Mục lục
PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN II : PHẦN NỘI DUNG 4
I : Một số khái niệm cơ bản 4
1.1 : Sự phát triển tâm lý của trẻ sơ sinh 4
1.2 : Sự phát triển tâm lý của vườn trẻ. 7
1.3 : Sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo. 8
1.4 : Sự phát triển tâm lý của trẻ ở tuổi học sinh nhỏ 9
1.5 : Sự phát triển tâm lý của tuổi thiếu niên 10
II : / Tình hình ly hôn trong nước và trên thế giớ. 14
2.1 : Khái niện ly hôn và kết hôn 14
2.2: Vấn đề ly hôn trong lịch sử 14
2.3 : Tình hình ly hôn trên thế giớ hiện nay 14
2.4 : Tình hình ly hôn ở Việt Nam 16
III : Những tổn thương tâm lý của trẻ khi có bố mẹ ly hôn 17
3.1 : Giai đoạn từ 0-2 tuổi 17
3.2 : Giai đoạn từ 2-3 tuổi 18
3.3 : Giai đoan từ 3-6 tuổi 19
3.4 : Thời kì tiềm ẩn 19
3.5 : Tuổi thiếu niên 20
PHẦN III : PHẦN KẾT LUẬN 22
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3231 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đời sống tâm lý của trẻ sau khi cha mẹ ly hôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước hết nhờ ảnh hưởng của giáo dục và dạy học của người lớn. Muốn hoạt động này phát triển nhanh thì cần phải tổ chức cho trẻ chơi những đồ chơi vì quá trình chơi trẻ sẽ phát hiện ra nhiều thứ, phát hiên ra mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích.
1.2.4 : Sự phát triển ngôn ngữ
ở nứa tuổi này, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào sự dạy bảo của người lớn. Càng thoả mãn được yêu cầu giao tiếp của trẻ nhiều bao nhiêu, ngôn ngữ của càng phát triển phong phú bấy nhiêu, đa dạng bấy nhiêu và ngược lại. Giao tiếp của trẻ càng rộng bao nhiêu thì càng thuận lợi cho sự phát triển bấy nhiêu. Sự phát triển ngôn ngữ ở nứa tuổi này có nét đựac trưng là mang tính”vô điịmh hình “ hay còn gọi là ngôn ngữ “tự kỉ “. Biểu hiện của nó là trẻ điên dại lời nói của mình theo cách riêng không giống với những người lớn mặc dù trẻ có thể có khoảng 1500 từ từ khi lên 3 tuổi. Tuy nhiên tình trạng ngôn ngữ tự kỉ sẽ nhanh chón được khắc phục nếu trẻ được ở trong một môi trường giao tiếp thường xuyên và được dạy dỗ đúnh hướng của người lớn. Tóm lại, sự phát triển ngôn ngữ mạnh ở thời kỳ làm cho các phẩm chất tâm lý khác như tri giác,trí nhớ, tư duy của trẻ có những thay đổi về chất.
1.2.5 : Sự phát triển tư duy
Tư duy của trẻ ở nứa tuổi chủ yếu là tư duy trực quan hành động cụ thể. Nghĩa là, bài toán tư duy được giải quyết ở bình diện bên ngoài, gắn liền với hành động tay chân trên đồ vật. Tư duy này được trẻ hành động trực tiếp với đối tượng với sự giúp đỡ của người lớn. Chính trong quá trình hoạt đông trực tiếp với đồ vật mà trẻ đã khám phấ ra những đối tượng khác nhau có thể bằng những cách thức khác nhau. Trẻ khám phá ra những mối quan hệ của thế giới khách quan. Từ đó giúp trẻ giải quyết đượcnhiệm vụ cụ thể và lắm được hoạt động của tư duy. Như vậy, bằng kinh nghiệm hoạt động của mình, dưới sự dạy dỗ của người lớn tư duy của trẻ em ở nứa này dần dần được gắn thống nhất vơi ngôn ngữ.
1.2.6 : Sự xuất hiện của hình thức sơ khai của tự ý thức.
Vào cuối tuổi vườn trẻ , sự xuất hiện mâu thuẫn giữa trẻ em và người lón. Người lón vẫn tiếp tục coi đứa trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào mình, bị mình điều khiển trong khi đứa trẻ bắt đầu phát triển tính độc lập, bắt đầu muốn tách mình ra khỏi người lớn. Vì thực chất, vào nứa tuổi đã tích luỹ được một số kinh nghiệm và có khả năng hành động một cách độc lập, đã bắt đầu biết tự phục vụ. Do đó ma trẻ bắt đầu biết hướng vào chính mình một cách có ý thức, “cái tôi “ bắt đầu được hình thành. Biểu hiện ở chỗ trẻ muốn tự mình tổ chức hoạt động của mình theo ý của mình, nó bắt đầu “bướng”. Đây chính là “ thời kỳ khủng hoảng của nứa tuổi lên 3”. Do vậy, nếu biết khuyến khích tính độc lập của trẻ một cách hợp lý thì những khó khăn trong quan hẹ giữa trẻ và người lớn sẽ đước khắc phục, khủng hoảng sẽ nhanh chóng đi qua.
1.3 : Sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo.
1.3.1 : Định nghĩa
Trẻ mẫu giáo là trẻ thuộc nứa tuổi từ 3-6 tuổi
1.3.2 : Hoạt động vui chơi là hoạt củ đạo của tuổi mẫu giáo.
ở nứa tuổi này, trẻ mẫu giáo đứng trước mâu thuẫn giữa ý muốn chủ quan và năng lực thực tế của nó. Để giả quyết mâu thuẫn này, trẻ đã tham gia các trò chơi. Vì trong quá trình chơi trẻ có thể làm được mọi cái. Đặc biệt là trò chơi đóng theo vai chủ đề, nó giúp trẻ tái tạo lại được đời sống lao động của người lớn cùng với những quan hệ xã hội của họ. Khác với hoạt động của người lớn, hoạt động vui chơi của trẻ không nhằm tạo ra sản phẩm cụ thể nào cả mà chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu được chơi của trẻ. Và nhu cầu đó được thoả mãn khi trẻ bắt đầu chơi và kết thúc khi trò chơi kết thúc. Mỗi trò chơi đóng chủ đề đều mô phỏng lại một mối quan hệ nào đó giữa người với người. Do đó cần có sự tham gia của nhiều đứa trẻ cùng chơi. Để trò chơi được diễn ra thuận lợi thì đòi hỏi cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên và phải biết tuân thủ luật lệ của trò chơi, các kĩ năng chơi. Như vậy là qua trò chơi, trẻ phân biệt được ý muốn chủ quan và đâu là cái cần phải tuân theo. Nhờ đó mà trẻ phân biệt được quyền hạn và nghĩa vụ của con người trong xã hội. Do đó mà trẻ càng tham gia vào nhiều trò chơi bao nhiêu, càng giúp trẻ phát triển về mặt thể lực, trí tuệ và nhân cách bấy nhiêu.
1.3.3 : Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo.∟
Nhờ tích luỹ được một số kinh nghiệm, trẻ mẫu giáo bắt đầu chuyển từ tư duy sang thành động sang tư duy trực quan hình tượng. Tức là bài toán tư duy bắt đầu được giả quyết ở bên trong. Các hành động không chỉ mang tính vật chất cụ thể mà được xem ngầm trong óc dựa trên hình ảnh, biểu tượng mà trẻ lĩnh hội được từ trước đó. Tư duy trực quan hành động là mở đầu của tư duy cao hơn là tư duy khái niệm hoàn toàn tách khỏi hoạt động trực tiếp mà chỉ dựa vào những khái niệm, tư duy để giả quyết vấn đề.
1.3.4 : Sự phát triển của tự ý thức
Biểu họên của trự ý thức của trẻ là nó muốn làm theo ý nó. Sang tuổi mẫu giáo, nó phát triển cao hơn thể hiện việc trẻ bắt đầu biết tự đánh giá, tự yêu cầu mình để sau này nó phát triển cao hơn.
1.3.5 : Sự phát triển ngôn ngữ
Giáo dục trẻ phải chú ý tới việc giáo dục ngôn ngữ thông qua việc kể cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhớ lại bằng ngôn ngữ của trẻ vốn từ của trẻ mẫu giáo khoảng 3,4 – 10 nghìn từ và việc sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ để hết sức thành thạo. Nhờ đó mà chức năng tâm lý cấp cao ngày càng phát triển cao hơn.
