Lời mở đầu 1
I. Lý luận chung về bán lẻ: 1
1. Các khái niệm 2
1.1 Bán lẻ 2
1.1. Vai trò của bán lẻ 3
1.2 Thị trường bán lẻ 5
1.3 Doanh nghiệp bán lẻ và các yếu tố tác động đến doanh nghiệp bán lẻ 6
II- Thực trạng ngành bán lẻ Việt Nam hiện nay 6
1. Tổng quan về thị trường bán lẻ Việt Nam 6
2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành bán lẻ Việt Nam 8
2.1. Các yếu tố vĩ mô 8
2.1.1. Các yếu tố kinh tế 8
2.1.2. Các yếu tố chính trị pháp luật 10
2.1.3. Các yếu tố nhân khẩu học 11
2.2. Phân tích môi trường kinh doanh bán lẻ 12
2.2.1. Nhà cung cấp 13
2.2.2. Đối thủ tiềm ẩn 14
2.2.3. Khách hàng 16
2.2.4. Sản phẩm thay thế 17
2.2.5. Cạnh tranh nội bộ 18
2.3. Chìa khoá thành công 21
2.4. Thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 21
2.4.1. Những điểm mạnh của các doanh nghiệp bán 21
2.4.2. Những điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ 23
III. Định hướng phát triển cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay 26
1. Ma trận SWOT 26
2.1. Phương án chiến lược: mở rộng kênh phân phối để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng lớn. 27
2.2. Phương án chiến lược : Mở rộng kênh phân phối để đối phó với đối thủ cạnh tranh. 28
2.3. Phương án chiến lược : Nâng cao chất lượng con người để đáp ứng nhu cầu khách hàng. 29
2.4. Phương án: dựa trên sự hiểu biết về thói quen tiêu dùng và văn hóa địa phương nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh với đối thủ hiện tại. 30
3. Lựa chọn phương án chiến lược 30
3.2. Lý do lựa chọn phương án 30
3.3. Giải pháp : 31
3.3.1. Về phía doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. 31
3.3.2. Về phía nhà nước. 32
KẾT LUẬN 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng phát triển cho các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o, thi hiếu và thói quen về mua sắm của người Nam sẽ có nhiều thay đổi lớn. Đặc biệt là giới trẻ, đang đánh dấu ảnh hưởng của mình lên xu hướng tiêu dùng của cả xã hội- xu hướng tiêu dùng hiện đại.
Như vậy nhu cầu thị trường Việt Nam là rất lớn đối với các doanh nghiệp ngành bán lẻ, đây là thuân lợi mà các doanh nghiệp cần phải tận dụng.
2.2. Phân tích môi trường kinh doanh bán lẻ
Đối thủ tiềm ẩn
Khách hàng
Nhà cung cấp
Sản phẩm thay thế
Đối thủ hiện tại
Để phân tích môi trường kinh doanh bán lẻ nhóm nghiên cứu sử dụng công cụ phân tích là mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M.Porter ( giáo sư hàng đầu về chiến lược kinh doanh).
