Đề tài Định hướng – giải pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 3

Chương I: Luận cứ khoa học và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4

I. Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 4

1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 4

1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4

2. Một số vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 5

2.1. Lí luận của kinh tế học Mác – Xít: 6

2.2. Lí luận của kinh tế học phát triển: 6

II. Kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 9

1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong một số mô hình công nghiệp hoá 9

1.1. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu: 9

1.2. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu : 11

1.3. Mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế : 12

2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở một số nước trên thế giới 13

2.1. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Malaxia : 13

2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở trung quốc: 14

2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc: 15

Chương II: Thực trạng, đánh giá và vị trí cơ cấu các ngành kinh tế ở nước ta hiện nay 16

I. Sự cần thiết và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta 16

1. Sự cần thiết đIều chỉnh cơ cấu kinh tế 16

2. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và triển vọng 17

II. Thực trạng cơ cấu từng ngành kinh tế 19

1. Thực trạng cơ cấu ngành nông - lâm – ngư nghiệp 19

1.1. Vị trí , đặc đIểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta: 19

1.2. Thực trạng cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta hiện nay 19

2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp 22

2.1. Vị trí, đặc đIểm việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta: 22

2.2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp ở nước ta 22

3. Thực trạng cơ cấu ngành thương mại - dịch vụ 27

3.1. Vị trí, đặc điểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ: 27

3.2. Thực trạng cơ cấu của ngành thương mại - dịch vụ ở nước ta 28

Chương III: Định hướng – giảI pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta 32

