Còn xét ở trình độ quản lí của chủ doanh nghiệp tư nhân, đa số hiện nay chưa được qua đào tạo. Họ điều hành quản lí chủ yếu dựa vào các kinh nghiệm được tích luỹ trong quá trình kinh doanh quy mô gia đình, kinh doanh nhỏ. Thực tế cho thấy đại đa số chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo không có bằng cấp chuyên môn rất khó đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường, do đó trong điều kiện hội nhập hội nhập với nền kinh tế, khu vực thì chắc chắn kinh nghiệm quản lí kinh doanh kiểu trên sẽ không còn phù hợp và lối kinh doanh ấy sẽ là rào cản doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận để mở rộng tầm nhìn, mở rộng giao lưu với các đối tác bên ngoài. ở khía cạnh khác, do không hội đủ các điều kiện chuyên môn, am tường pháp luật, kiến thức quản lí, kinh doanh. cho nên không ít giám đốc doanh nghiệp tư nhân đã đẩy đơn vị mình vào tình trạng nợ nần, mất khả năng kinh doanh, phá sản. Đa số nhà doanh nghiệp khi ra trước toà đều có chung tình trạng là kém trình độ kinh doanh, không thông hiểu pháp luật dẫn đến các vi phạm pháp luật. Nhìn từ góc độ chiến lược đầu tư, ngành nghề đầu tư, phần lớn các chủ thể kinh tế tư nhân hiện nay tập trung vào các ngành thương mại, dịch vụ nhưng ít đầu tư vào hoạt động sản xuất.
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế tư nhân.
Đối với hộ kinh doanh cá thể, lao động ở khu vực này là các xã viên của các hợp tác xã trước đây, các hộ cá thể hoạt động từ lâu theo kiểu truyền nghề từ đời trước (đối với nghề tiểu thủ công nghiệp, cửa hiệu kinh doanh), các hộ sản xuất nông nghiệp chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, lực lượng lao động trẻ được bổ xung hàng năm, cán bộ, công nhân từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ…Đối với doanh nghiệp một phần lớn phát triển từ kinh tế hộ đi lên, một số được chuyển từ hình thức hợp tác xã, một số khác được thành lập mới. Trong số chủ doanh nghiệp: chủ doanh nghiệp tư nhân hầu hết trưởng thành trong chế độ mới. Theo báo cáo của các địa phương, nhiều người trong số họ là cán bộ, đảng viên đã từng tham gia công tác trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang; trong đó có cả thanh niên, phụ nữ, có một số doanh nghiệp do nguời dân tộc thiểu số làm chủ.
Tăng trưởng sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân.
Tổng sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân tăng bình quân 7%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân xấp xỉ tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP của cả nước. Trong đó GDP của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp là 63,6%GDP của khu vực kinh tế tư nhân, và bằng 26,87% GDP cả nước. Trong ngành nông nghiệp, năm 2000 GDP của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 15,4% GDP toàn quốc và chiếm 63,2% GDP của nông nghiệp nói chung.
1.4.2 Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhưng trong sản xuất của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhưng khiếm khuyết, hạn chế cần phải khắc phục.
Trước hết bắt đầu từ bản thân chủ thể kinh tế tư nhân. Tuy thời gian qua kinh tế tư nhân phát triển mạnh về số lượng nhưng nếu xét tổng thể trên cả 3 tiêu thức vốn, lao động và công nghệ thì nhìn chung các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cá thể còn rất nhỏ bé và công nghệ lạc hậu. Về quy mô vốn cho thấy 80,26% các loại hình doanh nghiệp có số vốn nhỏ hơn 5 tỉ đồng, con số này đối với doanh nghiệp nhà nước là 20,03%. Về lao động, phần lớn các doanh nghiệp có quy mô lao động nhỏ. 80% doanh nghiệp có số lao động dưới 50 người trong trong khi đó đối với doanh nghiệp nhà nước quy mô lao động hơn 200 người chiếm hơn 50% tổng số doanh nghiệp. Về trình độ công nghệ, đa số các loại hình doanh nghiệp tư nhân dang sử dụng công nghệ ở mức trung bình và lạc hậu so với thế giới. Như vậy thực trạng hiện nay ở khu vực kinh tế tư nhân cho thấy quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu đang làm hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước mà sức cạnh tranh là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp và đó cũng là khó khăn, yếu kém mà doanh nghiệp tư nhân cần phải khắc phục nhanh chóng khi mà hiện nay chúng ta đã gia nhập lộ trình AFTA.