2.2.1. Nhà cung cấp
Nhà cung cấp ở đây bao gồm các nhà sản xuất trong nước và các nhà sản xuất ở nước ngoài ( hàng ngoại nhập )
Các nhà cung cấp trong nước: Hiện nay số lượng các nhà sản xuất trong nước là khá lớn đặc biệt là các nhà sản xuất sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên quy mô và chất lượng sản phẩm hàng hoá là chưa cao. Mới chỉ có rất ít các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì thế hiện nay xảy ra hiện tượng các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc đưa các sản phẩm của mình vào trong các giỏ hàng hoá của các siêu thị lớn, các trung tâm thương mại của nước ngoài như Metro, Big C…Ban đầu khi mà các đại gia này mới nhảy vào thị trường Việt Nam, họ dễ dàng chấp nhận các sản phẩm nội địa với những điều kiện dễ dàng, nhưng sau đó ngày một khó hơn. Ví dụ như đòi hỏi mức chiết khấu cao, thời hạn thanh toán dài, khắt khe hơn trong lựa chọn hàng…Khi Việt Nam thực hiện AFTA, mức thuế giảm mạnh, hệ thống phân phối nước ngoài có xu hướng nhập hàng từ các nước ASEAN nhiều hơn.Vì thế, nguy cơ hàng trong nước không thể chen chân vào các siêu thị nước ngoài là có thật. Với sức ép lớn như vậy các nhà sản xuất trong nước cần phải có cái nhìn tỉnh táo hơn trong hướng đi dài hạn của mình. Một giải pháp đặt ra là họ phải hợp tác với các nhà phân phối trong nước. Xét về mặt chiến lược, ai nắm hệ thống phân phối, người đó điều khiển sản xuất. Cho nên khi mà các nhà phân phối nước ngoài vào, họ có nhiều khả năng kéo theo các nhà sản xuất của nước họ theo. Những điều này nói lên rằng “tiếng nói” của các nhà cung cấp nội địa là không cao. Chính vì vậy sức ép của họ lên các nhà phân phối trong nước là không lớn. Bằng chứng là khi mà G7 Mart kêu gọi các nhà sản xuất trong nước hợp tác thì hầu hết nhận được sự đồng ý của họ, chỉ có duy nhất một công ty sản xuất sữa lớn của Việt Nam không bắt tay hợp tác mà thôi.
Các nhà cung ứng nước ngoài: Trong xu hướng chung là toàn cầu hoá, thị trường Việt Nam với 84 triệu dân, khả năng và mức độ tiêu dùng ngày càng cao, đang tạo nên một lực hút vô cùng lớn đối với hàng hoá nước ngoài. Và tất nhiên những hàng hóa nay muốn xâm nhâp vào thị trường Việt Nam phải thông qua hệ thống phân phối đã có mặt tại Việt Nam hiện nay hoặc chuẩn bị thâm nhập. Họ có quyền lựa chọn nhà phân phối cho mình với ưu thế là hàng hoá chất lượng cao, bảo đảm hơn cho người tiêu dùng. Nhưng như đã nói ở trên “phân phối điều khiển sản xuất” thì lợi thế tương đối của họ so với nhà phân phối là không lớn. Có thể với các nhà phân phối của Việt Nam thì họ sẽ có tiếng nói hơn một chút nhưng cuộc chiến trong lĩnh vực phân phối hiện đại vẫn chưa ngã ngũ thì áp lực từ nhà cung ứng nước ngoài lên các nhà phân phối trong nước vẫn còn yếu ớt. Hiện tại với sự đa dạng về chủng loại mẫu mã hàng hoá như hiện nay thì “nhà cung ứng vẫn cần nhà phân phối hơn”
Về nhà cung ứng chúng ta đánh giá thêm một áp lực nữa, đó là áp lực đến từ các nhà cung ứng cơ sở vật chất hạ tầng. Giá cho thuê các cơ sở kinh doanh của Việt Nam được đánh giá là khá rẻ và linh động, Hiện giá cho thuê tại Việt Nam ở mức trung bình 30 USD/m2/tháng ( có thể dao động từ 9-140 USD/m2/tháng), thấp hơn nhiều so với các trung tâm kinh tế trong khu vực như Bắc Kinh, Hồng Kông, Thượng Hải, Singapore, Đài Loan hay Thái Lan và chỉ cao hơn Philippines , Ấn Độ và Indonesia…Nhưng nhu cầu thuê thì lại quá lớn, cung không đáp ứng nổi cầu (nhiều trung tâm thương mại đang được xây dựng để cho thuê lại nhưng vẫn không đủ). Điều này gây áp lực lớn đến các nhà phân phối bởi nếu tự xây dựng mới địa điểm kinh doanh đòi hỏi chi phí rất lớn, chi phí dành cho các khoản khác sẽ bị hạn chế, không tạo ra được lợi thế cạnh tranh. Để tránh áp lực này, một số nhà bán lẻ như G7 mart đã chọn giải pháp liên kết cải tạo các cửa hàng bán lẻ đủ tiêu chuẩn để tạo nên một chuỗi các cửa hàng khổng lồ.
