõ ràng và nhất quán trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tƣ tƣởng khoa học này đã đƣợc khẳng định và thể hiện cụ thể, sáng tạo trong chiến lƣợc phát triển mới của đất nƣớc. Theo đó, việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải đi theo những phƣơng hƣớng trọng tâm là đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia; nâng cao năng lực cạnh tranh, hƣớng mạnh vào xuất khẩu mặt hàng nông sản; và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. 1. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp theo hƣớng đảm bảo an ninh lƣơng thực cho Việt Nam An ninh lƣơng thực cho đến nay vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới, bởi lƣơng thực là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống. Theo Tổ chức Nông lƣơng của Liên Hợp Quốc (FAO), an ninh lƣơng thực đƣợc định nghĩa là “khi tất cả mọi người, tại mọi thời điểm, được tiếp cận về mặt vật chất và kinh tế với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và bổ dưỡng để thỏa mãn các nhu cầu về ăn uống và sở thích của mình về lương thực cho một cuộc sống tích cực và khỏe mạnh”.32 Trong hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam, kể từ một nƣớc thiếu lƣơng thực triền miên, đã trở thành nƣớc xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (liên tục từ năm 1989 đến nay). An ninh lƣơng thực quốc gia đƣợc ổn định và giữ vững. Song bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, trong quá trình phát triển, sản xuất lƣơng thực ở nƣớc ta cũng đã xuất hiện những vấn đề khó khăn và thách thức mới. Những năm gần đây, tốc độ tăng sản lƣợng lƣơng thực ở nƣớc ta hàng năm luôn thấp hơn tốc độ tăng dân số, nên lƣơng thực bình quân đầu ngƣời giảm dần: năm 2008 chỉ còn 459 kg, giảm so với năm 2007 là 465 kg và năm 2006 là 471,1 kg. Khủng hoảng lƣơng thực thế 30 Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 10. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000. Trang 14. 31 Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 10. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000. Trang 405 – 406. 32 FAO. Rome Declaration on World Food Security and World Food Summit Plan of Action . Rome , 1996. 64 giới ngày càng gay gắt và đã lan tới Việt Nam. Giá lƣơng thực của hai năm 2007 và 2008 tiếp tục tăng nhanh và đứng ở mức cao. Lƣợng gạo xuất khẩu cũng giảm dần, “cơn sốt” giá lƣơng thực tháng 4/2008 đã báo hiệu an ninh lƣơng thực quốc gia đang bƣớc vào thời kỳ có nhiều thử thách. Một trong những nguyên nhân chính của tình hình trên là vấn đề đất nông nghiệp nói chung, đất trồng cây lƣơng thực, nhất là đất trồng lúa nói riêng đang bị mất dần trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Trƣớc xu hƣớng diện tích đất nông nghiệp đang giảm đi, nhằm đảm bảo và giữ vững an ninh lƣơng thực quốc gia, chính sách trợ cấp nông nghiệp của Nhà nƣớc cần đƣợc điều chỉnh theo hƣớng sau: Thứ nhất, tăng mức hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp nhằm đƣa những ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất, trồng trọt. Đây là giải pháp đầu tƣ mang tính chiều sâu, nhằm tăng năng suất đi đôi với tăng chất lƣợng sản phẩm cây lƣơng thực. Thứ hai, tăng mức hỗ trợ đồng thời điều chỉnh lại mức phân bổ ngân sách hợp lý cho khoản đầu tƣ cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nƣớc cần phát triển và nâng cấp các công trình thủy lợi để có khả năng chống đỡ hiệu quả với bão, lũ, hạn hán, tiến tới thực hiện tƣới tiêu chủ động cho toàn bộ 4 triệu ha đất trồng lúa, tạo tiền đề cho thâm canh cao 2 vụ lúa, các vụ ngô, tập trung với năng suất cao và ổn định. Thứ ba, Nhà nƣớc cần điều chỉnh chính sách hỗ trợ nông dân, nhất là các đối tƣợng yếu thế, trong quá trình thực hiện chính sách thu hồi, đền bù đất, quy hoạch đất nông nghiệp để bảo đảm chức năng sản xuất và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân. 2. Điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp theo hƣớng nâng cao năng lực cạnh tranh, hƣớng mạnh vào xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam Thị trƣờng nông sản Việt Nam thời gian qua đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, thị trƣờng xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm qua đã đƣợc mở rộng đáng kể. Ngoài các thị trƣờng truyền thống nhƣ Trung Quốc, ASEAN, Nga, các nƣớc Đông Âu, hàng hóa nông sản Việt Nam bƣớc đầu đã thâm nhập vào những thị trƣờng đầy tiềm năng và cũng rất khó tính nhƣ EU, Mỹ... Hiện nay, nông sản Việt Nam đã có mặt ở thị trƣờng hơn 100 quốc gia trên thế giới. Một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có thị phần lớn và chiếm các vị trí 65 dẫn đầu trong các nƣớc xuất khẩu nông sản nhƣ: gạo (đứng thứ 2 thế giới với 18,2% thị phẩn), hồ tiêu (đứng thứ nhất thế giới với 14,3% thị phần), hạt điều (đứng thứ 2 thế giới với 9,5% thị phẩn), cà phê (40% thị phần)…33 Tuy vậy, khi gia nhập WTO thách thức lớn nhất đối với thị trƣờng nông sản nƣớc ta là khả năng cạnh tranh khốc liệt của nông sản sản xuất trong nƣớc với nông sản nhập khẩu có chất lƣợng cao. Theo Báo cáo của Tổ chức Nông lƣơng của Liên hợp quốc (FAO), có khoảng 1 tỷ tấn nông sản các loại ở châu Á sẵn sàng vào thị trƣờng Việt Nam ngay khi nƣớc ta gia nhập WTO. Nhƣ vậy, nông sản nƣớc ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt không chỉ ở thị trƣờng nƣớc ngoài mà còn ngay ở thị trƣờng trong nƣớc. Mặc dù Việt Nam có thế mạnh về một số nông sản xuất khẩu có thể tiếp tục duy trì và mở rộng thị trƣờng trong tƣơng lại (nhƣ gạo, hạt tiêu, điều…) nhƣng khả năng cạnh tranh của Việt Nam ở một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc (nhƣ đƣờng, sản phẩm sữa và thịt…) vẫn còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, hàng nông sản nƣớc ta chủ yếu vẫn là nông sản thô hoặc mới qua sơ chế (có đến 90% nông sản đƣợc bán ra ở dạng thô và do đó có đến 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp). Hiện tại, tuy Việt Nam là một trong những nƣớc xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực và thế giới nhƣng khả năng tăng chế biến, giá trị gia tăng của nông sản còn diễn ra khá chậm và gặp rất nhiều khó khăn. Nhƣ thế, Việt Nam có nguy cơ trở thành nƣớc xuất khẩu thô, ít qua chế biến, nhƣng lại nhập khẩu nông sản có hàm lƣợng chế biến cao. Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản ngay ở thị trƣờng trong nƣớc, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam cần phải điều chỉnh chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp theo hƣớng sau: Thứ nhất, Nhà nƣớc cần tăng đầu tƣ cho việc phát triển hệ thống thông tin thị trƣờng. Nền nông nghiệp nƣớc ta phần lớn còn phát triển theo hƣớng tự phát, thiếu quy hoạch, không có thông tin thị trƣờng. Vì vậy, việc phát triển hệ thống thông tin thị trƣờng sẽ giúp ngƣời nông dân có đƣợc định hƣớng sản xuất, biết đƣợc nhu cầu và yêu cầu của thị trƣờng. Thứ hai, Nhà nƣớc cần hỗ trợ nông dân để phát triển quy trình sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn chất lƣợng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Quy trình sản xuất “sạch” 33 TS. Bùi Hữu Đức. Phát triển thị trường nông sản nước ta trong điều kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Tạp chí Cộng sản Số 788 (tháng 6 năm 2008). 66 và “an toàn” này phải đƣợc bắt đầu ngay từ khâu chuẩn bị ở nông trại, canh tác, đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ. Chỉ có nhƣ vậy, hàng nông sản Việt Nam mới có thể vƣợt qua đƣợc những hàng rào kỹ thuật khắt khe để thâm nhập vào các thị trƣờng khó tính nhƣ EU, Nhật Bản… Thứ ba, Nhà nƣớc cần hỗ trợ ngƣời nông dân các hoạt động sau thu hoạch, hỗ trợ tiếp thị và vận tải hàng n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐiều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp của Trung Quốc và Thái Lan - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan