Đề tài Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời gian qua

Nước ta, cũng giống như các nước XHCN trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoà tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao hàm toàn bộ khu vực kinh tế quốc dân làm mục tiêu do cải cách và xây dựng CNXH. Vì vậy khu vực kinh tế nhà nước đã đựơc phát triển nhanh chóng, rộng khắp trên tất cả lĩnh vực cơ bản với tỉ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại. Trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các DNNN do cấp địa phương quản lí. Theo số liệu thống kê đến ngày 1-1-1990 cả nước có 12084 DNNN, trong đó có 1695 DN do trung ương quản lí. Khu vực kinh tế nhà nước có số vốn trị giá khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, khoảng 70 % tổng giá trị tài sản xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân khoảng 23%-30%. Trong một vài năm gần đây, phần của kinh tế nhà nước tăng lên nhanh là do bán bản quyền thăm dò và khai thác dầu

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rả dần. Việc tạo điều kiện cho người làm công tham gia sở hữu nhằm nhiều mục đích, trong đó có việc ngăn cản người làm công chống đối quá trình cổ phần hoá. Thứ hai, dù dưới hình thức nào thì nhà nước vẩn phải nắm giữ một số vốn đủ sức điều tiết, khống chế nền kinh tế củng như chính trị và mục tiêu khác. kinh nghiệm trên thế giới chưa có một nước nào tư nhân hoá hoàn toàn mặc dù chế độ chính trị phục vụ tư bản tư nhân. nước ta, nhà nước cần phải nắm giữ tỷ lệ khống chế định hướng nền kinh tế nhiều thành phần theo quỷ đạo XHCN. Khuyến khích thành lập các xí nghiệpliên doanh với nước ngoài dưới hình thức công ty cổ phần. để khuyến khích nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cần giảm bớt thủ tục phiền hà tropng việc xét duyệt, thẩm định dự án và triển khai dự án liên doanh. trình độ xã hội hoá thấp do đó việc biến các công ty vừa và nhỏ thành các công ty cổ phần là quá trình từ từ, thận trọng tránh sự chủ quan nóng vội như phong trào hợp tác hoá trước kia. Bởi vì thực trạng DN vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế. Các DN nhỏ thiếu vốn 47,9%, thiếu thị trường tiêu thụ 44,4% tương tự với các DN vừa là 69,5% và 27,1%. Trình độ kỷ thuật công nghệ rất thấp gần 50% số DN nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay, 15,5% sử dụng công cụ nửa cơ khí, hơn 35,5% sử dụng công cụ về điện. Trình độ cán bộ quản lý DN nhỏ có bằng cấp chưa nhiều. ở Hải Hưng có tới 69,5%chủ DN có kiến thức quản lý bằng kinh nghiệm, 13,9% chủ DN không biết về luật công ty và luật DN tư nhân, 61,1% chủ DN không biết về luật đầu tư, 11,1% chủ DN không biết về luật thuế, 50% không biết về luật môi trường… Hầu hết các DN nhỏ ít được nhà nước hổ trợ đào tạo tay nghề và kỉ năng quản lý DN. do vậy trình độ và kỷ thuật tay nghề thấp so với mặt bằng xã hội. Thực tế nêu trên cho phép ta khẳng định, con đường hình thành công ty cổ phần bằng cách liên kết các DN vừa và nhỏ phải có thời gian, phải dựa trên sự phát triển chín muồi của các điều kiện kinh tế – xã hội, pháp luật khác…Trước mắt các DN vừa và nhỏ có thể làm vệ tinh cho các DN lớn dưới các hình thức cung cấp nguyên liệu gia công chi tiết… để dần hình thành các mối liên hệ kinh tế chặt chẻ hơn tạo điều kiện cho việc hình thành công ty cổ phần. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa với nước ngoài trong mối quan hệ bình đẳng với các nưóc trên thế giới, nên chăng từng bước chúng ta thành lập các tập đoàn kinh tế mạng xuyên quốc gia mà nòng cốt là các công ty cổ phần lớn có chi nhánh trên toàn lảnh thổ, vừa sản xuất vừa xuất khẩu để cạnh tranh với các tập đoàn bên ngoài và dần dần mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh ra nước ngoài. để làm được điều này cần có sự giúp đỡ tích cực của nhà nước về vốn kỷ thuật cán bộ, môi trường pháp lý, thông tin. Chuyển nền kinh tế sở hữu thuần tuý đơn nhất sang nền kinh tế đa thành phần sở hữu hỗn hợp thì công ty cổ phần là một trong những hình thức tương đói phù hợpvới xu thế phát triển về kinh tế của nước ta trong tương lai. CPH con đường tất yếu nhưng không êm ả. Nền kinh tế nhiều thành phần bản chất đã chứa nhiều yếu tố cạnh tranh, mà trong cuộc cạnh tranh này DNNN luôn ở vào thế bất lợi đó là bộ máy cồng kềnh cơ chế quản lý lắm tầng nấc xung quanh, tuy nhiên vẩn còn nhiều lợi thế, vốn nhà nước để lại thấp, mối quan hệ giữa con người con người còn để lại bản chất của chế độ XHCN, không có bóc lột, không có đánh đập cúp lương. Như chúng ta đã thấy trong các liên doanh với nước ngoài bình đẳng trong lao động . Các thành phần kinh tế được phát huy, tất yếu dẫn đến hình thức đa dạng hoá sở hữu; Nếu để cho nó tự phát điều tiết thì đến một lúc nào đó các DN XHCN sẻ tự “đào thải” bởi sự vươn lên của các thành phần kinh tế chiến lỉnh thị trường như là quy luật tất yếu của nền sản xuất hành hoá. Cho đến nay gần 6.000 DNNN phần lớn hoạt động trong tình trạng thiếu vốn, thiếu thị trường chưa tìm được lối thoát. sự nhận biết những chuyển đổi khách quancủa các DN ngay từ năm 1992 chính phủ đã CPH thí điểm ở 10 DN và năm 1996 chính phủ đã có nghị định 28/cp về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. đây là chiến lược lớn để huy động vốn, chuyển dần quyền sở hữu cho người lao động góp phần chống tham nhủng lảng phí, tạo nên phương thức quản lý sáng tạo nhanh nhạy và hiệu quả trong cơ chế thị trường. Nó không phải là tư nhân hoá như đang tiến hành ở các nước đông âu mà là đảm bảo quyền làm chủ thực sự của người lao động dưới hình thức góp cổ phần mua cổ phiếu và được nhà nước để lại một phần trong các quỷ làm vốn cổ phần. Đến nay mới có 10 DN chuyển thành công ty cổ phần. Về hiệu quả không ai nghi ngờ, thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt, tài sản được bổ sung, ai củng quan tâm đến sản xuất. ở khách sạn Sài Gòn từ sau ngày công ty cổ phần ra đời đời sống của người lao động tăng gấp 3-4 lần trước đây, bình quân lương tư 1,7-3,5 triệu đồng/tháng; của Gemadep bình quân 2,4 triệu đồng/tháng, cổ phiếu giá trị thực gấp 2,3 lần so với giá trị ban đầu. Cái lợi của CPH ai củng thấy song bước tiến hành của nó còn quá chậm chạp, thậm chí có nơi còn chưa “mặn mà” với chủ trương lần này ngay cả trong ngành du lịch bởi những nguyên nhân sau: Người lao động quá quen với lối làm ăn củ, bằng lòng với mức thu nhập 300.000- 500.000/tháng mà không thấy là sự thay đổi có tính chất cách mạng trong quan hệ sản xuất. Lối suy nghĩ củ kỉ nơm nớp lo thất nghiệp, không có việc làm đã hằn sâu trong suy nghĩ của người lao động. Cộng thêm sự thiếu hiểu biết về chính sách của Đảng và nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần vẩn giã vững định hướng XHCN, giữ tính ổn định trong DN. Phần lớn cán bộ lảnh đạo ở các DN đã không hiểu hết sự chuyển đổi nhân đạo của chính sách CPH lại “ôm lấy” phương thức quản lý không còn thích hợp trong cơ chế thị trường, vì ở đó người giám đốc còn đẩy rẩy quyền hành và bổng lộc, nhưng lại sẳn sàng “phủi bụi” khi làm ăn thua lỗ, dẩn đến phá sản công ty, nên không nhiều giám đốc tiếp nhận một cách tự giác tháo gở những khó khăn chưa nhận thức nỗi ban đầu. Phải nhìn thẳng vào một sự thật một số chế độ chưa được ban hành đầy đủ, đồng bộ, các văn bản hướng dẩn về chế độ ưu đãi về thuế sau khi chuyển sang công ty cổ phần. Có công ty khi thực hiện thì khó có thể thuyết phục cơ quan thuế và các chế độ miển giảm các loại thuế vì chưa có thông tư hướng dẩn. Hay trong đánh giá tài sản chưa có tiêu thức chuẩn và mức độ của lợi thế DN. nếu đánh giá cao thì không ai mua, nếu đánh giá thấp thì nhà nước thiệt, xã hội xô vào mua, không còn cổ phiếu để bán cho người lao động. Ngành du lịch của chúng ta chỉ mới quản lý đến các DNNN trong toàn ngành và sẻ tiến hành ở một vài DN trực thuộc tổng cục như các công ty DL Đà Nẵng, Hải Phòng, OSC, ít ra củng có được kinh nghiệm của khách sạn Sài Gòn. Song bước triển khai củng không đơn giản. nếu bước vận động qua đi, hoặc phải có giải pháp để các DN vừa và nhỏ cả làm ăn có lãi và thua lỗ biết được tính bắt buộc của chủ trương này, để thu hồi vốn và nâng cao hiệu quả của các DN. con đường CPH là con đường phổ biến đối với các nước thực hiện nền kinh tế thị trường, song còn quá mới mẻ đối với chúng ta. Nhiều văn bản của nhà nước sẻ được bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của cơ sở, song mỗi cơ sở trong ngành du lịch phải quán triệt cho được tư tưởngtrong thông báo của bộ chính trị “trong năm 1997 cần củng cố các DNNN có cổ phần hoá, đồng thời lựa chon thêm một số DN vừa và nhỏ thuộc các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, các DN dịch vụ, các DN thương mại không chi phối lớn đến đời sống nhân dân, các DN vận chuyển”. Với tư tưởng chỉ đạo của bộ chính trị, chúng ta sẻ từng bước tiến hành CPH các DN trong ngành, nhằm rút ra bài học cho bước sau này. 1.3 Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN một số nước. CPH ở các nước XHCN trước đây thuộc đông âu. Khác với đa số các nước phát triển và đang phát triển, nơi có mộnt nền kinh tế thị trường đang vận động với quá trình CPH, ở đó hướng vào việc thúc đẩy các hoạt động thi trường sẳn có thì đối với các nước XHCN ở đông âu quá trình CPH đã trở thành cuộc thử nghiêm quan trọng đối với các chính phủ mới thành lập. Trong việc cam kết chuyển sang nề kinh tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do các nhân. đối với các nước này việc tiến hành CPH được đặt trong một chương trình tư nhân hoá. Nước cộng hoà dân chủ Đức trước đây, do những điều kiện đặc biệt thuận lợi hơn so với các nước khác nên đã thực hiện quá trình tư nhân hoá và CPH với nhịp độ nhanh nhất. Các nước như Tiệp Khắc (cũ) Hungary, Balan củng đang thực hiện chương trình này một cách tích cực việc tư nhân hoá và CPH hàng ngàn cửa hàng, hàng ngàn xí nghiệp vừa và nhỏ. Được diển ra nhanh hơn so với việc triển khai các công ty lớn. Trong các nước đều đặt ra các hệ thống pháp lý cần thiết cho việc CPH các DNNN đã vượt qua những trở ngại ban đầu cho việc chuyển kinh tế từ kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng số DN cổ phần hoá vẩn còn hạn chế so với dự kiến. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối nên việc tiến hành tư nhân hoá và CPH ở các nước này gặp nhiều khó khẳn trở ngại. Liên xô (củ) khi bước vào công cuộc CPH đang phải lấy tiền lương hàng chục vạn DNNN và tổng nguồn vốn là 3500 tỷ rup (1990) trong đó vốn cố định là 2700 tỷ rup và vốn lưu động là 800 tỷ rup; tổng số tài sản khu vực là 2000 tỷ rup (khoảng 30 tỷ USD)với khoản nợ nước ngoài là 1400 tỷ (khoảng 20 tỷ USD), còn ba lan thì với hơn 700 DNNN trong đó 500 DN quy mô lớn và một khoản nợ nước ngoài không nhỏ. Quan niện phổ biến ở các nước Đông Âu trong cải cách kinh tế nhằm chuyển kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường là thực hiện liệu pháp “sốc” hay “ vụ nổ lớn” nên quy trình tư nhân hoá và CPH ở các nước này trở nên hết sức khó khăn và phức tạp do quy mô và phạm vi tiến hành quá rộng lớn mà thời gian đòi hỏi ngắn hơn nhiếu so với các nước khác. chẳng hạn nước CHLB Nga dự báo bán hơn 10000 xí nghiệp thuộc các ngành thương nghiệp và công nghiệp nhẹ hết đến năm 1992 và hơn 850 tỷ rup, giá trị tài sản của các xí nghiệp công nghiệp sẻ được bán trong 2 năm 1993-1994. Do đặc điểm nổi bật ở các nước này là khu vực tư nhân còn quá nhỏ bé và yếu ớt, thị trường vốn chưa phát triển nên chính phủ các nước đều nhằm vào các nhà đầu tư nước ngoài, coi đó là một nhân tố quan trọng để thay đổi kỉ thuật công nghệ hiện đại. Một đặc điểm có tính chất đặc thù, khác với đa số các nước khác trên thế giới và các nước Đông Âu, trước hết phải “ thương mại hoá các xí nghiệp quốc doanh như là điều kiện tiên quyết để thực hiên quá trình CPH. Việc thương mại hoá này cho phép xác định các quyền sở hữu và quyền kinh doanh đối với các tài sản của nhà nước, tạo điều kiên chuyển đổi chúng thành công ty trách nhiệm hữu hạn. vì vậy các nước Đông Âu thành lập một cơ quan nhà nước có quyền lực lớn chuyên trách việc quản lý tài sản nhà nước, chống vụ lợi của các trường hợp CPH, đảm boả cho việc mua cổ phiếu, xác định đối tượng và tỷ lệ CPH. Bên cạnh dó các nhà nước phải hình thành một mạng lưới các tổ chức tài chính trung gian để hổ trợ cho quá trình thương mại hoá và CPH. Một mâu thuẩn đặt ra cho các nước Đông Âu là sức mua hạn chế của nhân dân và bên kia là mục tiêu của tư nhân hoá và CPH lớn trong một thời gian ngắn, mâu thuẩn giữa bên “cung” quá lớn mà bên “cầu” quá nhỏ. Qua 20 năm mở cửa công cuộc cải cách DNNN ở Trung Quốc đã có những thành công đáng kể cả về mặt lý luận lẩn thực tiển. Về đại thể nó đã trải qua ba giai đoạn sau đây: Giai đoạn mở rộng chủ quyền xí nghiệp (1979-1984), gia đoạn thực hiện tách hai quyền : Quyền sở hữu và quyền kinh doanh (1985-1993), giai đoạn xây dựng chế độ xí nghiệp hiện đại (từ 1994 đến nay). Sau đại hôi 15 thủ tướng Chu Dương Cơ đã đẩy nhanh tiến độ cải cách DNNN theo hướng CPH nhằm xoay chuyển tình trạng làm hiệu quả , thua lỗ của DNNN. Ông đã đưa ra phương châm “nắm to buông nhỏ”, áp dụng phổ biến phương thức CPH và phi quốc hữu hoá các DNNN nhỏ, vừa. Thực hiên phương châm này nhà nước đã thực hiên phân loại xí nghiệp. Trong số 470 nghìn DNNN đã xác định được 268 DNNN quy mô đăc biệt lớn và 7223 DNNN quy mô lớn có ảnh hưởng và tác động quốc tế dân sinh để nhà nước tập trung đầu tư . những xí nghiệp còn lại dùng biện pháp “thả nỗi” hoăc “tuỳ nghi áp dụng” . quán triệt chủ trương này thực tế đã xảy ra hai xu hướng: Một là bán để bán tháo các DNNN làm thất thoát nghiên trọng tài snả nhà nước điển hình nhất là tỉnh Liên ninh, Từ xuyên- Trung Quốc. Chẳng hạ Liên Ninh có 43000 DNNN trong đó có 92% DN vừa và nhỏ tính đến cuối tháng 3 năm 1998 đã có khoảng 50% số DN này “xuất ngũ khỏi DNNN “, trong đó có 648 DN này làm đứt cho tư nhân. nhiều ngành chủ quản và địa phương không mạnh dạn tiến hành các biện pháp cải cách tiến hành quản lý theo cách củ nhằm bảo vệ quyền lợi riêng. Cả hai chiều hướng trên đều làm cho đời sống công nhân sa sút, sự ổn định xã hội bị đe doạ. Điều quan trọng hơn nữa là tình hình DNNN thua lỗ trong cả nước sẻ giảm bớt song chỉ giảm được 8% so với năm 1998. Thực tế hai tháng đầu năm 1999, DNNN vẩn lỗ vốn 14,3 tỷ NDT, tăng hơn cùng kì năm trước , làm cho “năm bản lề then chốt” của cải cách DNNN chưa được như mong muốn. Trước tình trạng trên chủ tịch Giang trạch Dân đã có nhiều cuộc tiếp xúc, toạ đàm. tại cuộc toạ đàm về cuộc cải cách và phát triển DNNN của 8 tỉnh thành và khu vực tự trị miền Đông Bắc và Hoa Bắc trong hai ngày 11,12 – 1999 đã có bài nói chuyện quan trọng. Luân điểm nỗi bật đáng lưu ý vì giá trị chỉ đạo thực tiển của nó nhằm mục tiêu “hình thành bố cục và kết quả kinh tế quốc hữu tương đối hợp lý”. Tại sao phải điều chỉnh bố cục và kết cấu khu vực kinh tế nhà nước cùng với quá trình đẩy mạnh mở cửa, quy mô nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh, cạnh trnh kinh tế trong và ngoài nước ngày càng quyết liệt, đặc biệt là trong điều kiện từng bước hình thành nền kinh tế thị trường , khu vực kinh tế nhà nước phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế mới. Một là trong nền kinh tế thị trường sự phân bố các nguồn lực chủ yếu dựa vào cơ chế thị trường, sự can dự của chính phủ do đó phải thay đổi. đặc biệt trong nền kinh tế thị trường chưa được hoàn thiện như ở Trung Quốc. Chính phủ còn có nhiệm vụ là phải thể hiệm hệ thống luật pháp của kinh tế thị trường. Hai là do khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, các xí nghiệp trong nước đều đứng trước thách thức sống còn. Các DNNN là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân càng cần phải thay đổi nhanh những thể chế và cơ chế không phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất. Ba là quy mô nền kinh tế quốc dân ngày càng rộng lớn nhu cầu của nhân dân ngày càng đa dạng; nếu chỉ dựa vào nguồn vốn có hạn của đất nước sẻ không đá ứng nhu cầu ngày càng tăng của đất nước. Bốn là, quy mô các nguồn vốn ngoại quốc doanh củng đã lớn lên, các thành phần kinh tế nhà nước ngày nay không còn phải nhiệm vụ xây dựng toàn bộ nền kinh tế quốc dân nữa mà là tích cực tham gia vào cạnh tranh vào thị trường. Cần thấy rằng qua 20 năm cải cách mở cửa mọi thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là chủ thể ở Trung Quốc đều được phát triển, nhưng khu vực kinh tế ngoại quốc doanh thực chất còn đang trong giai đoạn trưởng thành, quy mô của phần lớn xí nghiệp còn nhỏ vẩn cần chính sách hổ trợ của nhà nước. Thực tế đòi hỏi sự điều chỉnh chiến lược khu ực kinh tế nhà nước củng như cải cách về căn bản các DNNN nhằm hợp lý hóa cả về bố cục lẩn kết cấu của khu vực kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà nước nắm được vị trí chi phối các lỉnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. phát huy vai trò chủ đạo, dẩn dắt và phát triển lành mạnh của nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu điều chỉnh và phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều chỉnh bố cục kết cấu khu vực kinh tế nhà nước là nhằm cải biến tình trạng quá phân tán của khu vực kinh tế nhà nước hiện nay tập trung nguồn vốn có hạn của nhà nước vào các lỉnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, nâng cao khả năng khống chế của khu vực kinh tế nhà nước đối với nề kinh tế quốc dân. Trọng điểm chiến lược và chức năng của khu vực kinh tế nhà nước phải thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, trình độ chín muồi của thị trường, năng lực của khu vực kinh tế ngoại quốc doanh. trước hết phải phát huy được chức năng cơ bản của chính phủ, tập trung sức làm tốt việc chính phủ phải làm. Trước hết là ổn định xã hội - điều kiện tiên quyết để đi sâu vào cải cách và phát triển kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. trong điều kiện quốc gia có hạn phải biết ưu tiên cho các lỉnh vực trọng điểmvà ngay cả lỉnh vực này củng không nên loại trừ sự tham gia của nguồn vốn ngoại quốc doanh chỉ cần họ tuân thủ pháp quy nhà nước. Nói như trên không có nghĩa là nhà nước có thể rút ra khổi nền kinh tế không có tầm quan trọng chiếm lược. điều này không thực tế vì số lượng DNNN rất lớn, tải rộng, cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, thị trường vốn chưa chín muồi, khả năng ngăn chặn khủng hoảng kinh tế chưa mạnh. Do vậy bố cục lại nền kinh tế nhà nước củng tuỳ tình hình thực tế xã hội. Các DNNN trong các lỉnh vực không mang tính chiến lược có thể đi trước một bước trong việc lợi dụng thị trường vố để cải tổ, thu hút mọi nguồn vốn của mọi hình thức, đa nguyên hoá tài sản. Phương thức điều chỉnh bố cục hợp lý hoá kết cấu khu vực kinh tế nhà nước. Điều chỉnh khu vực và kết cấu kinh tế nhà nước sẻ đụng chạm đến nhiều mặt, đây là khu vực cực kỳ gian nan cần phải có giải pháp đồng bộ. Giới hoạch định chính sách nhà nước ở Trung Quốc cho rằng phải thực hiên 7 cam kết dưới đây: Kết hợp tốt chính sách với cơ chế thị trường. Cải tổ xí nghiệp không chỉ phụ thuộc vào mệnh lệnh hành chính, chủ yếu phải dựa vào cơ chế thị trường. Chính phủ cần đưa ra các chính sáh phù hợp để thực hiện việc thực hiện điều chỉnh và kết cấu khu vực kinh tế nhà nước. Kết hợp giữa điều chỉnh vĩ mô và điều chỉnh vi mô. phương hướng điều chỉnh, bố cục và kết cấn khu vực kinh tế nhà nước là tập trung nguồn vốn nhà nước vào các lỉnh vực then chốt. Kết hợp điều chỉnh bố cục khu vực kinh tế nhà nước với điều chỉnh kết cấu ngành nghề. Điều chỉnh chỉnh chiến lược bố cục khu vực kinh tế nhà nước phải tiến hành đồng thời, đồng bộ với kết cấu ngành nghề. Kết hợp giữa quy hoạch tổng thể với việc phát huy tính tích cực của chính quyền các cấp. Về phân công, chính phủ trung ươngchủ yếu phát huy tác dụng đối với các lỉnh vực chiến lược. Kết hợp điều chỉnh giữa đầu tư mới với hiện có, về nguyên tắc đầu tư mới của chính phủ chủ yếu chỉ dành cho các hạng mục đảm bảo các trọng điểm chiến lược của khu vực kinh tế nhà nước, số tài sản nhà nước nằm trong lỉnh vực không có tính