1.3.6 : Sự phát triển biểu tượng
Việc trẻ biết thay thế cái này bằng cái khác là nguyên nhân phát triển trí tưởng tượng ở trẻ. Đầu tiên trẻ tưởng tượng gắn liền với tình hống thực, hoạt động thực. Qua trò chơi theo chủ đề, trẻ bắt đầu xây dựng được những biểu tượng mới từ những biểu tượng cũ. Như vậy trí tưởng tượng của trẻ được phát triển. Trí tưởng tượng không quá gắn trực tiếp với những hoạt động cụ thể, tình huống cụ thể để tạo nên những tình huống mới trong đầu.
1.3.7 : Sự phát triển tình cảm
Do tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề ( có những tình cảm vui buồn ... ) mà làm phát triển tình cảm ở trẻ, đặc biệt là tình cảm đạo đức. Có thể nói: Trẻ mẫu giáo sống bằng tình cảm. Do đó trẻ rất sợ khi nó thấy mình bị ghét bỏ, và thấy mình hạnh phúc khi được yêu thương.
1.4 : Sự phát triển tâm lý của trẻ ở tuổi học sinh nhỏ
1.4.1 : Định nghĩa
Tuổi học sinh nhỏ là trẻ em thuộc nứa tuổi từ 6- 12 tuổi
1.4.2 : Đặc điểm cơ thể
Có sự thay đổi cơ bản về những đực điểm giả phẫu sinh lý. Bộ xương tiếp tục phát triển tạo ra độ mền dẻo, linh hoạt hơn trong cử động, cơ tim phát triển mạnh .Trọng lượng của nảo tăng bằng người lớn, tạo ra cho sự hình thành chức năng tâm lý cấp cao.
1.4.3 : Hoạt động học tập
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của tuổi học sinh nhỏ. Hoạt động học tập không chỉ đòi hỏi một trình độ phát triển trí tuệ cho phép tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ sảo mà cần một năng lực, ý chí nhất định giúp học sinh tự kiềm chế bản thân, vượt qua khó khăn, cố gắng thực hiên những yêu cầu cần thiết mà bản thân hoạt động đòi hỏi. Đứa trẻ cần phải hoà nhập vào môi trường học tập mới, ngoài giao tiếp với cha mẹ, người thân trẻ còn giao tiếp với giáo viên bạn bè. nghĩa là trẻ cần phải có sự “ chín muồi rrong học đường” hay còn gọi là tâm lý sẵn sàng đi học.
Hoạt động học tập có đặc điểm là hoạt động của nó chính là các khái niệm khoa học học cơ bản. các quy luật khoa học và các phương thức chiếm lĩnh nó. Do đó, trong quá trình hoạt động, trẻ một số khó khẳntở ngại nhất định. Đó là việc thay đổi chế độ sinh hoạt và thay đổi môi trường hoạ động. Giờ đây, trẻ được học tập , sinh hoạt trong một tập thể lớp có mục đích chung dưới sự dạy dỗ của thầy giáo cô giáo.
Như vậy, ở lứa tuổi này xảy ra một bước chuyển tiếp từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Bước chuyển này thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc chủ yếu vào độ chín muồi học đường. Mà độ chín muồi học đường lại phụ thuộc vào hoàn cảnh, giáo dục cụ thể của trẻ em trước đó (gia đình, lớp mẫu giáo ) .
1.4.4 : Sự páht triển tư duy
ở lứa tuổi này bắt đầu diễn ra một sự phát triển toàn diện về các quá trỡnh nhận thức. Trong đó đáng kể nhất là sự phát triển của tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
Từ lớp 1- 3 : đây là những năm đầu của tiểu học nên những tri thức khoa học mà các trẻ tiếp thu và nhận được rất ít. Do đó mà tư duy trực quan hình tượng vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tức là trẻ đã bắt đầu có cách giả quyết ở bên trongnhwng vẫn còn gắn liền với những hành động cụ thể.
Từ lớp 4-5: Bắt đầu hình thành năng lực tư duy bằng khài niệm. Nhưng đây cũng chỉ là bước đầu hình thành nhờ vào những biểu tượng đã tích luỹ được trước đây thông qua sự phân tích tổng hợp bằng trí tuệ.