I. những định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong những năm tới ở nước ta 32

1. Định hướng chung: 32

1.1. Định hướng chung cho giai đoạn 2001 đến 2010 33

1.2. Định hướng chung cho giai đoạn 2010 đến 2020 34

2. Định hướng cho từng ngành 34

2.1. Định hướng cho ngành nông - lâm - ngư nghiệp 34

2.2- Định hướng cho ngành Công nghiệp 36

2.3. Định hướng cho ngành dịch vụ 38

II. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta: 39

1. Giải pháp chung: 39

2. Giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành kinh tế 40

2.1. Giải pháp cho ngành công nghiệp 40

2.2. Giải pháp cho ngành nông - lâm - ngư nghiệp 41

2.3. Giải pháp cho ngành thương mại – dịch vụ 41

Tài liệu tham khảo 42

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng – giải pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng yếu kém, sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung tự cấp. Từ năm 1986, trước đường lối đổi mới của Đảng nền kinh tế của ta chuyển sang bước ngoặt mới. Chúng ta tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dù có chỗ còn hình thức, chưa hiệu quả, nhưng nhìn chung là theo hướng tương đối tốt, theo tỉ lệ đóng góp vào GDP là: Năm 1975: Nông nghiệp đóng góp 70%, công nghiệp đóng góp 9% và dịch vụ đóng góp 21%. Năm 1989 : Nông nghiệp 40%; công nghiệp 25% và dịch vụ 35%. Năm 1990: Nông nghiệp 38,7%; công nghiệp 22,7%; dịch vụ 38,6%. Năm 1995: Nông nghiệp 27,2%; công nghiệp 28,8%; dịch vụ 44,1%. Năm 2000: Nông nghiệp 25%; công nghiệp 34,1%; dịch vụ 40,9%. Trong những năm tiến hành ổn định và phát triển kinh tế đóng góp trong GDP của các ngành liên tục tăng: Năm 1991: nông nghiệp tăng 2,2%; công nghiệp 9%; dịch vụ 8,3%. Năm 1995: nông nghiệp tăng 4,8%; công nghiệp 13,6%; dịch vụ 9,8%. Năm 2000: nông nghiệp tăng 3,5%; công nghiệp 9 – 9,5%; dịch vụ 4 – 4,5%. Có thể thấy đây là con số thích ứng với giai đoạn chuẩn bị đi vào công nghiệp hoá. Con đường tất yếu đi lên với phát triển kinh tế là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Song không phải mọi sự chuyển dịch cơ cấu đều mang ý nghĩa tiến bộ, đều dẫn tới phát triển kinh tế như nhau. Xu thế chung là càng giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp thì nhịp độ tăng trưởng kinh tế càng lớn. Chúng ta có thể thấy tình hình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp mấy năm gần đây ở nước ta, nhất là ở các tỉnh phía Nam đã phát triển mạnh những ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại, như công nghiệp điện tử, công nghiệp hoá chất, công nghiệp dệt, may mặcv..v. Qua đó đã tác động đến các ngành công nghiệp khác cũng phát triển, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Từ năm 1991 đến năm 1992 các ngành công nghiệp đều đi vào khôi phục, có những ngành tăng trưởng nhanh. Một số ngành có bước phát triển vượt bậc: - Ngành Dầu khí Việt Nam đã có bước phát triển cao với sản lượng dầu thô vượt 100.000 thùng / ngày. Công nghiệp Than cũng đã bước vào thị trường thế giới một cách mạnh mẽ với khối lượng 1,6 triệu tấn (1992). - Nghành sản xuất Thiếc đã vượt chỉ tiêu 3000 tấn, gấp hai lần so với dự tính đến năm 2000. Ngành sản xuất Điện phát triển mạnh, đạt mức sản sản xuất 10 tỷ Kwh và đang tiếp tục phát triển mạnh. Ngành công nghiệp dệt và may đã phát triển mạnh đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn đứng thứ hai trên thế giới. Thành quả 10 năm đổi mới đạt được mang một ý nghĩa quan trọng đối với toàn Đảng, toàn Dân ta.kết quả ấy được tổng kết trong bảng sau: Đơn vị tính Mục tiêu Thực hiện Thực hiện bình quân (%) Mục tiêu chiến lu'ợc Mục tiêu 5 năm do ĐH VIII đề ra 1991 1995 2000 1991- 1995 1996- 2000 Chiến luợc 10 năm - Tốc độ tăng GDP % 6,9-7,5 09-Oct 6 9,5 5,5-5,6 8,2 7 7,5 Trong đó: Khu vực I % 2,2 4,8 3,5 4,3 4,1 4,2                 Khu vực II % 9 13,6 9-9,5 12,9 10,5 11,7                 Khu vực III % 8,3 9,8 4-4,5 9,1 5,2 7,2 Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp % 4,0-4,2 4,5-5,0 2,9 6,6 3,5-4 5,9 5,8 5,4 Giá trị sản xuất công nghiệp % 9,5-12,5 14-15 10,4 14,5 10,5-11 13,7 13,5 12,9 Giá trí sản xuất dịch vụ % Dec-13 10 11,2 4,5-5,0 10,1 6,8 8,2 - theo giá 1994 Ng.tỷ đ Gấp đôi 144,2 195,5 270,5 2 lần 2 - GDP bình quân đầu người Ng.