Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần I. Định giá sản phẩm trong doanh nghiệp. 2
A/ Một số vấn đề lý luận về giá. 2
1. Vai trò và chức năng của giá. 2
1.1 Vai trò của giá. 2
1.2 Chức năng của giá. 3
1.3 Giá tối ưu. 3
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá. 4
2.1 Giá cả và khối lượng sản phẩm cung cầu trên thị trường 4
2.2 Sức mua của tiền tệ. 6
2.3 Giá cả và các hình thái thị trường. 7
2.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hoả. 7
2.3.2 Thị trường cạnh tranh độc quyền. 8
2.3.3 Thị trường độc quyền. 9
2.4 Vai trò quản lý giá cả của nhà nước. 10
B/ Định giá trong doanh nghiệp. 10
1. Định giá, sự sống còn của doanh nghiệp. 10
2. Các loại giá trong doanh nghiệp. 11
2.1 Mức giá. 11
2.2 Chênh lệch giá (giá phân biệt). 12
2.3 Giá chuẩn. 13
2.4 Khung giá. 14
2.5 Tỷ giá. 14
3. Các yếu tố cấu thành giá sản phẩm. 15
3.1 Các yếu tố cấu thành tổng chi phí. 15
3.2 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận mục tiêu. 15
4. Phương pháp định giá sản phẩm trong doanh nghiệp. 16
4.1 Định giá cộng chi phí. 16
4.2 Tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu. 17
4.3 Tỷ suất lợi nhuận hiện thời. 17
4.4 Định giá hệ số. 18
4.5 Định giá tỷ giá. 18
Phần II. Định giá sản phẩm trong các cấu trúc thị trường. 19
1. Nguyên tắc định giá trong doanh nghiệp nước ta. 19
1.1 Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo. 19
1,2 Phương pháp định giá lấy cạnh tranh làm chủ đạo 21
2. Chính sách định giá trong kinh doanh. 22
2.1 Chính sách định giá thấp. 22
2.2 Chính sách định giá theo thị trường. 23
2.3 Chính sách định giá cao. 23
2.4 Chính sách bán phá giá. 24
3. Kỷ thuật định giá sản phẩm hiện nay. 24
4. Vai trò của nhà nước trong việc điều tiết giá ở giai đoạn hiện nay. 26
Phần III. Một số nhận định về việc định giá trong các doanh nghiệp Việt Nam. 27
1. Thuận lợi. 27
2. Thách thức. 27
3. Đôi điều về pháp lệnh giá của nước ta hiện nay. 28
Kết luận. 30
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2864 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định giá sản phẩm trong các cấu trúc thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên cơ sở đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Ngoài ra, sự điều tiết giá cả của nhà nước không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, mà còn có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là sự tiến bộ và công bằng xã hội...
B/ Định giá trong doanh nghiệp.
1. Định giá, sự sống còn của doan nghiệp.
Định giá sản phẩm là vấn đề cực kỳ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận do đó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển nói chung và sự sống còn của doanh nghiệp nói riêng. Vì thế, trong quá trình sản xuất kinh doanh, không thể định giá một cách chủ quan, tuỳ tiện và càng không được xuất phát từ lòng mong muốn. Giá cả là một phạm trù kinh tế tổng hợp, tồn tại một cách khách quan cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Đồng thời giá cả củng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người bán và người mua, nhà sản xuất với thị trường và xã hội.
Trong thực tế cuộc sống cho thấy, mổi người chúng ta đã có lúc là người bán và có lúc là người mua, xuất phát từ lợi ích kinh tế của mình khi là người bán ta luôn muốn bán với giá cao, nhưng ở vị trí của người mua ta chỉ muốn mua rẻ. Đó là sự mâu thuẩn muôn thủa giữa người bán và người mua, xét về mặt lợi ích kinh tế, trong quan hệ thị trường, mâu thuẩn này chỉ được giải quyết khi, sản phẩm đã được định giá đúng, thoả mản được lòng mong muốn trong giới hạn có thể chấp nhận được giữa người bán và người mua.
Cho nên, trong sản xuất kinh doanh, định giá là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, nó thực sự là khoa học, nghệ thuật đòi hỏi phải không khéo, linh hoạt và mềm dẻo, sao cho phù hợp với thị trường, đảm bảo trang trải được các chi phí và có lãi. Nừu định giá không chính xác, giá quá cao hoặc quá thấp, đều có thể dẩn đến không thể tiêu thụ được sản phẩm, không bù đắp được chi phí và do đó, sẽ đẩy doanh nghiệp vào tình trạng thua lổ, phá sản.
2. Các loại giá trong doanh nghiệp.
Xác định các loại giá trong kinh doanh, để đưa ra các mức giá dự kiến, lựa chọn các phương thức ứng xử về giá đối với từng sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mản nhu cầu của doanh nghiệp, cũng như các yêu cầu có tính chất bắt buộc của nhà nước trong lỉnh vực giá cả, là công việc cực kỳ quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường. Trong thực tế kinh doanh, khi nói đến định giá sản phẩm, tức là nói đến việc xác định các loại giá cả, bao gồm: mức giá, chênh lệch giá, tỷ giá, giá chuẩn, khung giá và giá giới hạn. Trong đó, mức giá, chênh lệch giá và tỷ giá là các căn cứ quan trọng nhất để doanh nghiệp xây dựng mức giá dự kiến và làm giá phân biệt theo đinh hướng kinh doanh của mình trên cơ sở yêu cầu của thị trường và những thể chế của nhà nước trong lỉnh vực giá.
2.1 Mức gia.
Mức giá là biểu hiện bằng tiền giá trị, của hàng hoá có lượng giá trị sử dụng nhất định, thực hiện ở một khâu lưu thông một quan hệ trao đổi nhất định. Mức giá của sản phẩm phụ thuộc vào quy cách chất lượng sản phẩm, kiểu kênh phân phối, thời gian, địa điểm tiêu thụ sản phẩm, phương thức thanh toán, số lượng mua và một số các tiêu thức khác trong từng doanh nghiệp cụ thể.
Đối với các doanh nghiệp, mức giá được xác định cho một đơn vị sản phẩm cụ thể. Nó có thể là mức giá dự kiến hoặc là mức giá thực hiện trong mua bán. Tuy nhiên, mức giá cụ thể của từng sản phẩm là bao nhiêu, về cơ bản được quyết định trực tiếp bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, sự can thiệp của doanh nghiệp và của nhà nước là không đáng kể, muốn can thiệp vào mức giá, phải tác động thông qua việc làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường (trong thị trường độc quyền). Trong trường hợp là mức giá dự kiến, chỉ tiêu mức giá sẽ là tham số quan trọng để phân tích điểm hoà vốn, dự đoán các chỉ tiêu khối lượng sản phẩm bán ra, tổng chi phí, tổng thu nhập và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mức độ đạt được của các chỉ tiêu dự kiến này sẽ là căn cứ để doanh nghiệp quyết định chiến lược kinh doanh, phương án sản phẩm và lựa chọn phương án giá tối ưu.
Mức giá tối ưu mà doanh nghiệp lựa chọn phải là mức giá nằm trong vùng giá dự kiến mà tại đó, có thể thoả thuận được những yêu cầu bắt buộc của chính sách giá cả và đáp ứng được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Mức giá thực hiện là mức giá doanh nghiệp sử dụng trong mua bán. Mức giá này sẽ quyết định tổng thu nhập thực tế và tổng lợi nhuận thực tế doanh nghiệp đạt được. Vì vậy, nó có ý nghĩa quyết định khả năng thu hồi các chi phí đã bỏ ra, củng như khả năng tích luỹ để mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mức giá của một đơn vị sản phẩm nói chung đều do các doanh nghiệp tự định đoạt. Tuy nhiên hiện nay cũng có một số sản phẩm do nhà nước định gía - chủ yếu là những sản phẩm có tính chiến lược, điều tiết các hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước quy định.
2.2 Chênh lệch giá (giá phân biệt).
Là những khoảng cách về mức giá của cùng một loại sản phẩm, hàng hoá nhưng khác nhau về chất lượng, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phân phối, phương thức thanh toánvà số lượng mua áp dụng cho các đối tượng tiêu dùng khác nhau.
Khi phân biệt giá doanh nghiệp cần căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Thị trường và khu vực tiêu thụ: Căn cứ vào đặc điểm của từng thị trường và khu vực cụ thể mà doanh nghiệp cần áp dụng giá phân biệt cho từng loại sản phẩm khi đem ra tiêu thụ ở từng thì trường. Chẳng hạn như thị trường truyền thống hay thị trường doanh nghiệp mới gia nhập, thị trường thành phố, hay thị trường nông thôn miền núi.
+ Chất lượng sản phẩm: Căn cứ vào chất lượng để tiến hành phân loại sản phẩm theo cấp, loại chất lượng khác nhau từ đó ra quyết định các mức giá khác nhau cho các sản phẩm khác nhau đó.
+ Khối lượng mua của người tiêu dùng: Để khuyến khích khách hàng mua một số lượng lớn, cần áp dụng các tỉ lệ chiết khấu. Tức là trên cơ sở giá bán lẻ, quy định một số tỷ lệ chiết khấu giảm giá cho người mua tương ứng với từng khối lượng hàng cụ thể, chẳng hạn giá bán 1 loại sản phẩm là 10000đ nếu mua 100sp có thể giảm 5%, 300sp có thể giảm 10%, 500sp có thể giảm 15%, 1000sp giảm 20%....Mặc dù trong trường hợp này lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp thu được có giảm đi, song việc tiêu thụ nhanh sản phẩm với khối lượng lớn nên tổng lợi nhuận của doanh nghiệp có thể đạt được nhiều hơn và có thể quay vòng vốn nhanh hơn.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức khác: như giảm giá cho những đối tượng có thu nhập thấp, giá khai trương, giá khuyến mại...hay là giá phân biệt cho việc thanh toán nhanh nhằm kích thích khách hàng trả tiền mặt.....
áp dụng chênh lệch giá trong kinh doanh là việc làm phổ biến hiện nay, nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong việc xác định giá trong điều kiện giữ nguyên mức giá cơ sở, làm tăng tốc độ, sản lượng bán sản phẩm, kích thích người mua, làm thoả mản các nhu cầu mua sản phẩm khác nhau của người tiêu dùng.
2.3 Giá chuẩn.
Giá chuẩn không phải là giá hiện thực áp dụng trong mua bán trên thị trường, mà chủ yếu là do nhà nước xây dựng cho các sản phẩm chuẩn. Giá chuẩn là sự thể hiện quan điểm chính sách của nhà nước về việc quản lý chỉ đạo giá. Hiện nay nhà nước vẩn quản lý giá của một số mặt hàng, sản phẩm như điện, cước phí bưu chính viển thông, thuỷ lợi phí, các loại kim khí nhập khẩu .... nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm thuộc doanh mục nhà nước định giá chuẩn, khi xác định các mức giá dự kiến bắt buộc phải căn cứ vào giá chuẩn của nhà nước để ấn định mức giá của mình.
2.4 Khung giá.
Khung giá là chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống giá cả, nó là độ lệch giữa mức giá tối đa và mức giá tối thiểu của một loại sản phẩm lưu thông trên thị trường nằm trong doanh mục nhà nước định khung giá, thì các doanh nghiệp phải định giá sản phẩm của mình trong khung giá đó. Doanh nghiệp không được quy định mức giá cao hơn mức tối đa, ngược lại cũng không được định giá thấp hơn mức tối thiểu. Trong từng doanh nghiệp dù là sản xuất kinh doanh các mặt hàng không thuộc diện nhà nước quy định khung giá thì các doanh nghiệp cung nên ấn định khung giá sản phẩm của mình, các mức giá cụ thể nên giao động trong khung giá tuỳ theo tình hình và đặc điểm thị trường.
Khi quy định khung giá phải hết sức thận trọng trong việc xác định độ lệch giữa giá tối thiểu và giá tối đa, độ lệch này phải được tính toán cho từng loại sản phẩm cụ thể, từng khu vực thị trường.. tuỳ từng địa điểm, thời gian tiêu thụ mà có khung giá khác nhau.