1.4.5 : Sự phát triển một số phẩm chất nhân cách.
Sự phát triển tự ý thức đã có những bước tiến hơn hẳn ở trẻ mẫu giáo. Do đứa trẻ đã lắm được một số tri thức khoa học. Từ đó các em tự đánh giá mình và người khác dựa trên cơ sở kiến thức khoa học ở mức độ nhất định. Tuy nhiên tri thức khoa học đó còn thấp nên khi đánh giá mình và người khác thì trẻ thường dựa vào người có uy tín với mình nhất đối với nó.
Sự phát triển tính cách có chủ định có phát triển mới có thể huy động khả năng vượt qua khó khăn của chủ thể.
ở lứa tuổi này, tình cảm cũng có bước tiến mới. Nó dần dần thoát khỏi tình huống cụ thể. Giữa nhận, xúc cảm, tình cảm, đứa trẻ đã có sự tổng hợp hài hoà.
1.5 : Sự phát triển tâm lý của tuổi thiếu niên
1.5.1 : sự phát triển tâm lý của thiếu niên
1.5.1 : Định nghĩa
Tuổi thiếu niên là trẻ em thuộc lứa tuổi từ 11-12 và 14-15
1.5.2 : Sự phát triển sinh lý
Đây là lứa tuổi sinh lý phát triển mạnh, bồng bột nhưng lại có hiện tượng mất cân bằng được biểu hiện.
Trong sự phát triển nhanh hơn hệ cơ và hệ xương phát triển nhanh hơn hệ cơ. Do đó mà nhiều trẻ ở lứa tuổi này có sự mất cân đối giữa chiều cao và can nặng.
Các tuyến nội tiết phát triển của hệ tim mạch dung tích tích của tim nhanh hơn dung tích của mạch máu gây ra sự mất cân bằng và nguyên nhân gây rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch biểu hiện tim đâpj nhanh, huyết áp cao, hay chóng nhức đầu, sức làm suy giảm.
Sự phát dục được hoàn thiện dần, làm cho tuổi dậy thì này cảm thấy mình như người khác. Nữ thì có kinh nguyệt nam xuất tinh lần đầu. Đây là cải yếu tố mặt sinh lý khiến cho thiếu niên cảm tưởng như mình đã lớn.
1.5.3 : Sự phát triển về mặt xã hội
ở lứa tuổi này, trẻ có sự thay đổi quan trọng về mặt xã hội, đó la sự thay đổi về môi trường học tập (từ trường tiểu học sang trung học cở ). Mà hoạt động ở hai môi trường này lại khác nhau căn bản. ở trường tiểu học, trẻ chỉ tiếp xũ với một giáo viên duy nhất trong mọi môn học. Trong khi đó, ở trường trung học cơ sở thì mỗi môn học là một giáo viên với những phong cách, trình độ chuyên môn và giao tiếp khác nhau. Do vậy mà đòi hỏi các em phải có tinh thần tự giác rất cao, có khả năng thích nghi nhanh để có thể tiếp thu tốt tất cả các môn học
Về phía gia đình, trẻ em có một vị thế mới trong gia đình. Nhiều gia đình, trẻ em đã tham gia lao động góp phần giải quyết khó khăn về tăng thu nhập cho gia đình. Không ít em, bây giờ đã hơn bố mẹ về trình độ học vấn. Điều đó xuất hiện ở thiếu niên nguyện vọng muốn làm người lớn và được đối xử như người lớn.
Tuy nhiên, các em vẫn là học sinh, và còn phải chịu phụ thuộc vào bố mẹ. Do vậy mà người lớn vẫn coi các em là trẻ con. Do đó mà nảy sinh mâu thuẫn giữa thiếu niên và người lớn. Để muốn khẳng định mình là người lớn muốn người khác coi mình là người lớn, tôn trọng mình là người lớn, trẻ thường tỏ ra ngang bướng bất cần.
Để giả quyết mâu thuẫn này, một mặt người lớn phải hiểu được những thay đổi cơ bản của các em và thông cảm với những biểu hiện “khác lạ “ của các em. Người lớn phải tôn trọng tính độc lập, ý thức của trẻ, coi trẻ là một cộng tác trong mọi hoạt động. Đồng thời người lớn cũng cần trở thành người bạn lớn của trẻ. Mặt khác cần giáo dục cho trẻ hiểu chính mình để các em có những ứng xử phù hợp.