Như vậy đánh giá chung áp lực từ phía nhà cung cấp là trung bình và không thực sự đáng lo ngại với các nhà bán lẻ Việt Nam hiện tại
2.2.2. Đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là những doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng trong tương lai có thể tham gia trong ngành. Càng nhiều hãng mới gia nhập ngành, các doanh nghiệp sẽ càng gặp khó khăn trong việc nắm giữ thị phần và tạo lợi nhuận. Do đó mức độ nguy hiểm từ sự gia nhập của đối thủ tiềm ẩn càng cao, mối đe doạ tới lợi ích của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, thông tin về các đối thủ tiềm ẩn đặc biệt quan trọng khi doanh nghiệp hoạch định chiến lược.
Hiện trong ngành xuất hiện những đối thủ tiềm ẩn đó là các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài như: Wal-mart, carrefour, Tesco….Bên cạnh đó có những đối thủ tiềm ẩn ở trong nước như FPT…
Có thể đánh giá chung về các đối thủ tiềm ẩn đến từ nước ngoài như sau: Đây là các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia. Họ có tiềm lực mạnh về tài chính, thương hiệu, phương pháp quản lý và bán hàng tốt, có kinh nghiệm trong việc đầu tư ra nước ngoài.
Để có thể đánh giá đầy đủ và toàn diện áp lực từ phía đối thủ tiềm ẩn chúng ta đánh giá trên 3 phương diện:
Sức hấp dẫn của ngành ( sức hấp dẫn càng lớn thì áp lực càng cao )
Việt Nam là thị trường hấp dẫn thứ 3 trên thế giới! Tại sao lại có thể đánh giá được như vậy? Qua việc tham khảo ý kiến và tìm hiều chúng tôi đưa ra 5 lý do để thấy rằng thị trường bán lẻ VN hiện nay là rất hấp dẫn
+ Thứ nhất: Với dân số 84 triệu người, nhu cầu tiêu dùng của người dân VN là rất lớn.
+ Thứ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN trong những năm vừa qua là cực kỳ ấn tượng ( bảng 1- tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2001-2006 ). Điều này hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho nền kinh tế Việt Nam và cho thị trường bán lẻ Việt Nam
+ Thứ 3: Hệ thống bán lẻ hiện đại tại Việt Nam mới chỉ chiếm 10% tổng doanh thi ngành bán lẻ. Cả một mảng thị trường rộng lớn ( 90% còn lại ) đang chờ đón sự “xâm lược” của hệ thống kênh phân phối hiện đại
+ Thứ 4: Kết quả hoạt động của những “người đi trước” là Metro Cash and Carry, Big C… được đánh giá là tốt và rất thành công. Các đại gia khác có cơ sở để mà yên tâm đi theo con đường của họ và “áp dụng đại trà” tại thị trường béo bở này
+Thứ 5: Hệ thống bán lẻ nội địa còn manh mún, nhiều bất cập, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Đây là thời điểm tốt để các “đối thủ tiềm ẩn” nhảy vào nhập cuộc mà không phải sợ sự phản kháng quá mạnh mẽ từ các đối thủ trong ngành Đó chính là những yếu tố hấp dẫn nhất đối với bất kỳ nhà đầu tư nào muốn nhảy vào thị trường bán lẻ Việt Nam hiện nay. “ Khoảnh khắc vàng” của thị trường bán lẻ Việt Nam đã điểm, cơ hội này chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn ( khoảng từ 5-10 năm) và chắc chắn các “đại gia bán lẻ” sẽ không bỏ lỡ thời cơ này.
Rào cản gia nhập ngành: ( rào cản càng thấp thì áp lực càng cao)
Trong 4 yếu tố : kỹ thuật và bí quyết công nghệ, thương mại, tài chính, nguồn lực khan hiếm thì tài chính là yếu tố có tính chất quyết định một doanh nghiệp có thể tham gia vào thị trường này hay không. Ngành bán lẻ hiện đại là một ngành đặc trưng, không phải ai cũng có thể tham gia vào thị trường này. Nó đòi hỏi một lượng vốn đầu tư khá lớn. Nói như vậy nhưng theo chúng tôi với các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia thì đó không phải là một trở ngại lớn. Bên cạnh đó yếu tố thương mại cũng lại là một điểm mạnh của họ. Với thương hiệu nổi tiếng, uy tín lâu năm và thị phần lớn trên trường quốc tế, họ có đủ tự tin để đầu tư tại bất kỳ đâu. Như vậy, rào cản gia nhập ngành là không cao lắm.
Sự phản kháng của các doanh nghiệp trong ngành: Sài Gòn co-op mart, G7 mart … trong thời gian gần đây và hiện tại vẫn đang ráo riết triển khai kế hoạch mở rộng hệ thống phân phối của mình. Đây chính là những bước đi cần thiết để các doanh nghiệp bán lẻ trong nước tạo ra lợi thế trước khi các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới xâm nhập thị trường Việt Nam. Theo ông Đặng Lê Nguyên Vũ - chủ tịch hội đồng quản trị của G7 mart , G7 mart sẽ là đối trọng của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Điều này cho thấy sự phản kháng của các doanh nghiệp trong ngành là rất quyết liệt trước động thái gia nhập ngành của các đối thủ tiềm ẩn. Liên hệ với Trung Quốc hay Hàn Quốc, những nước đã từng trải qua thời kỳ giống như thời điểm hiện tại của Việt Nam, các nhà bán lẻ của họ cũng đã phản ứng quyết liệt với sự tham gia của các đại gia nước ngoài. Ở Hàn Quốc, Wal-mart đã từng thất bại và họ có tiếp tục thất bại ở Việt Nam? Câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ. Chỉ có một điều chắc chắn, các nhà bán lẻ Việt Nam sẽ không dễ dàng chịu lép vế trước các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.
Như vậy đánh giá chung về áp lực đến từ phía đối thủ tiềm ẩn là rất cao. Nó là mối đe dộa thực sự đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, không phải trong tương lai xa mà ở tương lai gần. Rất gần !
2.2.3. Khách hàng
Với hệ thống siêu thị và các trung tâm thương mại, khách hàng họ hướng tới là những người tiêu dùng cuối cùng. Cùng với sự phát triển của xã hội, thì thói quen tiêu dùng của người dân cũng thay đổi, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh nên việc đi mua sắm ở các trung tâm thương mại và siêu thị trở thành thói quen. Đối với những người có thu nhập cao thì việc mua sắm ở các siêu thị trở nên tiện dụng hơn vì ở các siêu thị hàng hoá rất nhiều chủng loại đựơc bày bán đẹp mắt, mua hàng tự chọn theo sở thích mà không bị ai làm phiền, một cái tiện lợi đặc biệt là mua hàng ở đây không phải trả giá… Nhưng với những người có thu nhập thấp thì việc mua hàng ở các siêu thị hay trung tâm thương mại vẫn còn một vấn đề rất xa lạ với họ, nếu có vào thì cũng chỉ là đi xem cho biết mà thôi. Bởi vì giá hàng hoá ở các siêu thị trung tâm thương mại được đánh giá là cao hơn bên ngoài từ 10 đến 40%. Có thể nói khách hàng của hệ thống phân phối hiện đại chủ yếu vẫn là người co thu nhập tương đối cao.
Với hệ thống các siêu thị và trung tâm thương mại mọc lên ngày càng nhiều bên cạnh đó hệ thống phân phối truyền thống đã được dự báo là sẽ bị lấn át nhưng nó vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo nên việc lựa chọn các địa điểm mua hàng của người tiêu dùng là rất nhiều. Tuy xu hướng tiêu dùng đã có sự thay đổi theo hướng hiện đại nhưng người dân vẫn còn thói quen mua hàng ở chợ, hàng rong và rất nhiều người còn thấy thích thú khi mua hàng được trả giá mặc dù không rẻ hơn so với trong siêu thị. Cùng với đà phát triển của đất nước, đời sông nhân dân ngày càng nâng cao khiến người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, yếu tố dinh dưỡng…Vì vậy đây là điều mà các doanh nghiệp bán lẻ cần quan tâm.
Khách hàng chủ yếu là những cá nhân, mua hàng với số lượng nhỏ, đến các siêu thị họ là người chấp nhận giá và so với quy mô tương đối của các siêu thị là rất nhỏ. Người tiêu dùng hiện nay đã có nhưng sự hiểu biết nhất định, và cũng đã có hội bảo vệ người tiêu dùng nhưng họ không thể liên kết lại với nhau để tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp. Vì khách hàng là người mua đơn lẻ nên chi phí chuyển đổi khách hàng gần như là không có.