2.5 Tỷ giá.
Tỷ giá là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét và quyết định giá bán sản phẩm của mình. Thực chất, tỷ giá là mối quan hệ so sánh giữa hai mức giá của hai loại sản phẩm khác nhau, không đồng nhất về giá trị sử dụng ... Tỷ giá có thể được tính qua 3 thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai nên nó là chỉ tiêu quan trọng, phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo giá của nhà nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Tỷ giá là kết quả so sánh giữa hai mức giá cụ thể, với những sản phẩm đem so sánh để xác định tỷ giá phải có mối quan hệ với nhau, sản phẩm này có thể thay thế cho nhau trong sản xuất và tiêu dùng.. ngoài ra khi xác định tỷ giá phải đảm bảo sự đồng nhất về khâu giá, chất lượng sản phẩm, thời gian và thị trường tiêu thụ...Nếu không việc xác định tỷ giá sẽ là vô nghĩa và không thể làm cơ sở cho việc ấn định giá của doanh nghiệp.
3. Các yếu tố cấu thành giá sản phẩm.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh dù thuộc thành phần nào đi nữa cũng đều có chung một mục tiêu là thu lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận lại được hình thành từ sự chênh lệch giữa giá bán sản phẩm hàng hoá với tổng chi phí đã bỏ ra gồm (chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và các khoản nộp nhà nước theo luật định). Vì thế, nếu giá bán càng cao, chi phí càng thấp thì lợi nhuận thu được càng nhiều và ngược lại. Tuy nhiên, như đã nói trên, mặc dầu giá bán đối với từng sản phẩm hàng hoá cụ thể thuộc quyền quyết định của doanh nghiệp, nhưng không phải vì thế mà ấn định mức giá bán một cách tuỳ ý. Muốn có cơ sở định giá đúng phải xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành nên giá bán sản phẩm:
3.1 Các yếu tố cấu thành tổng chi phí.
Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
+ Chi phí sử dụng máy móc thiết bị .
+ Chi phí nguyên nhiên vật liệu.
+ Chi phí tiền lương.
+ Chi phí quản lý.
+ Chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Khi tính tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không tính các khoản: chi phí hao hụt về vật tư hàng hoá quá mức cần thiết, chi phí phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, lải trả ngân hàng về tiền vay do dự trữ vật tư, hàng hoá quá mức cần thiết, các loại thiệt hại quá mức quy định cho phép của quy trình sản xuất cũng như các khoản thuộc chi phí khen thưởng, phúc lợi và lập quỹ xí nghiệp.
3.2 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận mục tiêu.
Trong thời kỳ bao cấp, lợi nhuận để hình thành giá ván sản phẩm hàng hoá là lợi nhuận hợp lý, thường tính bằng tỷ lệ % nhất định so với chi phí sản xuất hợp lý, được xác định trên cơ sở định mức về vồng quau của vốnm ứng với từng lỉnh vực sản xuất và từng ngành hàng, nhóm hàng. Song trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc xác định lợi nhuận để hình thành giá thành, giá bán sản phẩm hàng hoá không thể là lợi nhuận hợp lý kiểu như củ, mà nó phải là lợi nhuận mục tiêu.
Sở dĩ như vậy vì, với mục đích kinh doanh để kiếm lời, thì hoạt động kinh doanh phải được coi như một chiếc máy in tiề. Bỏ vào kinh doanh một số tiền nhất định thì phải thu về được một số tiền lớn lơn. Trên quan điểm ấy mà xét, lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp phải là số lải đủ đảm bảo trang trải tất cả các khoản chi phí thực tế đả bỏ ra và có lải thoả đáng.
Như vậy, cơ cấu lợi nhuận mục tiêu phải bao gồm lợi nhuận hợp lý cộng với các khoản chi phí thực tế đã bỏ ra mà theo quy định không được tính vào chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như đã nói trên và các khoản chi phí khác như chi phí ngầm chi phí phòng ngừa rủi ro, chi phí cơ hội...