1.5.4 : Hoạt động học tập
Hoạt động học tập không còn là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi này. Các em không chỉ đơn thuần là để chiếm lĩnh lấy tri thức mà là mọi tình huống giao tiếp với thầy cô bạn bè, mọi tình huống có nhiều ý khác nhau.
Nội dung học tập được mở rộng và nâng cao, việc tiếp thu nhiều khi vượt qua giới hạn nhà trường, ngoài chương trình học, mang tính độc lập và ý nghĩa rõ ràng.
Động cơ học tập, hứng thú học tập được hình thành, phát triển mạnh hơn lứa tuổi học sinh nhỏ. Đã có sự phân hoá về hứng thú học tập đối với từng môn.
1.5.5 : Hoạt động giao tiếp
a- Giao tiếp với bạn bè
Nhu cầu giao tiếp củab thiếu niên phát triển rất nhanh, nó trở thnàh hoạt động chủ đạo của thiếu niên. Và đối tiếp giao tiếp nổi trội mà các em hướng tới chính là bạn bè cùng trang lứa. Trẻ ở tuổi này thích giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi, vì bạn bè là người hiểu các em nhiều nhất do ở cùng một độ tuổi, cùng có những đặc điểm sinh lý, cùng học tập, cùng sinh hoạt, vui chơi giải trí nên các em thường có những tâm sự, tình cảm giống nhau, dễ bộc bạch tâm sự dễ tìm thấy sự đồng cảm với nhau. Mặt khác, người lớn luôn coi thiếu niên là trẻ con nên thiếu niên rất ít khi trao đổi với ông bà, cha mẹ anh chị. và các em lại tìm đến cấc bạn cùng lứa tuổi.
Sự giao tiếp của các em vượt qua ngoài phạm vi học tập, nó được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động. các em chia sẻ với nhau những rung cảm mới của thởi kì phát dục, những dung cảm này sinh trong khi tham gia các mối quan hệ xã hội, trong thưởng thức nghệ thuật ...
Tuy nhiên, nhu cầu trao đổi của thiếu niên với những dung cảm mới có tính chọn lọc, thông thường phân loại bạn khác nhau. (Đó là bạn bình thường đó là những người bạn cung lớp cùng xóm...); Bạn thân ( đó là những người bạn cùng sở thích hứng thú, quan niệm sống ...) và bạn chí thân ( đó là những người bạn sống chết có nhau). Trong các mối quan hệ thiếu niên cho rằng quan hệ với bạn bè là quan hệ quan trọng nhất, đặc biết là bạn chí thân. Sự bất hoà trong quan hệ với bạn bè sẽ đem lại cảm xúc nặng nề cho trẻ.
b- Giao tiếp với bố mẹ
Sau nhu cầu giao tiếp với bạn bè là nhu cầu giao tiếp với bố mẹ. Mặc dù không gắn bó chặt chẽ với bố mẹ như trước nữa nhưng ở nứa tuổi này. Các em quan hệ với bố mẹ nhất là khi vấn đề cần đến sự hiểu biết sâu rộng, kinh nghiệm. Tuy nhên, do khuynh hướng thích độc lập, tự chủ mà làn cho khoảng cách giữa cha mẹ và con cái ngày càng xa. Hơn nữa, do sự khác biệt về nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần giữa bố mẹ và con cái cũng làm tăng khoảng cách giữa bố mẹ và con cái. Từ đó làm cản trở, gây khó khăn trong giao tiếp giữa họ.
Mặc dù vậy, trẻ vẫn cần sự yêu thương, chăm sóc sự chỉ bảo ân cần của bố mẹ.do đó bố mẹ cần phải tôn trọn những mong muốn, nguyện vọng của các em thỡ từ đó các em sẽ tiếp nhận những lời khuyên bảo. Đồng thời để hiểu biết các em đầy đủ hơn.
1.5.6 : Sự phỏt triển nhõn cỏch của thiếu niờn.
a-Những đặc điểm của tự ý thức, tự đáng giá.