Như vậy ta có thể thấy rằng khách hàng hay người tiêu dùng cuối cùng gây sức ép không đáng kể tới các doanh nghiệp trong hệ thống phân phối hiện đại. Tuy vậy trong thời gian tới khi đời sống được nâng cao hơn cùng với xu thế hội nhập cần chú ý tới khách hàng bởi vì lúc đó khách hàng sẽ quyết định tới sự thành công của từng doanh nghiệp.
2.2.4. Sản phẩm thay thế
Các doanh nghiệp bán lẻ việt Nam tổ chức phân phối hàng hoá theo hình thức kênh phân phối hiện đại với các hệ thồng: Siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, khu thương mại- dịch vụ…Do đó sản phẩm thay thế của các doanh nghiệp bán lẻ ở đây chính là kênh phân phối truyền thống với hình thức là :Các chợ, cửa hàng thực phẩm, mgười bán dạo… Ở việt Nam hiện nay kênh phân phối truyền thống chiếm một tỉ lệ rất lớn là 90% trong tổng sản lượng bán lẻ cả nước, trong khi đó kênh phân phối hiện đại mới chỉ chiếm có 10%. Do đó hàng hoá được phân phối chủ yếu là qua kênh phân phối truyền thống.
Theo khảo sát mới đây của vụ chính sách thị trường trong nước của Bộ Thương Mại cho thấy: Tỉ lệ các chợ truyền thống đang hoạt động có hiệu quả vẫn chiếm tới 97,7%. Tuy phải cạnh tranh với nhiều loại hình phân phối hiện đại nhưng trong thời gian qua số lượng chợ truyền thống được xây dựng hoặc cải tạo tiếp tục tăng nhanh với sự đa dạng về loại hình và cấp độ. Hàng bán qua siêu thị mới chỉ chiếm 10% so với 40% qua các chợ và 44% qua các cửa hàng truyền thống. Bên cạnh đó theo số liệu điều tra thăm dò ý kiến người tiêu dùng thì có tới 90% các bà nội trợ Việt Nam vẫn mua đồ ở các chợ truyền thống. Như vậy ta thấy kênh phân phối truyền thống vẫn giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống bán lẻ. Do tác động của những yếu tố: Thói quen mua sắm, điều kiện về thu nhập của người dân còn thấp, sự chênh lệch về mức giá giữa hàng hoá được cung cấp bởi kênh phân phối hiện đại và kênh truyền thống, chình vì thế mà nó gây ra áp lực khá lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ.
Tuy nhiên trong xu hướng phát triển hiện nay thì áp lực này có xu hướng giảm dần. Cơ sở để ta có đánh giá trên là do xu hướng phát triển của hệ thống bán lẻ khi các điều kiến sống ngày càng được nâng cao và trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Cùng với mức thu nhập tăng cao của người dân thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cũng không ngừng biến đổi. Người ta nhu cầu hàng hoá chất luợng cao hơn với các dịch vụ khác đi kèm, vì thế nên kênh phân phối hiện đại được đông đảo người tiêu dùng đón nhận. Bên cạnh đó để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài thì việc cải tạo và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam là tất yếu, hình thức phân phối truyền thống sẽ được hiện đại dần, điều đó được thể hiện: Trong thời gian qua tốc độ đầu tư của các tập đoàn bán lẻ và kinh doanh siêu thị không ngừng gia tăng (Điển hình như: sự đột phá của G7mart với hơn 500 cửa hàng tiện ích, 70 trung tâm phân phối và 9.500 cửa hàng thành viên chính thức đi vào hoạt động; Sài gon Co.op “lên đời “ 20 cửa hàng tiên nghi hiện đại ; Citimart của Đông Hưng cũng gấp rút ra mắt 10 cửa hàng tiện nghi len lỏi tại các khu chung cư cao cấp…) bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng ngành 30%/năm cho thấy một tiềm năng rất lớn trong lĩnh vực này. Trên thực tế số lượng các cửa hàng ở TPHCM và Hà Nội ở kênh phân phối truyền thống đang giảm từ 45.346 cửa hàng xuống còn 44.638 cửa hàng là một minh chứng cho xu hướng biến đổi mới . Như vậy con số chênh lệch theo ti lệ 9:1 sẽ nhanh chóng bị thay đổi theo hướng tăng tỉ trọng của kênh phân phối hiện đại và giảm tỉ trọng của kênh phân phối truỳên thống.