4. Phương pháp định giá sản phẩm trong doanh nghiệp.
Thực tiển sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường cho thấy, giá cả sản phẩn được quyết định chủ yếu bởi các quan hệ thị trường. Song không phải vì thế mà các doanh nghiệp đem bán sản phẩm của mình theo mức giá có sẳn trên thị trường. Dù cho bất cứ trường hợp nào, trước khi sản xuất và đặc biệt là trước khi tung sản phẩm ra bán, doanh nghiệp đều phải tính toán giá cả sao cho hợp lý trên cơ sở bảo đảm mục tiêu kinh doanh, để làm căn cứ cho việc ấn định mức giá cụ thể sản phẩm của mình. Trên thực tế, nếu như doanh nghiệp ấn định một mức giá khác với giá thị trường sẳn có, nó sẽ là cơ cở hết sức quan trọng để doanh nghiệp thăm dò khai thác thị trường, xác định khả năng cạnh tranh. Cho nên việc tính toán giá cả chẳng những là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với việc định mức giá cụ thể của sản phẩm mà nó còn giúp doanh nghiệp dự báo được giá cả thị trường, chủ động điều tiết số lượng sản phẩm sản xuất và tung ra thị trường, cũng như chủ động trong việc điều tiết giá cả một cách linh hoạt trong điều kiện cạnh tranh.
4.1 Định giá cộng chi phí.
Phương pháp định giá phổ biển nhất được sử dụng trong thực tế là tính chi phí trung bình trực tiếp của việc sản xuất ra sản phẩm rồi cộng thêm các chi phí gián tiếp và cộng thêm một phần để có lãi. Phương pháp định giá cộng chi phí bao gồm hai bước: Thứ nhất là xác định chi phí đơn vị để lấy nó làm cơ sở định giá. Thứ hai là xác định phần gia tăng sẽ được cộng vào chi phí để định giá. Khi xác định chi phí để định giá các doanh nghiệp thường dựa vào việc tính toán chi phí chuẩn, bao gồm việc giả định một mức sản lượng hợp lý rồi lấy chi phí lao động và nguyên vật liệu dự kiến cho một đơn vị sản phẩm cộng thêm phần chi phí gián tiếp phân bổ cho mỗi sản phẩm. Trong thực tế về định giá cho thấy rằng các doanh nghiệp tạo ra một phần lải là 10% để tính giá. Thế nhưng đó không phải là con số chuẩn của tất cả các ngành mà các danh nghiệp thường điều chỉnh phần cộng thêm đó theo điều kiện cầu và cạnh tranh.
4.2 Tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu.
Là gắn với việc theo đuổi một tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu thu được từ vốn. Theo công thức:
lợi nhuận đòi hỏi = a*K
Trong đó: a là tỷ suất chỉ tiêu, K là lượng vốn sử dụng.
Chênh lệch phải cộng thêm vào chi phí đơn vị được tính bằng cách chia tổng lợi nhuận đòi hỏi cho mức sản lượng dự kiến.
M = a*K/Qb
Trong đó: M là chênh lệch, Qb là mức sản lượng dự kiến.
Các doanh nghiệp sử dụng phương pháp này vì họ muốn có quan điểm dài hạn về định giá và vì họ muốn tranh thủ những ảnh hưởng ngắn hạn dẩn đến những thay đổi lớn trong giá.
4.3 Tỷ suất lợi nhuận hiện thời.
Là chính sách định giá do các lực lượng thị trường đặt ra cho các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mổi doanh nghiệp có nghĩa vụ đặt giá bằng giá của các doanh nghiệp khác, nếu không sẽ mất hết khách hàng. Trong các tình huống phức tạp, các doanh nghiệp không đặt giá đúng bằng giá của đối thủ cạnh tranh mà sử dụng giá của đối thủ làm giá chuẩn để điều chỉnh mức giá của mình có tính đến yếu tố khác, như trong việc định giá gia nhập, định giá sản phẩm mới...
Đặt giá tỷ suất lợi nhuận có tính đến giá của các đổi thủ cạnh tranh và ảnh hưởng các điều kiện cầu mà doanh nghiệp gặp phải, sau đó đưa ra những biện pháp đảm bảo thu được lợi nhuận cực đại. Trong thực tế tuỳ vào các kiểu thị trường khác nhau để đặt giá hợp lý, có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nữa để đặt được mức giá hợp lý, nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
4.4 Định giá hệ số.