đ Gấp đôi 90 2127 2642 3469 1,8 1,8 Nhờ định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí của Đảng và Nhà nước mà nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm đạt từ 7% đến 8% năm. Nền kinh tế nước ta đang được đánh giá là “thị trường tiềm năng” của nền kinh tế thế giới đối với các nhà đầu tư nước ngoài. II. THựC TRạNG CƠ CấU TừNG NGàNH KINH Tế 1. Thực trạng cơ cấu ngành nông - lâm – ngư nghiệp 1.1. Vị trí , đặc đIểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta: Nông – Lâm – Ngư nghiệp là lĩnh vực sản xúât vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp và nguồn hàng cho xuất khẩu. Cho đến nay, ngành nông – lâm – ngư nghiệp nước ta còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, là ngành có tỷ trọng lớn về lực lượng lao động trong cả nước. Vì thế, cơ cấu kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội ở nước ta. ở nước ta một thời gian dài do không nhận thức đúng đắn, coi thiên nhiên là vô tận, vì thế ít quan tâm đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên. gần đây, chúng ta đã nhận thức được sự huỷ hoại môi trường tự nhiên đã đến mức rất nghiêm trọng ttrong đó những người hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Từ nhận thức đó, chúng ta chuyển dịch cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp theo hướng kết hợp hiệu quả Kinh tế – Xã hội với bảo vệ môi trường tự nhiên. 1.2. Thực trạng cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta hiện nay Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đã có những thay đổi tích cực và là nền tảng vững chắc cho sự ổn định để tiếp tục phát triển kinh tế trong chặng đường tiếp sau.    Đơn vị tính Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu chiến lược Mục tiêu 5 năm do ĐH VIII đề ra 1991 1995 2000 Sản lượng lương thực quy thóc Tr.Tấn 30-32 22,0 27,6 34 Sản lượng lương thực / người Kg 370 324 372 436 Tỷ trọng cây CN/ngành trồng trọt % 45 - - 23,7 Tỷ trọng ngành chăn nuôi/ngành nông nghiệp % 30-35 - - 17,3 Bảo vệ rừng Tr.ha 9,3 - - 11 Diện tích rừng tăng thêm Tr.ha 2,5 - - 1,0 Trong đó: rừng trồng mới Tr.ha 1,0 - - 1,0 Độ che phủ của rừng % 40 - 33 Sản lượng thuỷ sản Tr.tấn 1,6-1,7 - 1,5 1,9 Trong đó: sản lượng nuôi trồng 1000tấn 500-550 Diện tích nuôI trồng thuỷ sản 1000tấn 600 Xuất khẩu thuỷ sản Tỷ USD 1-1,1 1050 Nông nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Trong 10 năm (1991 - 2000) giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,4%, vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược (mục tiêu chiến lược là 4 - 4,2%), trong đó nông nghiệp tăng 5,4% (lương thực tăng 4,2 - 4,3%, cây công nghiệp 10%, chăn nuôi 5,4%); thuỷ sản tăng 9,1%; lâm nghiệp tăng 2,1%. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã tăng nhanh. Năm 1990 là 1,149 tỷ USD, năm 1999 là 4,42 tỷ USD, năm 2000 dự kiến 4,7 tỷ USD, chiếm 37,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Bình quân thời kỳ 1991-1999 tăng 16%/năm, dự kiến 1991-2000 tăng 15,0%. Diện tích một số cây công nghiệp tăng khá như cà phê, năm 2000 tăng gấp 5,4 lần so năm 1990; cao su tăng 4,5 lần; chè tăng khoảng 2 lần; mía tăng 3 lần; bông tăng 8,1 lần; ... Ngành thuỷ sản chiếm 10-12% giá trị sản lượng nông nghiệp. Sản lượng thuỷ sản tăng bình quân hàng năm trên 8,8%, trong đó sản lượng nuôi trồng tăng 13%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng bình quân 17,7%/năm và đã trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp và khoảng 8 -9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nu'ớc. Ngành lâm nghiệp với việc thực hiện chương trình trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng đã đạt nhiều kết quả. Độ che phủ tăng từ 28,2% năm1990 đã lên 33% vào năm 2000 (không kể cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng khai thác lợi thế đặc thù của mỗi vùng sinh thái. Trong giá trị sản xuất nông nghiệp, cây lương thực chiếm còn chiếm khoảng 42- 43 % trong khi cây công nghiệp chiếm 13- 14 %, rau quả và cây khác chiếm 13- 14%; chăn nuôi chiếm 13- 14 %; lâm nghiệp chiếm 6-7 %; thuỷ sản chiếm 10 - 11 %. Tuy nhiên, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn còn nhiều vấn đề yếu kém. Sản xuất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều yếu tố chưa vững chắc, chi phí cho sản xuất nông nghiệp vẫn