2.2.5. Cạnh tranh nội bộ
Trên thị trường bán lẻ Việt Nam các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư trong nước như: Coopmart (Liên hiệp HTX thương mại TP.HCM) với hệ thông gần 20 siêu thị, là nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Tập đoàn Phú Thái; Hệ thống cửa hàng G7mart (của Trung Nguyên); Hệ thống của hàng tiện lợi V-mart (của vinamilk); Hapro mart (Tổng công ty thương mại Hà Nội); Satra( Tổng công ty thương mại Sài Gòn) . Và các tập đoàn bán lẻ của nước ngoài như: Metro Cash&Carry, Big C…
Để đánh giá áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành chúng ta xem xét trên các khía cạnh như: Đặc điểm cầu của ngành, về cấu trúc ngành, và về rào cản rút lui khỏi ngành.
Trước hết: trên thị trường bán lẻ hiện nay và nội bộ các nhà bán lẻ trong nước nói riêng thì áp lực cạnh tranh đang ngày càng cao, khi các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Theo Trung Nguyên thì yếu tố quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh là yếu tố con người. Vì vậy hệ thống G7mart với 500 điểm bán lẻ tiện lợi và 5000 cửa hiệu thành viên mang tên G7 trên cả nước. Tất cả chủ nhân các cửa hiệu đều được chuyển giao công nghệ quản lý, tiếp thị quảng cáo và đào tạo. Tiếp theo trong giai đoạn 2 sẽ xây dựng các trung tâm thương mại tổng hợp, các siêu thị và đại siêu thị cuối cùng sẽ xây dựng các khu trung tâm thương mại Việt Nam tai nước ngoài – Viettown nhằm quảng bá sản phẩm và hình ảnh đất nước Việt Nam ra thế giới.
Với Coopmart họ thực hiện nhiều chiến lược để thu hút khách hàng, khẳng định thương hiệu, đánh giá cao vai trò của nhà cung cấp, đặc biệt quan tâm dịch vụ hậu mãi. Theo thông tin từ Coopmart thì công ty đang đầu tư để mở rộng hệ thống ra các tỉnh đặc biệt đầu tư 1.5 triệu USD cho hệ thống quản lý bằng công nghệ thông tin.
Về phía Satra, công ty đầu tư 1200 tỷ đồng cho hệ thống phân phối, liên kết với các tỉnh để mở rộng hệ thống một cách vững chắc.
Còn tập đoàn Phú Thái đang thực hiện tăng tốc đầu tư để tăng sức mạnh phân phối của mình và một trong những chương trình hành động đó là việc đầu tư cho hệ thống phần mềm quản lý phân phối.
Về phía cầu của ngành: Với tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ khoảng 30%/năm và thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, xu hướng tiêu dùng hiện đại đang phát triển. Và thị trường bán lẻ Việt Nam đang là thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Nga. Cũng theo nghiên cứu của AT Kearney mỗi thị trường có một giai đoạn nhất định được xem là cơ hội tốt để tham gia thường diễn ra từ 5-10 năm và Việt Nam đang chuẩn bị tiến vào chu kỳ cực thịnh. Bên cạnh đó còn phải thấy được ngành bán lẻ hiện đại Việt Nam là một ngành non trẻ khi mà siêu thị là gần như không tồn tại vào năm 1990 đến năm 1994 đánh dấu khai trương siêu thị đầu tiên tại Việt Nam. Thì đến đầu những năm 2000 kênh phân phối hiện đại vươn lên chiếm tỷ trọng 10% thị trường bán lẻ. Tiếp theo là doanh thu bán lẻ tăng mạnh trong năm 2004 ( tăng 13% so với năm 2003). Điều đó khẳng định thị trường bán lẻ Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng. Vì vậy mà nó làm giảm áp lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành nói chung và các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam nói chung.