Trong sản phẩm kinh doanh có những doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm với nhiều kích cỡ, kiểu dáng khác nhau. Vì thế việc xác định giá cả cho từng sản phẩm là rất khó khăn, để đảm bảo yêu cầu chỉ đạo về giá, bảo đảm tính hợp lý giữa những sản phẩm có kích cỡ, kiểu dáng khác nhau, có thể áp dụng phương pháp xác định giá theo hệ số.
4.5 Định giá tỷ giá.
Trên thị trường, quan hệ tỷ giá một mặt phản ánh giá trị của sản phẩm hàng hoá nhưng mặt khác, phản ánh mối quan hệ cung cẩu của từng loại hàng hoá. Vi vậy, tỷ giá là căn cứ quan trọng để xác định giá sản phẩm.
Là phương pháp lấy tỷ giá của hai loại sản phẩm có thể so sánh ở kỳ trước nhân với gía hiện thời của sản phẩm so sánh:
Phần II. Định giá sản phẩm trong các cấu trúc thị trường.
1. Nguyên tắc định giá trong doanh nghiệp nước ta.
Khác với thời kỳ bao cấp, trong nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh luôn gắn liền với lợi nhuận. Vì thế đã là nhà kinh doanh thì phải hết sức quan tâm đến định giá bán sản phẩm của mình. Những phương pháp xác định giá đã nêu trên chỉ là cơ sở để doanh nghiệp xem xet, chứ không phải lấy làm kết quả tính toán theo các phương pháp đó để ấn định các mức giá cụ thể khi mua bán. Việc định giá chịu hàng loạt các yếu tố tác động, các quan hệ kinh tế thị trường, nhất là quan hệ cung cầu về hàng hoá giữ vai trò quyết định. Cho nên, việc ấn định mức giá cụ thể của sản phẩm được thực hiện có thể cao hoặc thấp hơn giá tính toán.
Trên góc độ nào đó, thì giá một sản phẩm nào đó là số tiền mà người bán trù tính có thể nhận được từ người mua. Do đó khi ấn định một mức giá cụ thể, phải tính được số lượng sản có khả năng tiêu thụ. Trong thực tế có những doanh nghiệp, do định giá thấp mà tăng được khối lượng tiêu thụ do đó thu được lợi nhuận tối đa. Song cũng có doanh nghiệp, tiêu thụ một lương sản phẩm nhỏ nhưng vì định giá rất cao nên đã thu được lợi nhuận lớn.
Khi ấn định các mức giá cần phải xem xét tới một loạt các khía cạnh sau:
+ Thu nhập của dân cư.
+ Quy mô của thị trường.
+ Sở thích và tập quán tiêu dùng.
+ Khả năng của các nhà cạnh tranh.
+ Chính sách phát triển kinh tế của nhà nước.
+ Sức hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng cao hay thấp, độ co dãn của nhu cầu sản phẩm trên thị trường.
+ Hình thái thị trường mà doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm của mình.
Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo.
Khái niệm về phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo.
Cơ chế thị trường cấu thành bởi ba bộ phận: cơ chế cạnh tranh, cơ chế cung cầu và cơ chế giá, trong đó cơ chế giá là hạt nhân của vấn đề thị trường, và giá ở đây là giá giao dịch trên thị trường. Giá hàng hoá và cung cầu hàng hoá có quan hệ nhân quả với nhau, nói chung giá hàng hoá được xác định căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường.
Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo là trên cơ sở các cấp bậc giá thành khác nhau, tiến hành tính toán mức tiêu thụ đối với các mức giá giả thiết khác nhau, để xác định có thể đạt mức tiêu thụ dự tính và mục tiêu lợi nhuận. Nguyên tắc cơ bản là khi lượng cầu tương đối lớn, quy hoạch giá tương đối cao, hoặc lượng cầu tương đối nhỏ, mức giá tương đối thấp. Doanh nghiệp cần lấy giá có thể thu được lợi nhuận lớn nhất và người mua có thể chấp nhận là chuẩn mực cơ bản của việc định giá. Doanh nghiệp thường xác định giá trên mối quan hệ giữa một đơn vị giá với số lượng tiêu thụ, giá càng thấp thì lượng cầu càng cao, và ngược lại. Xác định gia , tính toán nhu cầu thị trường tương lai của một sản phẩm đặc biệt la sản phẩm mới đưa ra thị trường là một việc cực kỳ phức tạp. việc tính toán nhu cầu đòi hỏi phải xêm xét nhiều nhân tố, như các sản phẩm thay thế, mức nhu cầu, thu nhập quảng bá sản phẩm và áp lực cạnh tranh.. Vì vậy, để ứng dụng tốt phương pháp tính toán đường công nhu cầu, phải nghiên cứu môi trường thị trường ở trạng thái động, mắn vững nhu cầu của mỗi một sản phẩm , sự biến đổi của nhu cầu..
Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo.
+ Phương pháp xác định gía trị trực giác: là phương pháp xác định giá căn cứ vào trình độ nhận thức và lý giải của người tiêu dùng đối với sản phẩm dịch vụ. Người tiêu dùng khi mua sắm hàng hoá đa số đều nhận thức và phán đoán đối với tính năng, công dụng, chất lượng kiểu dáng và giá của loại hàng hoá. Khi mức giá nhất trí với trình độ nhận thức và lý giải giá trị của người tiêu dùng đối với hàng hoá, người tiêu dùng sẽ chấp nhận mức giá đó. Vì vậy, trước khi đưa một sản phẩm nào đó ra thị trường, doanh nghiệp cần dựa vào đánh giá của người tiêu dùng về sản phẩm, căn cứ vào đấy mà quy định mức giá ban đầu cho sản phẩm.
+ Phương pháp xác định giá khác biệt nhu cầu: Căn cứ vào một sản phẩm có thể có sức hấp dẩn khác nhau đối với người tiêu dùng, nếu họ có thể có sự chi trả khác nhau cho một hàng ho. Doanh nghiệp khi xác định giá vận dụng điều này để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Sự khác biệt giữa các loại giá này là không lấy khác biệt giá thành làm cơ sở, mà lấy khác biệt đối với nhu cầu hàng hoá làm cơ sở.
Căn cứ vào sự khác biệt về tính chất tiêu dùng, mức độ tiêu dùng và tập quán tiêu dùng của người tiêu dùng khác nhau để quy định giá khác nhau, vào vị trí hoặc khu vực khác nhau của cùng một sản phẩm để quy định các giá khác nhau.
Phương pháp xác định giá khác biệt nhu cầu áp dụng trong điều kiện là:
Hàng hoá có hai hoặc nhiều thị trường trở lên bị chia cắt, hơn nữa là sự khác biệt nhu cầu giữa các thị trường chia cắt tương đối rỏ ràng.
Trong thị trường với doanh nghiệp thực hiện giá cao, người cạnh tranh không có khả năng sử dụng giá thấp để chống lại mình.
Không dẩn đến sự phản cảm của người tiêu dùng mà làm mất khách hàng
+ Phương pháp xác định giá khuyên bảo: Thông qua các tổ hợp giá khác nhau để khuyên bảo người tiêu dùng mua sắm liên đới, mua sắm xung động và mua sắm số lượng lớn. Thực chất là thông qua các hình thức ưu đãi giá để kích thích người tiêu thụ tăng lượng mua.
+ Phương pháp xác định giá đường cong phản ứng mua sắm: là phương pháp doanh nghiệp quy định giá căn cứ vào sự so sánh tình hình nhu cầu đối với sản phẩm và tình hình cạnh tranh của sản phẩm đang tồn tại. Thông qua điều tra thị trường, doanh nghiệp có thể thu được thông tin về giá cao nhất mà người tiêu dùng chấp nhận trả và người tiêu dùng tin tưởngvào mức giá thấp nhất với chất lượng sản phẩm đó, số lượng người tiêu dùng tham gia mua sắm ở mổi mức giá, và nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm cạnh tranh đã tiêu thụ trên thị trường.