Còn xét ở trình độ quản lí của chủ doanh nghiệp tư nhân, đa số hiện nay chưa được qua đào tạo. Họ điều hành quản lí chủ yếu dựa vào các kinh nghiệm được tích luỹ trong quá trình kinh doanh quy mô gia đình, kinh doanh nhỏ. Thực tế cho thấy đại đa số chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo không có bằng cấp chuyên môn rất khó đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường, do đó trong điều kiện hội nhập hội nhập với nền kinh tế, khu vực thì chắc chắn kinh nghiệm quản lí kinh doanh kiểu trên sẽ không còn phù hợp và lối kinh doanh ấy sẽ là rào cản doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận để mở rộng tầm nhìn, mở rộng giao lưu với các đối tác bên ngoài. ở khía cạnh khác, do không hội đủ các điều kiện chuyên môn, am tường pháp luật, kiến thức quản lí, kinh doanh.. cho nên không ít giám đốc doanh nghiệp tư nhân đã đẩy đơn vị mình vào tình trạng nợ nần, mất khả năng kinh doanh, phá sản. Đa số nhà doanh nghiệp khi ra trước toà đều có chung tình trạng là kém trình độ kinh doanh, không thông hiểu pháp luật dẫn đến các vi phạm pháp luật. Nhìn từ góc độ chiến lược đầu tư, ngành nghề đầu tư, phần lớn các chủ thể kinh tế tư nhân hiện nay tập trung vào các ngành thương mại, dịch vụ nhưng ít đầu tư vào hoạt động sản xuất.
Bên cạnh những khó khăn về vốn, lao động, trình độ công nghệ còn có những khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và phát triển từ khi có chủ trương đổi mới, và tăng nhanh sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Nhà nước đã tiến hành giao quyền sử dụng đất theo luật đất đai, do đó về cơ bản là không còn đất vô chủ. Do các doanh nghiệp tư nhân ra đời muộn, không còn đựơc Nhà nước ưu đãi về đất như trước, chính vì vậy thiếu mặt bằng kinh doanh đang là trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu dân cư làm nơi sản xuất, kinh doanh. Một số doanh nghiệp tư nhân phải đi thuê lại đất, nhà xưởng bỏ hoang của các đơn vị khác mà thường là cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã. Chính vì phải thi đi thuê lại đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh nên doanh nghiệp phải trả giá cao hơn rất nhiều so với giá thuê của Nhà nước quy định. Nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư lâu dài vào nhà xưởng, máy móc thiết bị vì lo phải trả lại đất, trong khi chưa thu hồi đủ vốn. Ngoài ra, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thiệt thòi trong việc chuyển mục đích sử dụng đất hoặc phải trả tiền thuê đất cho chính mảnh đất mà mình sử dụng trước đó của mình, đã phải bỏ tiền ra đền bù hoặc mua lại. Thủ tục liên quan đến đất đai quá rườm rà, phải mất nhiều thời gian, công sức, chi phí và cả những tiêu cực trong xã hội của một số cán bộ có thẩm quyền về nhà đất, nhiều khi làm lỡ cơ hội sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Và đặc biệt khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp tư nhân đó chính là khó khăn về môi trường pháp lí và tâm lí xã hội. Trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp tư nhân là môi trường pháp lí chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán hay thay đổi phức tạp và chồng chéo, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp hành pháp luật. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành văn bản hướng dẫn đã gây khó khăn cho việc đăng kí và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù các cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp đươc tham gia ý kiến vào nhiều văn bản, chính sách khác nhau song nhìn chung kết quả còn hạn chế, mới dừng lại ở mức tham khảo có giới hạn, chưa thành quy chế. Một số ý kiến, đề xuất của doanh nghiệp chưa được tiếp thu, nhiều khó khăn cho doanh nghiệp chưa được giải quyết một cách cơ bản, triệt để. Bên cạnh đó là sự thiên lệch đối xử của nhiều cấp thừa hành giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Điều này là một yếu tố tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh. Hiện