còn cao, các phương thức canh tác tiên tiến chậm đưa vào áp dụng trên diện rộng. Năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất thấp, giá thành cao nên khả năng cạnh tranh kém cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhiều sản phẩm chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu quy mô lớn như rau, quả, thịt. Một số sản phẩm chủ yếu xuất khẩu ở dạng thô nên giá thường thấp hơn giá quốc tế. Lao động dư thừa nhiều và tỷ lệ được đào tạo thấp. Ngành nghề, dịch vụ nông thôn kém phát triển, cơ cấu kinh tế chậm được đổi mới. Cơ sở vật chất và kỹ thuật còn yếu kém, chu'a đáp ứng yêu cầu của một nền nông nghiệp nông thôn tiên tiến. Các công trình thuỷ lợi mới huy động khoảng 70% công suất thiết kế. Nhiều diện tích vẫn chu'a đu'ợc tu'ới nhất là cây công nghiệp. Hệ thống đê kém an toàn. Việc nghiên cứu và áp dụng các giống cây, con mới có năng suất và chất lu'ợng vào sản xuất đại trà còn chậm. Giống lúa lai mới bảo đảm 10% nhu cầu. Giống cho nuôi trồng thuỷ sản chu'a giải quyết chủ động (trừ cá giống). Năng suất của cây trồng, vật nuôi nói chung còn thấp chỉ bằng 30-50% so các nu'ớc tiên tiến. Tổn thất khâu thu hoạch còn lớn trung bình của lúa là 13-16%, lúa hè thu ở ĐBSCL 18-20%, rau và quả trung bình 20%. Cơ cấu nông lâm ngư nghiệp chưa thoat khỏi tình trạng độc canh, tự túc,tự cấp, trình độ sản xuất hàng hoá còn thấp, tính chất quảng canh còn phổ biến và hiệu quả kém. Thu nhập chủ yếu của người dân đều có được từ cây Lúa và cây lương thực, nhiều loại cây rau quả là thế mạnh vùng nhiệt đới chưa được phát huy. Ba ngành nông - lâm - ngư nghiệp chưa có được sự gắn kết cần thiết trong một cơ cấu kinh tế thống nhất. Trong suốt một thời gian dài chúng ta tập trung sản xuất lương thực bằng bất cứ giá nào, ở mọi miền đất nước khiến cho rừng bị tàn phá nghiêm trọng làm cho suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên trầm trọng. Nhìn chung chúng ta chưa biết phối hợp sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp một cách thống nhất điều này dẫn tới sự lãng phí nhiều nguồn lực sẵn có. Cơ cấu nông -lâm - ngư nghiệp chưa gắn chặt với cơ cấu nông thôn. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp phát triển chủ yếu ở những vùng nông thôn rộng lớn và gắn chặt với kinh tế nông thôn. Nhưng kinh tế nông thôn không thể chỉ bao gồm có ngành nông - lâm - ngư nghiệp, mà phải bao gồm cả công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông liên lạc, thương mại - dịch vụ, tài chính - ngân hàng. Nhưng đời sống phần lớn vùng nông thôn mang nặng kinh tế nông nghiệp đơn thuần hoặc nông - lâm - ngư nghiệp. Chính sách kinh tế xã hội chưa thích hợp và đồng bộ đã gây ra nhiều trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ. Như chính sách đầu tư cho nông nghiệp chưa thoả đáng, cơ sở hạ tầng nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức nhất là thuỷ lợi, hệ thống tín dụng chưa tiếp cận được với người dân..v..v. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của đất nước ta. 2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp 2.1. Vị trí, đặc đIểm việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta: Ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy để phát triển kinh tế nhất thiết phải xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý, nhằm tận dụng và phát huy thế mạnh của đất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là một quá trình mang tính qui luật phổ biến ở tất cả các nước. Song, ở nước ta nó mang đặc điểm đó là: - Nước ta đang trong giai đọan đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu, trình độ trang bị kỹ thuật trong các ngành nhìn chung còn yếu kém, lao động thủ công còn phổ biến, chất lượng hàng hoá thấp, khả năng xuất khẩu bị hạn chế. - Việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ở nước ta cần đạt được tốc độ cao để góp phần phục vụ công nghiệp hoá theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó mới có thể giải quyết được các yêu cầu tiêu dùng ngày càng cao của dân cư, và từng bước đưa nước ta hoà nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp ở nước ta Ngành công nghiệp đã từng bước vu'ợt qua những khó khăn, thách thức và những đòi hỏi khắc nghiệt của thị trường, cố gắng vươn lên theo hướng đổi mới công nghệ, cơ cấu và tổ chức lại sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, làm ra nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Sau thời kỳ phát triển chậm và không ổn định 1986-1990 (tốc độ tăng bình quân 6,0%), ngành công nghiệp đã nhanh chóng vượt qua những thách thức của thị trường, thích nghi với cơ chế quản lý mới, dần dần khôi phục ổn định và tăng trưởng với tốc độ cao, đặc biệt là trong thời kỳ 1991 - 1995. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp 10 năm 1991 - 2000 đạt 13%/năm so với mục tiêu đề ra là 9,5% - 12,5%, trong đó, thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 dự kiến tăng 12,2%/năm. Công nghệ sản xuất của một số ngành sản xuất vật chất chủ yếu đã có những đổi mới, trình độ công nghệ được nâng lên một bước. Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị nên đã có bước tiến đáng kể, số lượng và chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân hàng năm 11,7% thời kỳ 1991-2000, trong đó thời kỳ 1991 - 1995 tăng bình quân 13,4%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 tăng bình quân 10%/năm. Công nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển trong những lĩnh vực mà Nhà nu'ớc không cấm với mọi quy mô và trên tất cả các địa bàn, nhưng tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Quốc doanh tăng bình quân 10 năm (1991-2000) là 9,15%/năm, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 10,6%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 7,7%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, vào việc nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của nền kinh tế. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,3%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 20,40%. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, không những đã thay thế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Kết quả sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chính như sau: Đơn vị tính Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu Mục tiêu chiến lu'ợc 5 năm do 1991 1995 2000 ĐH VIII đề ra Điện phát ra Tỷ Kwh 30 9,3 14,7 26 Dầu thô khai thác Tr.tấn 16 4 7,6 16,5-17 Khí Tr.m3 4000 1500 Than sạch Tr.tấn 10 5 7,7 10 Thép cán Tr.tấn 2 0,149 0,38 1,4 Phân lân các loại 1000tấn 1200 1020 Phân đạm 1000tấn 400-900 50 Vải lụa các loại Triệu m 800 280 221 400 Giấy các loại 1000tấn 300 109 204 300 Xi măng Tr. Tấn 18-20 3127 5854 11,5 Đường các loại 1000tấn 1000 372 593 1000 Nguồn điện tăng thêm MW 3000 1330 Các tỉnh có điện Tỉnh 61 61 Tỷ lệ huyện có điện % 100 100 Tỷ lệ xã có điện % 80 80 Dầu thô: Sản lu'ợng năm 1990 là 2,7 triệu tấn, dự kiến năm 2000 đạt 16,5 triệu tấn, gấp 6,1 lần so với năm 1990. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1995 đã đưa khí đồng hành vào bờ phục vụ phát điện với sản lượng năm 1999 ước đạt 1,2 tỷ m3 và năm 2000 dự kiến đạt 1,5 tỷ m3. Có thể nói dầu khí là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và đã trở thành một mũi nhọn trong chiến lược phát triển năng lượng của cả nước. Điện: Các công trình nguồn tăng nhanh, tổng công suất ngành điện đến 31/12/1998 là 4937 Mw, sản lượng điện phát ra năm 1999 tăng gấp 2,7 lần so với năm 1990 (năm 1990 là 8,79 tỷ Kwh, năm 1999 là 23,81 tỷ Kwh), dự kiến năm 2000 đạt sản lượng trên 26 tỷ Kwh. Với công suất và sản lượng điện như hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ và ổn định cho các nhu cầu của nền kinh tế. Các công trình lu'ới điện được đầu tư đồng bộ và bám sát các mục tiêu quan trọng phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng cũng như các mục tiêu xã hội. Đến năm 2000, có thể đạt được mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phường trên toàn quốc có điện. Ngành điện đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng làm tiền đề cho sản xuất và đời sống phát triển. Than: Từ mức 4,62 triệu tấn than sạch năm 1990, đã đạt sản lượng 11,3 triệu tấn năm 1998 (xuất khẩu gần 3,2 triệu tấn), và dự kiến 10 triệu tấn năm 2000 (xuất khẩu trên 3,5 triệu tấn). Do nhu cầu than trong nước không tăng, tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu (phần lớn là thị trường Nhật bản) có biến động nên từ năm 1999 chính phủ đã phải chủ động giảm sản lượng khai thác xuống còn khoảng 10 triệu tấn