chất chiến lược. Kết hợp điều chỉnh bố cục khu vực kinh tế nhà nước với việc thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế ngoại quốc doanh. cần thấy rằng phát triển lành mạnh khu vực kinh tế ngoại quốc doanhlà điều kiện rất cần thiết để điều chỉnh khu vực và kết cấu khu vực kinh tế nhà nước. Kết hợp nâng cao hiệu quả với việc nắm bắt thời cơ. để tăng được giá trị của toàn bộ tài sản nhà nước, tránh tình trạng nguồn vốn nhà nước thất thoát. dần. 1.4 Một số kinh nghiệm rút ra từ các nước tiến hành CPH trên thế giới. Thế giới đang chứng kiến một chuyển biến có tính chất lịch sử thoát khỏi các quan điểm về các tổ chức kinh tế công thức. Tại các nước đang phát triển thời đại dựa vào khu vực kinh tế quốc doanh đều đưa đến nền kinh tế thịnh vượng hầu như đã kết thúc, hoạt động các DNNN đã thể hiện như một gánh nặng tài chính hơn là các nhân tố tạo phồn vinh. Tư nhân hoá đang là một xu thế nổi lên trong thập kỷ vừa qua. Khác hẳn với việc mở rộng sở hữu nhà nước vào những năm 1960-1970. Theo một đánh giá thận trọng, trên trế giới đã có thêm 15.000 DNNN được tư nhân hoá phần lớn là từ năm 1990. Khái niệm tư nhân hoá ở đây được hiểu là “chuyển phần sở hữu đa số của DNNN sang tư nhân thông qua việc bán các cổ phần hiện có hoặc bán các tài sản tiếp theo sau khi thanh lí DN”. Tại sao phải tư nhân hoá ? Các số liệu chứng minh nhiều DNNN ở nhiều nước đã hoạt động không hiệu quả và gây ra thất thoát tài chính lớn, ví dụ: trong các năm 1989-1991 các thất thoát của các DNNN đạt tới 9% GDP ở Achentina, 8% ở Trung Quốc, Nam tư, và trên 5% là trung bình ở các nước châu phi. Hầu hết các quốc gia đng tiến hành chuyển đổi chủ sở hữu (Chi lê, Mêhicô) đều bắt đầu từ việc làm các DN vừa và nhỏ. Tuy nhiên việc lựa chọn bắt đầu từ đâu, phụ thuộc vào mối quan tâm của nhà đầu tư, khả năng chính phủ và yêu cầu phải có sự đầu tư mới và hiệu quả được nâng cao. Nhiều nước đã chọn tư nhân hoá các DN tiện ích công cộng trước, dẩu rằng đây là viêc hết sức phức tạp. Một giải pháp khác củng đề cập đến là tư nhân hoá công tác quản lý DNNN, giao DNNN cho các nhà quản lý tư nhân và cho phép DN này hoạt động giống như một công ty tư nhân cho dù tài sản của nó thuộc về nhà nước. Hợp đồng quản lý có tác dụng tốt trong các lỉnh vực khách sạn, hảng hàng không và nông nghiệp là những nơi mà thương lượng và theo giỏi hợp đồng đã thành nếp và có sẳn các nhà quản lí kinh nghiệm. Bán toàn bộ hay một phần DN? ở Malasia việc bán một phần hoạt động củng đã được nâng cao đáng kể phương thức hoạt động và năng suất lao động. ở ấn độ việc bán việc bán 27% cổ phần một nhà máy xi măng quốc doanh đã làm cho mọi việc tốt hơn. ở nhật 33% cổ phần của hảng điện thoại báo Nipan (NTT) đã nâng cao được lợi nhuận và cải thiện dịch vụ. Như vậy việc bán nhiều cổ phần đôi khi có tác dụng tốt đặc biệt trong trường hợp có cạnh tranh. để khắc phục những vấn đề trên đây, các nước đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau đối với khu vực kinh tế quốc doanh. những chính sách và biện pháp mà họ áp dụng rất đa dạng nhưng tập trung chủ yếu vào ba loại sau: Đánh giá và sắp xếp lại các DNNN một cách có trọng điểm và chon lọc. Các chính sách tư nhân hoá là biện pháp cải cách khu vực kinh tế quốc doanh. Những nguyên nhân dẩn đến sự hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh là công tác quản lý yếu kém bao gồm cả quản lý vĩ mô và vi mô. do đó cải tiến cơ chế quản lý là yêu cầu bức thiết để nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh. Kinh nghiệm CPH - Tư nhân hoá ở một số nước trên thế giới. CPH ở Trung Quốc: Trung Quốc bắt đầu thí điểm CPH các DNNN của họ vào đầu những năm 1980, họ đã gặt hái được một số kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22-25 tháng 8 năm 1987, tại Hà Châu (Sơn tây), chính phủ tổ chức thảo luận về 3 năm CPH. Chỉ tính riêng trong năm tỉnh thành phố đã có trên 1500xí nghiệp quốc doanh CPH với tổng số vốn hành chục tỷ NDT. Hình thức CPH của Trung Quốc. Cơ cấu cổ phần: cơ cấu cổ phần của DN gồm: cổ phần nhà nước, cổ phần cán bộ công nhân viên trong DN và cá nhân ngoài DN. Chế độ cổ phần hữu hạn: vốn cổ phần của các xí nghiệp này do những xí nghiệp nhà nước, tập thể và tư nhân đóng góp. Những xí nghiệp tham gia liên hiệp xí nghiệp cổ phần có thể dùng tài sản dưới hình thức khác nhau: tiền vốn, tài sản cố định,… để đóng góp cổ phần. Chế độ cổ phần hổn hợp của các xí nghiệp là sự hổn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ phần ngoài xã hội. Xác định cổ phần: Việc xác định cổ phần nhằm làm rỏ vai trò sở hữu cổ phần. Căn cứ vào vốn đầu tư để chia quyền sở hữu cổ phần. Về phân phối lợi nhuận: nhìn chung có 3 cách phân phối lợi nhuận. Lợi nhuận được hình thành trước hết phải trải qua các khoản vay của ngân hàng, sau đó căn cứ vào luật thuế để nộp các loại thuế. Phần lợi nhuận còn lại được phân phối cho các quỹ căn cứ vào số lượng và tỷ lệ cho mỗi quỷ. Hạ thấp mức thuế doanh thu, phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế trả nợ sẻ đem phân bổ các quỹ. Lợi nhuận thực hiện còn lại của xí nghiệp được phân bổ cho các quỹ sau khi nộp thuế, tiền phạt nếu chiếm dụng vốn của nhà nước. Phân phối lợi tức cổ phần. Cơ bản đều căn cứ vào tỷ lệ cổ phần để chia lợi tức được hưởng khi hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thệt hại tổn thất khi thua lỗ. Tư nhân hoá ở một số nước Châu á Thái Bình Dương. Mục tiêu chính của các nước châu á Thái bình dương gồm: Nâng cao hiệu quả hoạt độngcủa các DNNN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế quốc doanh nói chung. Xây dựng lại cơ cấu kinh tế mà nền tảng là đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế tư nhân. Tạo ra môi trường kinh doanh tích cực dảm bảo tính công bằng giữa các thành phần kinh tế. Giảm bớt sự căng thẳng giữa các nhóm, điều hoà lợi ích của các tầng lớp, nhằm tạo ổn định chính trị xã hội. 1.5 Môt số đặc điểm quan trọng của quá trình CPH. Tính phổ biến của quá trình CPH DNNN Sự triển khai có tính chất toàn cầu quá trình CPH được bắt đầu mạnh mx từ những năm 80 cho đến nay đã chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ các nhà nước đều thấy sự cần thiết phải xem xét và xác lập lại mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước. Sự khắc phục những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước, thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ nhà nước ngày càng tăng. Sự giảm bớt này nhăm mục đích tạo ra sự tương quan hợp lí giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, giữa điều tiết của nhà nước và hoạt động thị trường đối với hoạt động của các DN Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72825.DOC