tượng thanh tra, kiểm tra chồng chéo và kéo dài đã gây phiền hà cho khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra còn một số cơ quan nhà nước chuyên ngành thường can thiệp quá sâu vào lĩnh vực kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Một số công chức đi kiểm tra, thanh tra còn mang nặng tính cửa quyền, sách nhiễu, vi phạm quyền tự do kinh doanh của công dân. Không chỉ môi trường pháp lí ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân mà môi trường tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Xuất phát từ những định kiến trong quá khứ đối với khu vực kinh tế tư nhân, là thành phần cần phải cải tạo, hình thức sở hữu tư nhân và mang hình bóng của CNTB, không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ. Trong xã hội còn có phần định kiến đối với khu vực kinh tế tư nhân, chưa nhìn nhận đúng vai trò nhà kinh doanh tư nhân trong xã hội. Do vậy còn có tâm lí e ngại, dè dặt, sợ chệch hướng XHCN, không muốn thúc đẩy khu vự c này phát triển. Quan niệm coi kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, tính tự phát, luôn chỉ nhìn thấy những tiêu cực của khu vực kinh tế tư nhân như làm hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thương mại... đã dẫn đến tâm lí kì thị, phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân trong một số không nhỏ cán bộ ở các cấp của Đảng, Nhà nước, trong nhân dân. Mặc dù từ khi Luật doanh nghiệp ra đời, môi trường pháp lí, tâm lí xã hội đã tạo thuận lợi hơn rất nhiều cho các hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân nhưng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn đối với khu vực này khiến nhiều người không dám mạnh dạn đầu tư phát triển, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động các nguồn lực, tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh các yếu tố từ bên ngoài gây tác động đến hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân thì ngay trong bản thân khu vực này cũng có những khó khăn riêng. Do nước ta đang ở trong chế độ XHCN, vừa mới thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch tập trung nên bản thân các doanh nghiệp Việt nam hầu hết mới thoát thân từ cơ chế bao cấp, nên còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng mong chờ sự giúp đỡ, che chở của Nhà nước. Một số hoạt động kinh doanh còn mang tính chụp giật, không ổn định lâu dài. Tính liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp, nên khó tạo được sức mạnh chung trên cơ sở phát huy lợi thế của từng cơ sở. Các doanh nghiệp chưa mạnh dạn khai thác các loại dịch vụ của các cơ sở chuyên nghiệp, nhất là vấn đề đầu tư, thuế, tài chính, kế toán... mà thường tự mình tiến hành, trong nhiều trường hợp không phải là cách làm có hiệu quả. Hơn thế nữa, bản thân khu vực kinh tế tư nhân cũng chưa thực hiện tốt các quy định của Nhà nước. Một số doanh nghiệp của tư nhân lợi dụng sự cởi mở của Luật doanh nghiệp để khai man, tự lấy tên, địa chỉ các cá nhân khác để đăng kí thành lập công ty, hình thành pháp nhân giả. Vẫn còn tình trạng không đủ điều kiện về nhân thân, bị cấm thành lập doanh nghiệp cũng xin đăng kí thành lập doanh nghiệp. Có tình trạng doanh nghiệp đăng kí kinh doanh xin cấp mã số thuế, sau đó chỉ thực hiện mua bán hoá đơn kiếm lời mà không hoạt động kinh doanh như đăng kí. Một số doanh nghiệp tư nhân đăng kí xong nhưng không hoạt động. Tình trạng một số doanh nghiệp tư nhân làm hàng nhái, hàng giả, vi phạm bản quyền về sở hữu công nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng gia tăng.
Tóm lại, mặc dù trải qua nhiều khó khăn trong những thời điểm nhất định nhưng kinh tế tư nhân vẫn khẳng định được tiềm năng của mình trong công cuộc phát triển xây dựng đất nước. Bản thân trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tồn tại những hạn chế do cả chủ quan lẫn khách quan. Vì vậy để khu vực kinh tế này phát huy hết khả năng của mình đòi hỏi phải có những chính sách, cơ chế phù hợp.