mỗi năm, trong đó dành để xuất khẩu 3,5 triệu tấn. Thép: từ 2 khu liên hợp luyện cán thép Thái Nguyên và Biên Hoà trước đây, chúng ta đã xây dựng được một ngành công nghiệp luyện cán thép khá phong phú bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn liên doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay... Đến nay, công suất thiết kế của ngành đạt khoảng 2 triệu tán thép cán; sản lượng thép thương phẩm năm 1999 là 1,22 triệu tấn và dự kiến năm 2000 đạt 1,4 triệu tấn. Sản lượng phôi thép tương ứng năm 1999 là 250.000 tấn (năm 1990 chỉ sản xuất 140.000 tấn thép thương phẩm và 100.000 tấn phôi thép). Nhìn chung, hiện nay ngành thép đã đảm đương được nhiệm vụ cung cấp đủ các loại thép xây dựng thông thường cho các nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. Xi măng: năm 1999 tổng công suất thiết kế các nhà máy xi măng đạt 18 triệu tấn, đến năm 2000 đạt khoảng 22 - 25 triệu tấn. Tuy vậy, do thị trường hạn hẹp nên sản lượng sản xuất năm 2000 dự kiến chỉ đạt trên dưới 11,5 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trong nu'ớc. Vải: Năm 1990 sản xuất 318 triệu mét, sau đó liên tục giảm sút đến năm 1995 còn 222 triệu mét, nhưng từ năm 1996 lại tăng dần, đến năm 1999 đạt 317 triệu mét, dự kiến năm 2000 đạt khoảng 400 triệu mét. Nhìn chung, công suất của ngành có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các loại vải thông thường và một phần các loại vải cao cấp. Giấy: Nếu nhu' năm 1990 cả nước chỉ sản xuất được 79 nghìn tấn giấy thì đến năm 1999, sản lượng đã tăng lên đến 338,2 nghìn tấn, dự kiến năm năm 2000 đạt mục tiêu đã đề ra là trên 300 ngàn tấn, gấp 3,80 lần so với sản lượng năm 1990. Ngoài những sản phẩm chính kể trên, trong 10 năm qua, đã đưa vào sản xuất hàng loạt những chủng loại sản phẩm mới mà trước đó chưa có như ti vi, ô tô, xe máy, máy tính và nhiều loại thiết bị điện tử khác. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế mở, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài... đã hình thành và xây dựng được nhiều ngành công nghiệp mới, góp phần đáng kể vào thay đổi diện mạo và vị thế của ngành công nghiệp Việt Nam không những ở thị trường nội địa mà cả trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng trong 10 năm qua: Từ chỗ chỉ xuất khẩu được 1,25 tỷ USD năm 1990 (năm 1991 giảm xuống chỉ còn gần 1 tỷ USD), giá trị xuất khẩu công nghiệp đã tăng lên tới 7,1 tỷ USD năm 1999, dự kiến 7,8 tỷ USD năm 2000, đạt tốc độ 20,1%/ năm. Cơ cấu xuất khẩu công nghiệp đã dịch chuyển nhanh theo hướng tăng dần tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (từ 30% năm 1991 lên 60,3% năm 2000), vốn có giá trị gia tăng cao và sử dụng nhiều lao động, giảm tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản và sản phẩm công nghiệp nặng (tỷ trọng giảm tương ứng từ 70% xuống 39,7%). Trong nội bộ ngành cơ cấu đóng góp trong thời kỳ 1991 – 2000 dược phản ánh thông qua bảng số liệu sau: Đơn vị: % 1995 2000 Toàn ngành  100 100 1. Công nghiệp khai thác  13,5 15 - Dầu khí  10,5 12 2. Công nghiệp chế tác  80,5 79 - Sản xuất thực phẩm  26,1 23,6 - SP phi kim loại 8,9 9,2 - Sản phẩm dệt  6 5,6 - Hoá chất  4,9 5,4 - SP da, giả da  3,4 4,7 - SP kim loại  3,3 2,6 - Điện tử, CNTT 3,0 3,8 3. Điện ga và nước  6 6 - Điện, ga 5,3 5,6 Nguyên nhân của sự chậm phát triển ngành công nghiệp đó là: - Chúng ta đã duy trì quá lâu một mô hình cơ cấu kinh tế công nghiệp tương đối hỗn tạp, chưa xác định rõ ràng ngành chủ yếu, mũi nhọn của đất nước. Điều đó làm hạn chế tốc độ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế mở, hạn chế quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, hạn chế việc hòa nhập vào tình hình kinh tế khu vực và thế giới. - Khi xem xét, phân tích và hoạch định chính sách cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ta chưa chú ý làm rõ các cơ cấu bổ xung như cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành hàng sản xuất, cơ cấu ngành hàng xuất khẩu nhìn chung chúng ta còn nặng về phân tích định tính mà ít chú trọng phân tích định lượng. Một xu hướng lành mạnh đáng quan tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là xu hướng biến đổi cơ cấu và phát triển các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên phân bổ vốn đầu tư và ưu tiên các điều kiện khác sang sử dụng các chính sách đòn bẩy, tăng cường liên kết kinh tế, cải thiện nội dung hoạt động của ngành và tăng quyền tự chủ của các doanh nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn hàng đầu cho sự phát triển. 