Về cấu trúc của ngành: Do sức hút của thị trường bán lẻ Việt Nam không chỉ những nhà phân phối trong nước đầu tư mạnh mẽ mà các nhà phân phối nước ngoài cũng xuất hiện ngày càng nhiều với những hình thức khác nhau. Đó là sự xâm nhập của Metro cash&carry (với 8 trung tâm phân phối trên cả nước) là một trong hai tập đoàn đầu tiên có mặt tại Việt Nam, hay tập đoàn Bourbon (Big C), Park son…Như vậy có thể nói ngành bán lẻ Việt Nam có cấu trúc phi tập trung vì thế mà áp lực cạnh tranh trong ngành giảm đi. Mặt khác sự xuất hiện của các tập đoàn nước ngoài với tiềm lực về tài chính, trình độ quản lý, kinh nghiệm. Thực sự là một nỗi lo với các doanh nghiệp trong nước với sự hạn chế về vốn, trình độ quản lý, hậu cần, tính chuyên nghiệp. Chính vì thế mà xu hướng liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước ngày càng nhiều nhằm tạo ra một đối trọng để cạnh tranh thành công với các doanh nghiệp nước ngoài. Như sự liên kết giữa Saigon Coop ( Liên hiệp HTX thương mại TP.HCM) với Satra (Tổng công ty thương mại Sài Gòn) hay liên kết giữa Saigon Coop với tập đoàn Phú Thái. Chính vì vậy mà nó làm giảm đi áp lực cạnh tranh trong nội bộ các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam.
Về rào cản rút lui khỏi ngành: Đó chính là những yếu tố đặc thù của ngành gây ra khó khăn cho những doanh nghiệp muốn rút lui khỏi ngành như: Về tài chính, về công nghệ, về cam kết với người lao động, cam kết với chính phủ, hay những mối quan hệ mang tính chiến lược.Trong ngành bán lẻ thì rào cản lớn nhất phải kể đến là rào cản về vốn. Vốn đầu tư cho các cửa hàng tiện lợi hay đầu tư cho siêu thì hoặc trung tâm thương mại là rất lớn. Ví dụ để mở một cửa hàng tiện lợi Best & Buy như citimart cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của một gia đình đòi hỏi vốn đầu tư 3-4 tỷ đồng. Đặc biệt là không dễ để kiếm những mặt bằng rộng 5000-10.000 m2 trong nội thành để kinh doanh siêu thị, chưa kể vốn đầu tư ban đầu đã lên tới 50-60 tỷ đồng. Hay với mô hình chuỗi cửa hàng G7 mart của Trung Nguyên, công ty đã hỗ trợ cho mỗi cửa hàng từ 50-200 triệu đồng cho việc nâng cấp, sửa chữa và trang bị quầy kệ bán hàng.
Như vậy áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ của Việt Nam ngày càng tăng khi các doanh nghiệp đang không ngừng gia tăng năng lực cạnh tranh của mình. Và với rào cản rút lui lớn thì làm cho áp lực cạnh tranh trong ngành ngày càng cao. Nhưng do đặc điểm của ngành là ngành phi tập trung, cùng với xu hướng liên kết trong các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam ngày càng tăng, lại làm cho áp lực cạnh tranh trong ngành giảm đi. Vì thế có thể khẳng định là áp lực cạnh tranh trong nội bộ các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam là không lớn.
