Đề tài Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 2

PHẦN NỘI DUNG 3

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 3

1. Phân công lao động và sử dụng lao động 3

1.1. Khái niệm 3

1.2. Tác dụng 4

1.3. Các hình thức phân công lao động 4

2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 5

2.1. Cách mạng khoa học công nghệ 5

2.1.1. Khái niệm 5

2.1.2. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp 5

2.2 Kinh tế tri thức 8

2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức 8

2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức 8

II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 8

1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đến phân công lao động và sử dụng lao động nói chung 8

2. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 11

2.1. Cơ hội 11

2.2. Thách thức 12

3. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 15

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHÂN CÔNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 19

1. Đối với chính phủ 19

2. Đối với hệ thống đào tạo và dạy nghề 20

3. Đối với Doanh nghiệp 21

4. Đối với người lao động 21

KẾT LUẬN 21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22

 

doc23 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 463 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà thông minh, văn phòng thông minh, thành phố thông minh, đô thị thông minh, công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh Dữ liệu lớn (Big Data) là một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp, được xử lý để lấy các thông tin thích hợp phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa hoặc môi trường. Công nghệ Blockchain cho phép một cơ sở dữ liệu được chia sẻ trực tiếp không thông qua trung gian, trong tương lai Blockchain sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: bầu cử, khai sinh, kết hôn, xác nhận tài liệu, văn bằng Về công nghệ sinh học, nổi bật là các công nghệ về gen và tế bào, công nghệ phức hợp y sinh – thông tin (kết hợp thông tin với các bộ phận cơ thể sống). Sự phát triển của công nghệ sinh học tổng hợp trong tương lai sẽ cho phép các nhà khoa học tạo ra các AND, cấy ghép để tạo ra những bộ phận thay thế trong cơ thể người, giúp chữa những căn bệnh nan y như ung thư, huyết áp, tiểu đường từ đó giúp kéo dài tuổi thọ con người, công nghệ gen thậm chí có thể tạo ra những giống, loài động, thực vật kể cả con người, có thể chống chọi được với điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt. Công nghệ gen cũng giúp ngành nông nghiệp gia tăng sản lượng lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số nhanh chóng. Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt lõi về tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển. 2.1.3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể được khái quát như sau: Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất. Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển 2.2 Kinh tế tri thức 2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức Từ những năm cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, đặc biệt là xuất hiện cách mạng thông tin, cách mạng tri thức và sự bùng nổ của công nghệ cao làm ra đời nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đã cuốn mọi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển. Kinh tế tri thức là lĩnh vực mà ở đó mỗi sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm được tạo bởi nguồn gốc là tri thức chiếm tỷ trọng chủ yếu (70 – 75% trở lên) Bản chất của nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ, sáng tạo ra tri thức đáp ứng nhu cầu riêng của mình (UNDP – 2014). Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là sáng tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Sức lao động trở thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển. 2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức Nền kinh tế tri thức bao gồm một số đặc điểm sau: Một là, hoạt động kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Hai là, sáng tạo và đổi mới là động lực phát triển “phát minh trở thành một nghề đặc biệt”. Ba là, hoạt động kinh tế có tính toàn cầu hóa, mạng thông tin là kết cấu hạ tầng quan trọng nhất. Bốn là, sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng gia tăng số lao động trí tuệ và dịch vụ. Sự chuyển đổi về cơ cấu các ngành kinh tế. Năm là, nền kinh tế dựa trên sự học tập và nhân lực tài năng. Sáu là, tri thức hóa các quyết sách kinh tế. II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đến phân công lao động và sử dụng lao động nói chung Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các quốc gia. Và đồng thời, tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội. Về tư liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của công nghệ thông tin hiện đại đang tạo ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội, cụ thể là: Phân công lao động dưới tác động của công nghệ thông tin đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới - lao động thông tin. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến thông tin, đến các quy trình, như đầu vào, đầu ra, xử lý thông tin. Những người lao động trong lĩnh vực thông tin rất đa dạng, đa ngành nghề; họ có thể là những nhân viên văn phòng, người lập trình, chuyên gia, kỹ sư, nhà nghiên cứu, doanh nhân, nhà phân tích... Nhiệm vụ của họ là sản xuất, xử lý, trao đổi thông tin, cung cấp những cơ sở cho việc ra quyết định. Đòi hỏi đối với lao động thông tin là không chỉ nắm vững khả năng thao tác, mà còn phải có khả năng thích ứng và sáng tạo với những thay đổi liên tục của công việc, nhằm thu được hiệu quả tối đa. Như vậy, phân công lao động trong nền kinh tế mới không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động thông tin là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức. Đi kèm với sự xuất hiện của lao động thông tin là sự biến đổi nhanh chóng trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế. Việc thu hẹp những ngành nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và xu hướng mở rộng, phát triển các loại ngành nghề mới thuộc lĩnh vực hoạt động dịch vụ tất yếu kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số lao động trong các lĩnh vực có liên quan đến thông tin và xử lý thông tin tăng nhanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực phần mềm máy tính, nghiên cứu triển khai, phân tích, đo lường, giáo dục - đào tạo và hàng loạt các ngành khác. Cơ cấu lao động biến đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ chức kinh tế. Như vậy, ngoài việc đem lại những lợi ích to lớn, như thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, tạo những cơ hội có việc làm mới thì nền sản xuất mới, với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu đó. Có thể thấy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nòng cốt là cách mạng công nghệ thông tin đã góp phần làm biến đổi nội dung và tính chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất, lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi. Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động dưới tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin đặt ra một câu hỏi là, phải chăng bản chất của lao động đang có sự thay đổi? Chúng ta biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Công nghệ thông tin đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình. Công nghệ thông tin cùng các công nghệ khác của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống "khoa học - kỹ thuật - sản xuất" thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo. Song, cần phải lưu ý rằng, điều đó không có nghĩa là những tiến bộ của công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng là nguyên nhân duy nhất quyết định sự thay đổi bản chất của lao động. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, bản chất của lao động là sáng tạo, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cái bản chất tốt đẹp đó của lao động đã bị tha hoá. Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào sự phát triển của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mà khẳng định trong nền kinh tế thông tin, lao động đã trở về với bản chất sáng tạo ban đầu của nó thì chưa thoả đáng. Ở điểm này, chúng ta cần phải lưu ý tới quan điểm của thuyết kỹ trị khi thuyết này cho rằng, sự phát triển của kỹ thuật sẽ quyết định toàn bộ sự phát triển của các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong thực tế, điều đó đã không diễn ra đúng như vậy; bởi lẽ, trong xã hội vẫn còn tồn tại sự đối kháng về lợi ích giữa người giàu với người nghèo, giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển. Mâu thuẫn lớn nhất hiện nay của xã hội tư bản, kể cả các nước tư bản phát triển cao nhờ công nghệ thông tin như nước Mỹ, vẫn là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá cao độ của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nhất định trong phân phối và đa dạng hoá các hình thức sở hữu do sự bắt buộc của sản xuất, song bản chất của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn không hề thay đổi. Dù cho một bộ phận dân cư có sự chuyển dời về địa vị xã hội, hoặc được cải thiện về mặt đời sống thì nhìn tổng thể, quyền lực vẫn thuộc về những nhà tư bản lớn, những nhóm người có khả năng thao túng kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế hiện đại, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát triển vượt bậc và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên bình diện quốc tế vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Mặc dù lực lượng sản xuất đã có bước phát triển nhảy vọt về chất, song quan hệ sản xuất vẫn chưa có những thay đổi tương ứng, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất cả ở tầm quốc gia lẫn quốc tế. Tuy một số cường quốc tư bản hàng đầu đã có những điều chỉnh trong chính sách phát triển, nhưng đó vẫn chỉ là những cải biến để thích ứng và mang tính cục bộ. Nhìn tổng thể, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất ở những quốc gia này vẫn tiếp tục được duy trì và đây chính là nguồn gốc của những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư bản. Hơn nữa, ngày nay, sự thống trị của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không còn bó hẹp trong các nước tư bản chủ nghĩa, mà đã bao trùm trên phạm vi toàn cầu, thông qua các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Người nắm giữ các công ty này đều là những tập đoàn tư bản lớn của các nước tư bản phát triển. Họ có đủ tiềm lực để nắm bắt, chiếm lĩnh những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là những thành tựu của công nghệ thông tin. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức ngày nay, ai nắm giữ được thông tin người đó sẽ chiến thắng và giữ quyền thống trị. Các nước tư bản phát triển đang làm được điều đó và do vậy, mâu thuẫn giữa con người với con người trong thời đại thông tin ngày nay chưa thể bị triệt tiêu. Bởi vậy, hoàn toàn không nên ảo tưởng rằng, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại có thể làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Chính ở đây, những nghiên cứu sâu hơn về tác động của công nghệ hiện đại, trong đó có công nghệ thông tin, trong tương quan với các biến đổi xã hội khác là một đòi hỏi cấp thiết. 2. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức Nói đến bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức hiện nay đó chính là việc đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những ảnh hưởng to lớn, mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong vấn đề liên quan đến lao động Việt Nam. 2.1. Cơ hội Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra rất nhiều cơ hội làm việc mới, hứa hẹn khả năng gia tăng năng suất và nâng cao thu thập cho người lao động. Cụ thể: Thứ nhất, Việt Nam hiện vẫn là quốc gia có lợi thế về số lượng lao động trẻ và lao động giá rẻ. Cách mạng 4.0 có thể dẫn đến xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động từ các nước phát triển sang các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam ( Kergroach, 2017). Nếu như xu hướng chuyển dịch này là rõ ràng thì Việt Nam thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam sẽ không ở mức quá cao. Tuy nhiên lợi thế về lao động giá rẻ sẽ mất dần đi khi chúng ta dân số dần bị già hoá. Do vậy về mặt dài hạn, tăng trưởng cần dựa vào sự gia tăng của chất lượng lao động. Thứ hai, nhiều nhà phân tích cho rằng những cơ hội việc làm mới sẽ được tạo ra trong cách mạng 4.0. Đặc biệt nhu cầu đối với những lao động có khả năng kết hợp giữa máy móc với những kiến thức về kỹ thuật điện tử, điều khiển và thông tin hay chính là kiến thức STEM (Tomas Volek; Martina Novotnas, 2017). Cuộc cách mạng này sẽ tạo ra những thay đổi trong cơ cấu lao động giữa các ngành mà ở đó chúng ta có thể kỳ vọng nhu cầu sử dụng lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất truyền thống sẽ giảm đi trong khi nhu cầu lao động trong ngành dịch vụ có sự tăng lên. Sự tăng lên của cầu lao động trong những ngành dịch hứa hẹn sẽ góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra áp lực và đồng thời là cơ hội để lao động phải Việt Nam không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng cũng như tạo áp lực đổi mới lên hệ thống giáo dục đào tạo để có thể đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong thời kỳ mới. Những cơ hội việc làm mới được tạo ra đòi hỏi người lao động phải có trình độ và kỹ năng tương ứng như các kỹ năng giải quyết vấn đề, teamwork, giao tiếp, công nghệ thông tinlà những kỹ năng mà đại bộ phận lao động Việt Nam đang thiếu và yếu. Để đáp ứng được những yêu cầu công việc mới đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân người lao động và đặc biệt sự đổi mới và phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo. Thứ tư, năng suất lao động trong cách mạng 4.0 có xu hướng được cải thiện do việc giảm nhu cầu sử dụng lao động là con người mà thay bằng máy móc và robots. Với công nghệ phát triển, các nhà máy sản xuất có thể tránh được những lỗi phát sinh bởi máy móc do có khả năng phân tích và dự đoán trước các lỗi kỹ thuật. Hiệu quả sản xuất có thể sẽ được cải thiện nhanh hơn do các dịch vụ kho vận được nâng cấp, giảm tiêu hao năng lượng và sử dụng nguyên liệu, từ đó tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp trong khi doanh thu có xu hướng tăng do đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Người