2. Thực trạng cơ chế chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Để khu vực kinh tế tư nhân đi đúng quỹ đạo, theo đúng định hướng XHCN, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra các cơ chế để phát triển hết các tiềm năng của thành phần này nhưng hướng nó đi theo con đường XHCN mà nước ta đã lựa chọn là phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2.1 Sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Đất nước ta sau những năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến đã quyết định đi lên con đưòng XHCN mà Bác đã lựa chọn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính vì vậy vai trò của Đảng trong việc hoạch định các chính sách đối với phát triển đất nước đặc biệt quan trọng nhất là các chính sách liên quan đến việc phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta. Đảng ta đã không ngừng đổi mới chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đã thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Ngay từ đại hội VI Đảng đã xác định: "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ". Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí lâu dài. Nhà nứơc tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Tại Đại hội khoá VII, Bộ chính trị đã ra chỉ thị về tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân nhằm thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đảm bảo cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp tục phát triển lành mạnh đúng hướng, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhằm đảm bảo cho chủ trương đương lối của Đảng đi vào cuộc sống, Quốc hội, Chính phủ đã từng bước thể chế hoá, trước hết bằng luật cơ bản, đó là Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành các luật từ luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty đến Luật doanh nghiệp. Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết và hướng dẫn để triển khai thực hiện ở các ngành, các địa phương. Ngoài ra, trong nhiều văn bản luật và dưới luật đã khuyến khích đầu tư trong nước, phát huy nội lực, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được hoàn thiện, thúc đẩy khu vực này tăng trưởng nhanh hơn nữa.
2.2 Quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Để thể chế hoá các chủ trương đường lối của Đảng đi vào hoạt động, nhà nứơc đã thực hiện chức năng quản lí của mình đối với khu vực kinh tế tư nhân.
2.2.1 Xây dựng luật và các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng khung khổ pháp lí, hoàn chỉnh dần, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và có hiệu quả hơn theo những quy định của pháp luật, đảm bảo sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử, bảo đảm thực hiện thuận lợi quyền kinh doanh theo pháp luật của công dân, bảo hộ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, thực hiện tốt nghĩa vụ trong kinh doanh, phát huy nội lực và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc xây dựng hệ thống các luật và các văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ quản lý, đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng lao động xá hội theo định hướng ưu tiên của Nhà nước, nhằm kết hợp hài hoà quan hệ lợi ích giữa chủ kinh doanh, nguời lao động và Nhà nước trong khu vực kinh tế tư nhân. Khung khổ pháp lí liên quan đến khu vực kinh tế tư nhân rất rộng, nhưng chủ yếu là các luật và chính sách. Hai luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước là những luật có những tác động rất rõ nét đến sự phát triển và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó là các quy định, nghị định liên quan đến hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, còn không ít những quy định chưa rõ ràng, chưa đồng bộ và cụ thể, chưa phù hợp với trình độ khu vực kinh tế tư nhân, do vậy, thực tế còn khó áp dụng và thực hiện. Hệ thống pháp luật, luật điều chỉnh hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân còn có một số hạn chế như: Một số quy định của các luật chuyên ngành được ban hành từ trước, chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời, không phù hợp với luật doanh nghiệp, do vậy khó thực hiện, nhiều văn bản dưới luật còn chống chéo, chưa rõ ràng, có khi vừa thừa, vừa thiếu. Một số quy định về quản lí nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân còn thể hiện sự lúng túng. bất cập, chưa phù hợp với trình độ, quy mô phát triển của hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân.
2.2.2 Xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân.
Chính sách tín dụng đầu tư.
Những năm gần đây, hệ thống ngân hàng đã có những hình thức tín dụng đa dạng và có cạnh tranh hơn nhằm thực hiện chính sách cho vay bình đẳng không phân biệt hình thức kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân. Ngân hàng đã áp dụng những chính sách ưu tiên đối với khu vực kinh tế tư nhân, điều mà trước kia chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trong khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại và Quỹ hỗ trợ phát triển.
Chính sách mặt bằng, đất đai cho kinh tế tư nhân.