Sơ đồ4: Sơ đồ mạng nhện biểu diễn 5 áp lực cạnh tranh
Đối thủ hiện tại
Sản phẩm thay thế
Đối thủ tiềm ẩn
Nhà cung cấp
Khách hàng
8
7
4
8
5
2.3. Chìa khoá thành công
Từ những phân tích ở trên, ta nhận thấy để thành công thì các doanh nghiệp bán lẻ cần có một trong các yếu tố sau:
Giá
Quy mô
Sự tiện lợi
Vốn
Tính chuyên nghiệp
2.4. Thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
2.4.1. Những điểm mạnh của các doanh nghiệp bán
Các doanh nghiệp kinh doanh thị trương bán lẻ trong nước có rất nhiều thuận lợi, những thuận lợi này chính là cơ sở để các doanh nghiệp trong nước có thể dựa vào nó nâng cao sức cạnh tranh của mình trước những đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước, đã và đang chuẩn bị nhảy vào thị trường bán lẻ đầy tiềm năng như Việt Nam. những thuận lợi của doanh nghiệp Việt Nam thể hiện trong chính bản thân doanh nghiệp, những gì mà doanh nghiệp đã đạt được trong quá trình hình thành và phát triển của mình:
Thương hiệu: do hình thành sớm các doanh nghiệp những nhà cung cấp trong nước đã tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong thị trương bán lẻ, tạo được rất nhiều sự tin tưởng của người tiêu dùng nội địa như Saigon co.op mark, công ty Phú Thái, fivimark… hay như doanh nghiệp mặc dù mới nhảy vào thị trường trong vòng chưa đầy một năm cũng đã giành được rất nhiều thành công như Hapro_mark, G7 mark….những thương hiệu mà khi nói tới ai cũng có nhận ra họ, qua quãng đường rất dài trong hoạt động kinh doanh của mình họ vẫn luôn được khách hàng đặt niềm tin của khách hàng. So với các hãng mới của nước ngoài vào những thương hiệu này còn rất lạ lẫm với người tiêu dùng họ cần có thời gian để quảng cáo thương Thương hiệu của mình thì các doanh nhiệp nội địa sẽ có rất nhiều ưu thế về mặt thời gian và chi phí.
Sự am hiểu về văn hóa, thị hiếu và thói quen tiêu dùng của khách hàng trong nước: có thể nói đây là lợi thế quan trọng nhất và là lợi thế số một của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa cần tận dụng nó để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà các doanh nghiệp còn rất thiếu thốn và gặp nhiều khó khăn khi phải đương đấu với những đối thủ nổi tiếng nước ngoài với nhiều lợi thế về mọi mặt. Mặt khác sự am hiểu này chỉ có người việt nam với những cách suy nghĩ Việt Nam mới có thể hiểu hết được, yếu tố mà các doanh nghiệp nước ngoài khi xâm nhập vào thị trường Việt Nam ko thể có được. các doanh nghiệp lớn trong phưong châm hành động cuả mình họ đều khẳng định: Hapro: “chúng tôi có thế mạnh mà các đại gia quốc tế không có. Như mặt bằng kinh doanh, đặc biệt là thói quen và tâm lý của người tiêu dùng” hay như lãnh đạo công ty Phú Thái cũng tin tưởng rằng: với lợi thế trên sân nhà, am hiểu thị trường tập quán mua sắm của người dân,trong thời gian tới họ sẽ đẩy mạnh hệ thống phân phối của mình trên toàn quốc. Lợi thế này cũng là bài học kinh nghiệm được rút ra từ thị trường bán lẻ của Hàn Quốc trong quá trình cạnh tranh với các đối thủ lớn nhất thế giới như wal-mark. Khác với phong cánh sống của người Châu Âu, Châu Mỹ (các nước phương tây) phong tục, tập quán trong sinh hoạt và mua sắm của người Châu Á rất khác, họ muốn được tận tay sở vào chọn lựa một cách cẩn thận món hàng mình cần mua xem chúng có hợp ý mính hay không? Rồi xem xét so sánh các mặt hàng …khác hẳn với các nước phương tây do đó nếu không nắm bắt được điểm này các doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng phạm lỗi trong kinh doanh
Tuy qui mô của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn nhiều hạn chế xong chính nó cũng là một điểm thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong việc thay đổi chiến lược kế hoạch kinh doanh phù hợp với tình hình mới của thị trường, biến động thị trường hay nói cách khác đó chính là khả năng xoay chuyển kế hoạch nhanh.
2.4.2. Những điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ
Các doanh nghiệp bán lẻ hiện nay còn mang nhiều điểm yếu chúng ta có thể thấy như: Điểm yếu về vốn, điểm yếu về hậu cần và điểm yếu về con người. Điều này gây lên những cản trở cho các doanh nghiệp trên con đường phát triển.
Điểm yếu về vốn
Với hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, vấn đề vốn là một trong các vấn đề khó khăn hàng đầu. Trong xu thế hiện nay, khi các tập đoàn bán lẻ quốc tế đang bị cuốn theo hấp lực của thị trường bán lẻ Việt N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0592.doc