Tự ý thức là một trong những đặc điểm nổi bật của nhân cách các em không những có khả năng phả ánh thế giới tự nhiên, xã hội một cách đầy đủ, mà còn biết xem xét chính bản thân mình cũng như các mối quan hệ giữa bản thân và môi trường một cách toàn diện. Các em đã có ý htức được mình một nhân cách độc lập, có quyền được tin cậy, được tôn trọng như một người lớn. Tự ý thức của các em được thể hiện ở chỗ các em tự ý thức một cách tương đối đầy đủ về cái tôi và những đặc điểm cá tính của mình. Trẻ ý thức đựơc mình trong thời điểm hiện tại, có ý thức cố gắng để trở thành một người như thế nào đó và cố gắng trở thành một người như thế nào cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Thiếu niên đã biết xem sét lại, đánh giá các mối quan hệ của mình với những người xung quanh. Trẻ nhận ra rằng mối quan hệ của mình trước đây với những người xung quanh có chỗ không hợp lý. Do đó trẻ yêu cầu người lớn phải tôn trọng mình, không nên áp đặt mình như còn là trẻ con. Như vậy đã xây dựng quan niêm đúng sai theo quan điểm của mình.
Khả năng tự đánh giá về mình và đánh giá về người khác cũng là đặc điểm nổi bật của nhân cách của trẻ ở lứa tuổi này. Thiếu niên thường đánh giá mình cao hơn so với hiện thực các em thích thổi phồng những khả năng , những ưu điểm của mình. Các em tự xem mình là nhân vật có tầm quan trọng nhấ, mọi người phải suy nghĩ và hành động như chúng. Khác với khả năng tự đánh giá bản thân, khả năng tự đánh giá người khác của các em đầy đủ và chính xác hơn. Các em thường đán giá bạn bè và những người xung quanh cả về nôi dung lẫn hình thức bên ngoài. Như vậy sự đánh giá về người khác của các em càng ngày càng đi vào chiều sâu và nội dung đánh giá thì rất toàn diện và phong phú. Các em không chỉ đánh giá bạ bè cùng lứa tuổi mà con thướng xuyên quan sát đánh giá những người xung quanh, đặc biệt là bố mẹ và thầy cô. Không như ở các lứa tuổi trước, các em luôn coi những điều bố mẹ nói là đúng, mà bây giờ các em dần nhận biết được những điều đúng, nhiều điều sai trong các mối quan hệ, cách ứng sử, thái độ của họ đối với công việc, đối với mọi người. Tuy nhiên do thiếu kình nghiệm mà sự đánh giá về người khác của em tương đối khắc khe, cứng nhắc và thậm chí còn mang tính cực đoan. Do đó mà nó ảnh hưởng đến tình cảm, thái độ, quan hệ của các em đối với những người được chúng đánh giá.
b-Sự phát triển ý trí
ý chí của các em đã có thay đổi và mang màu sắc mới. Những phẩm chất ý chí của thiếu niên, đó là sức mạnh, tính can đảm, lòng dũng cảm. Sức chịu đựng gian khổ, tinh thần vượt khó khăn để đạt được mục đích. Để tỏ rõ ý trí của mình, thiếu niên thường có những hành động mạo hiểm, liều lĩnh, đôi khi bất chấp cả nguy hiển cho bản thân. Đối với nam thiếu niên thì sức mạnh của “ người đàn ông thực thụ “ thường là phẩm chất quan trọng các em thích đấu tranh, thích đọ sức, thậm chí thích gây gổ để chứng minh sức mạnh của mình so với người khác. các em phát triển sức mạnh và ý trí chí của mình bắng cách luyệ tập các môn thể dục, thể thao. Ngoài ra, thiếu niên cũng thường chú ý tới phẩm chất ý chí của bạn bè và thường đánh giá cao lòng dũng cảm, ý chí vượt qua mọi thử thách để đạt được mục đích. Tuy nhiên, sự sùng bái, ngưỡng mộ các giá trị này ở thiếu niên không phải theo chiều hướng nphù hợp với những giá trị chuẩn mực của xã hội.
II : / Tình hình ly hôn trong nước và trên thế giớ.
2.1 : Khái niện ly hôn và kết hôn
-Kết hôn là chính thức lấy nhau thành vợ chồng
-Ly hôn là vợ chồng bỏ nhau khi mà toà án cho phép huỷ cuộc hôn nhân đã được pháp luật công nhận.