Như đã đề cập ở trên, một trong số những hạn chế đến hoạt động, kết quả của khu vực kinh tế tư nhân là mặt bằng sản xuất, đất đai thì Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình và các thành phần kinh tế muốn sử dụng đất đai được cấp để kinh doanh phải chuyển sang hình thức thuê đất. Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm đáng kể tiền thuê đất, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tuy nhiên, một số quy định trong các luật, nghị định trong thực tế đang còn gây khó khăn, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân như đối với đất đã được cấp quyền sử dụng hoặc mua lại của cá nhân, khi dùng vào mục đích kinh doanh phải qua nhiều thủ tục quy định phức tạp, phiền hà, tốn kém, mất nhiều thời gian thậm chí mất cơ hội kinh doanh. Khi doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp tập trung không có hỗ trợ nên chi phí thuê đất quá cao so với khả năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa của khu vực kinh tế tư nhân.
Chính sách về khoa học công nghệ.
Nhà nước có một số văn bản khung tạo pháp lí chung về chính sách khoa học, công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành phần kinh tế, đã hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng, khoa học- kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ, sản xuất được những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng hơn, tăng được năng suất lao động, khả năng cạnh tranh ... đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và tăng được hàng xuất khẩu. Song trên thực tế, do năng lực nội tại còn non yếu như tài chính còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ chuyên môn trình độ cao nên ít nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước về đổi mới công nghệ, bản thân doanh nghiệp không đủ khả năng, tiến hành các hoạt động liên quan đến sở hữu công nghiệp.
Chính sách thuế,tài chính, kế toán, kiểm toán.
- Chính sách thuế: Các mức thuế được ban hành và áp dụng đồng bộ cho các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. Tuy còn một số hạn chế nhưng những chính sách thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...bước đầu đã xoá bỏ được sự cách biệt giữa kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Nhưng chính sách thuế vẫn còn một số tồn tại ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Một số điểm trong chính sách thuế chưa được quy định cụ thể, rõ ràng làm cho việc thực hiện gặp khó khăn, một số sắc thuế quy định thủ tục kê khai nộp thuế còn phức tạp. Trong điều hành cụ thể chính sách thuế còn chưa thể hiện được sự công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Các quy định về tài chính, kế toán, kiểm toán: Hiện nay Nhà nước chưa có các quy định riêng về chế độ quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp tư nhân. Thực tế các cơ quan nhà nước phải vận dụng chế độ quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước để áp dụng quản lí, thanh tra các doanh nghiệp tư nhân. Còn đối với chế độ kế toán, chế độ kiểm toán đã góp phần tăng tăng cường công tác quản lí tài chính khu vực này.
- Về thủ tục hải quan: các quy định về cơ bản đáp ứng yêu cầu của chính sách phát triển kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng.
Chính sách về đạo tạo nghề cho lao động, chính sách tiền lương đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở dạy nghề dân lập, tư thục. Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thể thao. Còn đối với chính sách tiền lương thì theo quy định của Bộ luật lao động và Bộ luật dân sự, chế độ tiền lương, tiền công của người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thực hiện trên nguyên tắc thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượn và hiệu quả công việc. Mức lương người lao động được trả không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
III. Định hướng đổi mới và các giải pháp có tính khuyến nghị về đổi mới các chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân.
1. Phương hướng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
Phương hướng cơ bản hiện nay trong chính sách phát triển kinh tế tư nhân là hạn chế và giảm thiểu những yếu tố cản trở trong môi trường kinh doanh nhằm làm giảm bớt những rủi ro mà các doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải. Môi trường kinh doanh của Việt Nam hiện nay là nghèo về nguồn lực kinh doanh (các dịch vụ hỗ trợ thị trường, nguồn thông tin, nguồn lao động có kỹ năng tay nghề cao, nguồn vốn đất đai và nhận thức của xã hội) có ý nghĩa cơ bản và quyết định khả năng tiếp cận với nguồn lực của các thành phần kinh tế tư nhân.