lao động lúc này được sử dụng một cách hiệu quả hơn và chỉ cho những công việc mà thực sự đòi hỏi sự có mặt của con người. Năng suất của người lao động tăng lên tạo cơ hội để Việt Nam tạo ra những đột phá trong cải thiện tiền lương và thu nhập cho người lao động. Như vậy nếu Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế này do cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại thì đó sẽ là cú huých rất lớn giúp người lao động có được những công việc làm tốt hơn, giúp cải thiện năng suất và thu nhập của họ 2.2. Thách thức Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại rất nhiều thách thức đối với các quốc gia nói chung và đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam nói riêng. Một là, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp. Như đã phân tích ở trên, Việt Nam vẫn là nước có lợi thế về số lượng lao động, nhưng chất lượng lao động thấp đang là vấn đề báo động đối với nước ta. Do vậy, thách thức lớn nhất đặt ra cho chúng ta là thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các công ty sẽ gia gia tăng nhu cầu sử dụng lao động có trình độ và thay thế dần giữa sử dụng giữa lao động và vốn. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng lao động vẫn là cần thiết nhưng vai trò của người lao động sẽ thay đổi. Các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu nhiều hơn với những lao động có khả năng tích hợp các kiến thức về công nghệ, tự động hoá, thông tin và những kỹ năng mềm quan trọng như teamwork, giao tiếp, giải quyết vấn đề, kỹ năng về công nghệ thông tin trong khi lại cắt giảm nhu cầu đối với các lao động giản đơn. Hai là, thách thức trong chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và thu nhập cho người lao động. Hiện có khoảng 40% lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với năng suất lao động cực thấp. Trong cuộc cách mạng 4.0, một số ngành nghề sử dụng lao động giản đơn sẽ không còn nhưng những ngành nghề mới đòi hỏi lao động có trình độ sẽ ra đời. Trong nông nghiệp, việc tăng cường ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp sẽ góp phần tăng suất, sản lượng, giảm số giờ lao động của lao động nông nghiệp. Nhưng để có thể thực sự tạo ra sự cải thiện đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp, một mặt nó đòi hỏi người nông dân phải có những kỹ năng tay nghề mới, mặt khác lao động nông nghiệp, nông thôn cần có sự chuẩn bị về trình độ và kỹ năng để có thể chuyển dịch thành công từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành sản xuất, lao động giản đơn trong ngành dệt may, giày da và trong ngành điện tử có khả năng rất lớn sẽ bị thay thế khi máy móc, công nghệ và tự động hoá diễn ra trên quy mô rộng (ILO,2018). Do đó, để có thể đáp ứng được với yêu cầu của công việc trong tình hình mới đòi hỏi nguồn nhân lực phải được trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, lao động của chúng ta đa phần là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, các kỹ năng cứng mà mềm cũng thiếu và yếu, vậy nên bài toán chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và thu nhập trở thành một bài toán không đơn giản. Ba là, thách thức trong việc gia tăng bất bình đẳng giữa các tầng lớp lao động. Bất bình đẳng nổi lên giữa các tầng lớp lao động do cơ cấu lao động thay đổi và những bộ phận lao động kém thích nghi với công nghệ mới sẽ bị đào thải. Bất bất bình đẳng vì thế tăng lên giữa các ngành kinh tế, giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn ( Zoltán Rajnai; István Kocsis, 2017). Những nhóm lao động nghèo sẽ là những người bị ảnh hưởng rất nhiều trong bối cảnh của công nghệ số. Cách mạng 4.0 cũng có thể khiến bất bình đẳng về giới tăng lên do phụ nữ vẫn thường được xem là kém thích ứng với sự thay đổi của công nghệ hơn là nam giới. Với tỷ lệ 48% lao động là nữ như hiện nay cho thấy nếu không có những chính sách chuẩn bị và hỗ trợ cho lao động nữ trong bối cảnh công nghệ thì bộ phận lao động này có khả năng bị tổn thương rất lớn. Bốn là, thách thức đặt ra đối với hệ thống giáo dục đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để đảm bảo sự thành công của Việt Nam trong bối cảnh của cách mạng 4.0. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khâu đột phá là đổi mới và nâng cao giáo dục và đào tạo. Nhưng vấn đề đặt ra cho Việt Nam là nền giáo dục đào tạo của chúng ta còn ở trình độ thấp và chậm được đổi mới. Mặc dù công cuộc đổi mới giáo dục nước nhà đã được tiến hành từ khá lâu nhưng chưa đạt được những thành tựu khả quan. Hiện vẫn còn rất nhiều khoảng trống và bất cập trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Bằng chứng là mặc dù nhu cầu với lao động, đặc biệt là lao động trình độ cao là rất cao nhưng các doanh nghiệp lại không thể tìm được những người lao động tốt và đáp ứng được nhu cầu của công việc. Trong khi đó có một thực tế là tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao lại ở mức cao (đã phân tích ở trên). Điều này cho thấy khoảng cách giữa đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học với nhu cầu xã hội là rất lớn. hông chỉ chất lượng đào tạo thấp, hiện còn tồn tại sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo chung, cơ cấu đào tạo theo ngành cũng như sự thiếu hụt lao động ở một số ngành mà thị trường lao động đang có nhu cầu. Đặc biệt, một trong những đặc thù của cách mạng 4.0 là kết nối và chia sẻ dữ liệu. Do vậy việc giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy kỹ sư phải có khả năng tích hợp được nhiều kiến thức bằng phương pháp STEM. Nhưng trong số 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12 trường có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM. Trong bố cảnh mới đòi hỏi người lao động không chỉ có được năng lực phối hợp, tổ chức tốt các công việc và còn phải có được những kỹ năng phối hợp với nhau và có được tư duy đổi mới sáng tạo mới có thể thích ứng tốt với những yêu cầu của công việc. Điều này đòi hỏi phải có những quan điểm về giáo dục và đào tạo mới: đó là liên tục, mở và mang tính khai phóng. Cách tiếp cận của chúng ta đối với quan điểm giáo dục này còn hạn chế. Năm là, Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đáng kể nào trước thời đại của công nghệ số. Tại Hội nghị Industry 4.0 Summit and Expo 2018 tổ chức tại Hà Nội vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Việt Nam đã sẵn sàng đón nhận những thách thức của cuộc cách mạng 4.0 và tận dụng những cơ hội mà nó mang lại. Theo số liệu từ cuộc điều tra khảo sát do Vietnam ICT Summit thực hiện thì có 35,2% các doanh nghiệp Việt đã sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp, IT và trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế Việt Nam lại chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc cách mạng này. Theo báo cáo mới nhất của diễn đàn kinh tế thế giới đánh giá sự sẵn sàng của các quốc gia trước tương lai của nền sản xuất thế giới thì Việt Nam nằm trong các quốc gia “Nascent countries”, tức là thuộc nhóm các quốc gia sơ khai, đứng ở thứ hạng cuối cùng và chưa có chuẩn bị tốt cho cuộc cách mạng này. Theo đó, trong số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam đứng thứ 48 về chỉ số cơ cấu sản xuất và đứng thứ 53 về chỉ số các nhân tố dẫn dắt sản xuất có khoảng cách rất xa với Malaysia (lần luợt xếp thứ 20 và 22 về hai chỉ số này) và Thái Lan (xếp thứ 12 và 35). Đánh giá sự sẵn sàng của một số quốc gia đối với tương lai của nền sản xuất thế giới Tên quốc gia Chỉ số cấu trúc sản xuất Chỉ số các yếu tố dẫn dắt sản xuất Điểm Xếp hạng Điểm Xếp hạng Trung Quốc 8,25 5 6,14 25 Malaysia 6,81 20 6,51 21 Singapore 7,28 11 7,96 2 Ấn Độ 5,99 30 5,24 44 Phillipines 6,12 28 4,51 66 Thái Lan 7,13 12 5,45 35 HongKong 4,52 58 7,45 8 Qatar 3,89 72 5,96 29 Việt Nam 4,96 48 4,93 53 Nguồn: (WEF, 2018) Đáng chú ý là trong các tiêu chí để đánh giá các nhân tố dẫn dắt sản xuất, các yếu tố liên quan đến đổi mới sáng tạo và công nghệ sáng tạo chiếm một tỷ trọng lớn cho thấy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn ở mức thấp (WEF, 2018). Điều này là một trở ngại không nhỏ cho chúng ta khi bước vào cuộc cách mạng 4.0. Tuy vậy, cũng có thể thấy rằng tuy Việt Nam nằm trong các nhóm nước được xếp hạng ở vị trí cuối cùng về mức độ sẵn sàng nhưng vị trí của chúng ta đang khá gần với nhóm nước tiềm năng. Do vậy, trong thời gian tới nếu Việt Nam có những chiến lược đúng đắn, chúng ta có nhiều cơ hội cải thiện năng lực đổi mới và sẵn sàng hơn trước kỷ nguyên số. 3. Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển kinh tế trí thức hiện nay, vấn đề phân công lao động và sử dụng lao động ở Việt Nam có sự thay đổi theo xu thế chung của khu vực và thế giới. Việt Nam hiện là quốc gia sở hữu lực lượng lao động dồi dào với gần 55 triệu lao động. Đại bộ phận lao động của chúng ta là lao động trẻ. Lực lượng lao động Việt Nam qua các năm phân theo nhóm tuổi Cơ cấu(%) Năm Tổng số (nghìn người) 15 - 24 25 - 49 50+ 15 - 24 25 - 49 50+ 2000 38.545,4 8.289,1 25.474,1 4.782,2 21,5 66,1 12,4 2002 40.716,0 8.776,8 26.783,9 5.155,3 21,6 65,7 12,7 2004 43.008,9 9.060,6 27.236,0 6.712,3 21,1 63,3 15,6 2006 46.238,7 9.727,4 29.447,7 7.063,6 21,0 63,7 15,3 2008 48.209,6 8.734,3 29.973,4 9.501,9 18,1 62,2 19,7 2010 50.392,9 9.245,4 30.939,2 10.208,3 18,3 61,4 20,3 2012 52.348,0 7.887,8 32.014,5 12.445,7 15,1 61,1 23,8 2014 53.748,0 7.585,2 32.081,0 14.081,8 14,1 59,7 26,2 2016 54.445,3 7.510,6 32.418,3 14.516,4 13,8 59,5 26,7 Sơ bộ 2017 54.823,8 7.581,1 32.599,2 14.643,5 13,8 59,5 26,7 Nguồn: GSO L

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_doi_moi_phan_cong_va_su_dung_lao_dong_trong_boi_canh.doc
Tài liệu liên quan