2.2: Vấn đề ly hôn trong lịch sử
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của các tế bào lành mạnh. Dù vậy, ở giai đoạn phát triển của xã hội nào, gia đình luôn đối mặt với những vấn đề cam go liên quan đến sự tồn tại và phát triển: ly hôn, ly thân, bạo lực, ngược đãi bất công.
Vấn đề ly hôn đã tồn tại rất lâu và thái đổi qua nhiều hình thái ở thời kỳ bộ tộc, thị lạc thì vấn đề chưa xuất hiện khái niệm ly hôn. Đến gia đình Panaluan đã xuất hiện mô hình hôn nhân theo cặp, các cặp kết hợp với nhau có sự chia rẽ một cách tự phát do thoả mãn hay không thoả mãn mối quan hệ tính giao. Dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến chỉ duy nhất người đàn ông mới có quyền ly hôn. Sau cách mạng tư sản, người phụ nữ mới có quyền bình đẳng về việc kết hôn hay ly hôn khi không còn mong muốn chung sống với người đàn ông mà mình từng kết hôn. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền này không được thực hiện một cách thoả đáng do người phụ nữ phải phụ thuộc rất lớn vào người đàn ông.
ở xã hội Việt Nam, dưới chế độ phong kiến, quyền kết hôn, ly hôn cũng thuộc quyền của người đàn ông, họ có thể lấy và tự bỏ những người phụ nữ mà mình chung sống, sự can thiệp của luật lệ không chú trọng đến quyền lợi của người phụ nữ. Đến năm 1986, luật hôn nhân và gia đình mới được ban hành. Kể từ đó, ly hôn được công nhận bằng một quyết định của toà án có hiệu lực. Tóm lại, nếu kết hôn là cơ sở tạo nên gia đình thì ly hôn làm tan vỡ gia đình và gây ra các tác động tiêu cực đến mọi cá nhân, trong đó trẻ em là đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi và chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc nhất.
2.3 : Tình hình ly hôn trên thế giớ hiện nay
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế xã hội đẫ những tác động không nhỏ làm thay đổi những quan niệm về hôn nhân gia đình, về kết hôn và ly hôn. Đặc biệt là khi người phụ nữ được thừa nhận quyền kết hôn và quyền ly hôn thì đã làm tăng tỉ lệ ly hôn trên thế giới. Chúng ta có thể đơn cử, ở Pháp vào đầu thập niên 90 của thế kỉ 20, chỉ có 1 vụ hôn trên 20 đám cưới(tức là chiếm 0.5% ), thì đến thập niên này đã có tới 1/6 đám cưới chấm dứt bằng một vụ ly hôn.
ở Na Uy, vào năm 1993 cứ , một trăm phụ nữ đã kết hôn thì có tới 13 người ly hôn. Đặc biệt là ở Mỹ, đây là nước dẫn đầu số vụ ly hôn trong những năm gần đây. Vào năm 1998, ở Mỹ có khoảng 2.4 triệu người kết hôn thì có tới 1.2 triệu người ly hôn, có nghĩa là 50% số vụ kết hôn có kết cục bằng một cuộc ly hôn.
Như vậy, ở các nước phương tây tỉ lệ ly hôn rất cao và ngày càng tăng nhanh. Còn ở các nước đang phát triển thuộc châu á và châu Phi, dưới tác động của những hệ tư tưởng, các triết lý tôn giáo tập tục ... sự bên vững của gia đình vẫn tương đối đảm bảo. Tuy nhiên, do thủ tục ly hôn dễ dàng mà làm cho tỉ lệ ly hôn tăng từ 0.03% năm 1978 tới 0.167% năm 1994. Như vậy, cả phương đông lẫn phương tây, tỉ lệly hôn gia đình gia tăng và trở thành xu hướng không tránh khỏi. Đặc biệt do sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, các giá trị về gia đình không được nhìn nhận một cách đúng đắn đã làm cho tỉ lệ ly hôn không dừng lại ở đó.
Trên cơ sở phân tích về tình trạng ly hôn ở các quốc gia phương tây, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân mang tính xã hội của hiện tượng này. Sự thay đổi và nảy sinh những quan niệm mới về hôn nhân và gia đình, sự giả phóng phụ nữ, tác động của cuộc cách mạnh tình dục, sự chênh lệnh (trình độ học vấn, điều kiện kinh tế ) trong hôn nhân.