3. Thực trạng cơ cấu ngành thương mại - dịch vụ 3.1. Vị trí, đặc điểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ: Thương mại là một ngành kinh tế có nhiệm vụ tổ chức lưu thông hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của sản xuất và dân cư trên thị trường nội địa và nhu cầu xuất khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, việc chuyển dịch cơ cấu thương mại và dịch vụ không chỉ mang ý nghĩa phát triển ngành Thương maị , mà còn tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành khác như công nghiệp và nông nghiệp . Cơ cấu thương mại và dịch vụ là một hệ thống đa cấu trúc, với nhiều mối quan hệ ràng buộc hữu cơ trong quá trình hoạt động của nó. Cơ cấu ngành về lĩnh vực kinh doanh về thực chất phản ánh cơ cấu và mối quan hệ cung cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường do cơ cấu sản xuất và cơ cấu nhu cầu quyết định. Nó tự hình thành và tự điều chỉnh thông qua trạng thái cân bằng động của mối quan hệ cung cầu. Tuy nhiên , cơ cáu thương mại và dịch vụ trên các địa bàn lãnh thổ còn có sự tham ghia của các nhân tố chủ quan và nó phản ánh trình độ tổ chức kinh tế xã hội trên các vùng lãnh thổ . Cũng như kết quả của chính sách và sự phân bố lực lượng sản xuất trên các địa bàn. Cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ hợp lí là một hệ cấu trúc đa phức ở trong trạng thái cân bằng động. Trên thế cân bằng đó, các mối quan hệ kinh tế được thực hiện một cách thuận lợi, thế mạnh của các vùng và các thành phần kinh tế được phát huy một cách tổng hợp. Những lợi thế về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ của đất nước và thời đại được khai thác triệt để, nhằm phục vụ dùng và tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo công bằng và dân chủ, xây dựng xã hội văn minh. Việc chuyển dịch cơ cấu thương mại dch vụ phải theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước, theo đó các quan hệ kinh tế được xây dựng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ Khoa học - Kỹ thuật vào sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá đất nước sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và dịch vụ, thông qua sự chuyển dịch các tầng lớp xã hội và kéo theo là sự tăng trưởng và biến đổi cơ cấu qui mô và nhu cầu tiêu dùng; thông qua việc mở rộng các nguồn vận động của hàng hoá, tiền vốn, lao động trong lưu thông, thông qua sự bố trí, tổ chức các thị trừơng trọng điểm ở thành phố, cửa khẩu, khu chế xuất, khu tự do thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. 3.2. Thực trạng cơ cấu của ngành thương mại - dịch vụ ở nước ta Các ngành dịch vụ đã phát triển ngày càng đa dạng, vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa phục vụ tốt đời sống, từng bước nâng cao chất lu'ợng phục vụ. Ngành thương nghiệp phát triển khá, bảo đảm ngày càng tốt hơn các cân đối lớn về vật tư hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, lương thực, đường... trong từng vùng và toàn quốc. Việc lưu thông vật tư hàng hoá từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu với sự tham gia của các thành phần kinh tế, làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng nhanh. Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng tạo nguồn hàng bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, thép, xi măng, phân bón, giấy viết, hoá chất, mở rộng mạng lưới trao đổi, mua bán hàng hoá với thị trường nông thôn, miền núi, đô thị. Tại các khu vực đô thị đã hình thành nhiều mô hình tổ chức kinh doanh văn minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn. Hệ thống chợ được hình thành và xây dựng mới ở cả thành thị, nông thôn và miền núi. Riêng đối với các vùng còn khó khăn, chúng ta vẫn duy trì cơ chế hỗ trợ, bù giá lưu thông cho những mặt hàng thiết yếu. Trong thời kỳ 1991-1995, tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân trên 30% năm. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 2000 đạt gấp 12,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35518.doc
Tài liệu liên quan