Phương pháp định giá lấy cạnh tranh làm chủ đạo.
Doanh nghiệp xác định giá cả không lấy quan hệ giữa giá cả và giá thành của sản phẩm với nhu cầu có biến đổi, chỉ cần đối thủ cạnh tranh vẩn giữ nguyên không đổi. Khi giá cả cạnh tranh biến đổi, cần phải thích ứng với việc điều chỉnh giá của đối thủ cạnh tranh biến đổi, mặc dù giá thành sản phẩm và nhu cầu không biến đổi. Phương pháp định giá cạnh tranh lấy cạnh tranh làm chủ đạo có rất nhiều phương pháp cụ thể, nhưng thường hay được sử dụng là
+ Phương pháp xác định giá cả theo mức giá thị trường của san phẩm cùng nhóm: Phương pháp này xác định giá cả theo giá cả thông hành nói chung, nhằm làm cho giá cả sản phẩm của doanh nhiệp mình duy trì ở mức giá của ngành. Không ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành hàng, không ảnh hưởng đến yêu cầu cơ bản của doanh nghiệp với lợi nhuận bình quân,
+ Phương pháp tỷ giá hàng hoá tương quan: Phương pháp này xác định giá cả nói chung lấy giá cả hiện hành của loại hàng cùng nhóm làm tiêu chuẩn làm căn cứ, co sánh giá thành và chất lượng để xác định giá cả mặt hàng mới. Thường biểu hiện bằng tỷ suất chênh lệch giá cả giá thành, và tỷ suất chênh lệch giá cả chất lượng,
+ Phương pháp xác định giá cả kiểu loại trừ: phương pháp này xác định giá lấy việc loại trừ đối thủ cạnh tranh, giữ vững thị phần của mình hoặc giành lấy thị phần của đối thủ cạnh tranh làm mục tiêu. phương pháp giá cao và phương pháp giá thấp.
+ Phương pháp xác định giá cả mua đấu giá: là phương pháp xác định giá cả mà người sở hữu hàng háo hoặc là người đại lý không quy định giá trước khi bán, áp dụng phương pháp bán công khai, dẩn dắt người mua báo giá, lợi dụng tâm lý cần mua hàng của người mu, từ đó lựa chon giá.
+ Phương pháp xác định giá cả đấu thầu: bên gọi thầu chỉ một mà bên đấu thầu thì có nhiều, làm cho bên gọi thầu đứng ở vị trí cạnh tranh. Bên gọi thầu thông qua dẫn dắt cạnh tranh của bên đấu thầu để lựa chọn người hợp tác tốt nhất.
2. Chính sách định giá trong kinh doanh.
2.1 Chính sách định giá thấp.
Tức là định giá bán thấp hơn mức giá thống nhất trên thị trường, đồng thời thấp hơn giá trị của sản phẩm. Cách định giá này thường được áp dụng khi doanh nghiệp muốn bán ngay một khối lượng sản phẩm lớn ra thị trường và muốn bán nhanh để thu hồi vốn hoặc dùng định giá thấp cho sản phẩm mới nhằm thu hút khách hàng mở rộng thị trường.
Tuy nhiên để áp dụng mức giá thấp cũng không phải dễ dàng, vì trước hết nó đòi hỏi chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp phải thấp, hoặc khi cầu trong thị trường co dãn. Vả lại nếu doanh nghiệp bán giá thấp hơn giá của thị trường có thể gây nên sự nghi ngờ về chất lượng sản phẩm, ngoài ra, cũng cần phải tính đến các đối thủ cạnh tranh, việc bán giá thấp hơn thị trường sẽ đẩy đối thủ cạnh tranh vào tình trạng khó khăn, thua thiệt ,vì thế có thể dẩn đến sự trả đuả. Doanh nghiệp áp dụng chính sách định giá này thường phải là doanh nghiệp có vốn lớn, vì thời gian áp dụng dài chất lượng sản phẩm tương với sản phẩm cùng lại.
2.2 Chính sách định giá theo thị trường.
Đây là cách định giá bán phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay, tức là định mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp sử dụng các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74632.DOC