Do vậy, điểm xuất phát cơ bản hiện nay là phải xác định đúng đắn vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, cải thiện nhận thức của xã hội về thành phần kinh tế này. Hình ảnh của kinh tế tư nhân trong nhận thức xã hội là không thuận lợi với những đặc điểm tiêu cực như tính bấp bênh, năng lực hạn chế, ít có cơ hội phát triển, mặc cảm làm thuê... để giải quyết vấn đề này, mấu chốt quan trọng nhất là các nhận định của Đảng và chính phủ trong các văn bản, nghị quyết chính thức về kinh tế xã hội nói chung, phải thực sự coi kinh tế tư nhân như là một bộ phận tích cực và năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tiếp xúc thường xuyên giữa những nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước với các đại diện của nền kinh tế tư nhân là một trong những hoạt động nhằm thay đổi hình ảnh cố hữu về doanh nghiệp tư nhân trong quảng đại quần chúng. Các hoạt động báo chí tuyên truyền cũng phải tập trung hơn nữa vào những ưu điểm của kinh tế tư nhân. Một vấn đề liên quan đến tâm lí của người dân đó là thay đổi nhận thức xã hội còn quan trọng hơn nhiều so với việc cải thiện môi trường luật pháp. Nếu không có được sự cải thiện mạnh mẽ trong nhận thức xã hội đối với kinh tế tư nhân thì mọi chính sách, dù là rất thuận lợi với kinh tế tư nhân, cũng khó được thực hiện. Đảng và chính phủ cần khuyến khích sự phát triển của một tầng lớp doanh nhân Việt Nam, đề cao tinh thần và niềm tự hào dân tộc. Tiến tới xây dựng một đội ngũ doanh nhân Việt Nam có trình độ kỹ thuật cao và quản lý giỏi. Và do đó, để tránh những mặc cảm xã hội, không nên gọi tư nhân Việt Nam là “tư bản” mà gọi là “doanh nhân” Việt Nam và đưa ý thức tự hào dân tộc là chủ trương tinh thần cơ bản để tập hợp đội ngũ này.
Bước tiếp theo là tiếp tục cung cấp những nguồn lực cho sự phát triển của kinh tế tư nhân theo 4 hướng cơ bản sau đây:
- Đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục trong đó bắt đầu từ giáo dục phổ thông và chú trọng vào giáo dục nghề. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy đầu tư vào giáo dục là bước quan trọng nhất cho phát triển. Các doanh nghiệp tư nhân khi mới thành lập hoặc mở mang hoạt động thì yếu tố quan trọng nhất là đội ngũ lao động có tay nghề giỏi. Họ sẽ không phải mất nhiều thời gian cũng như kinh phí để đào tạo, như vậy yếu tố rủi ro cũng giảm xuống. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay khi đội ngũ lao động kỹ thuật còn rất hạn chế, cộng thêm những nhận thức không mấy thiện cảm về kinh tế tư nhân thì khả năng thu hút của kinh tế tư nhân đối với đội ngũ lao động giỏi là rất hạn chế. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải chuyển đội ngũ lao động từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân, từ những khu vực được bảo hộ sang những khu vực có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên để làm được điều đó thì đội ngũ lao dộng phải được trang bị đầy đủ những kỹ năng cần thiết để họ có thể đáp ứng được những nhu cầu của thị trường. Giáo dục phổ thông cần phải chú trọng hơn vào việc rèn luyện ý thức xã hội, khả năng sáng tạo và tinh thần nỗ lực của học sinh làm cơ sở cho hệ thống giáo dục sau này.
- Phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ thị trường, chú trọng tới việc cung cấp thông tin và ứng dụng cộng nghệ thông tin. Mức giá của các dịch vụ hàng hoá này còn quá cao dẫn tới chi phí hạ tầng ở Việt Nam nhìn chung là cao hơn các nước trong khu vực. Trong những năm tới, Nhà nước cần tiếp tục huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cở sở hạ tầng. Hệ thống các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh hiện nay còn quá yếu và thiếu trong khi tại các nền kinh tế phát triển, dịch vụ thường chiếm 1/3 giá trị đầu vào. Một số chủ doanh nghiệp đã bày tỏ sự thất vọng khi không thể tìm được các thông tin cần thiết về thị trường t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50440.doc