Nuyên nhân thứ nhất của ly hôn là sự thay đổi và nảy sinh những quan niệm mới về hôn nhân và gia đình. Do nền kinh tế phát triển, hoạt động nghề nghiệp mang tính chuyên môn hoá cao và sự đóng góp của nhiều thiết chế xã hội hỗ chợ gia đình như giáo dục, y tế, giải chí ... đã dần thay thế chức năng mà trước đây màchỉ gia đình mới có thể đảm nhận. Do làm việc ở những vị trí có tính ổn định cao nên người ta cũng thấy rằng gia đình không còn là nơi duy nhất để họ cư trú, dần dần vai trò của gia đình được đánh giá thấp đi, sự thuỷ chung của hôn nhân không còn được coi trọng, trách nhiệm đối với con cái có cách nhìn khác. Thêm vào đó là sự cho phép của pháp luật về ly hôn nên người ta có thể kết hôn khi nào người ta cảm thấy cần thiết và ly hôn khi muốn.
Nguyên nhân thứ hai, ngày nay người phụ nữ được học hỏi, có nhiều hiểu biết về pháp luật, về quyền lợi, thì họ có xu hướng thoát khỏi những hạn chế ràng buộc quá sức chịu đựng của họ trong gia đình. Hơn nữa, họ có thể độc lập về kinh tế nên ly hôn có thể là giả pháp của hôn nhân nếu cuộc hôn nhân đó không phù hợp.
Nguyên nhân thứ ba, cuộc cách mạng tình dục có thể là nguyên nhân chính dẫn đến việc gia tăng tỉ lệ ly hôn. Sự giải phóng tình dục nói riêng và quyền tự do thái quá của con người nói chung đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan có điều kiện phát triển, người ta chú trọng đến quyền lợi của mình, sự hy sinh cho người khác không được đánh giá cao, quan hệ vợ chồng thuỷ chung không còn đựơc coi trọng, trách nhiệm đối với con cái cũng không được như trước. Từ đó chỉ cần một mâu thuẫn nhỏ một xô xát thường nhật cũng dẫn đến ly hôn.
Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến ly hôn cũng có thể do ngoại tình, đánh đập, ngược đãi, mâu thuẫn gia đình...
Tóm lại, có hai nguyên nhân chính gây đến ly hôn: Đó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Về chủ quan đó là tình trạng sức khoẻ, kinh tế,công việc, nhận thức, quan điểm của cá nhân về vấn đề hôn nhân và ly hôn. Nguyên nhân khách quan: Đó là những tác động của môi trường sinh sống và làm việc, của các chính sách và điều kiện của pháp luật lên sự bền vững của hôn nhân.
2.4 : Tình hình ly hôn ở Việt Nam
Theo quy luật chung của tình hình ly hôn trên thế giới, ở Việt Nam ly hôn tồn tại như một quyên lực của người đàn ông trong suốt thời gian dài. Chỉ sau khi luật hôn nhân và gia đình được ban hành vào năm 1986 thì ly hôn mới thực sự được nhìn nhận với con mắt khách quan hơn đối cả nam và nữ.
Dưới ảnh hưởng củav nho giáo truyền thống, của các luật tục, vấn đề hôn nhân và gia đình của Việt Nam vốn được coi trọng nên gia đình hôn nhân ở Việt Nam có tính ổn định cao. Song vào những năm cuối của thế kỉ 20, tình trạng hôn nhân Việt Nam có sự thay đổi.
Năm 1992-1993 tỉ lệ ly hôn của nam giới là 0.33% nữ là 2.38% thì năm 1994 cả nước đã có tới 34376 cặp vợ chồng đệ đơn xin ly hôn, 1995 là 35684 cặp, năm 1996 lại lên tới con số 44036 cặp tăng hơn 900 vụ so với năm 1995. Theo tài liệu vụ tổng hợp toà án nhân dân tối cao năm 1997, trên cả nước có tới37179 đơn xin ly hôn. Con số tăng tới 55419 vào năm 1999 số đơn xin ly hôn giảm xuống con số còn 50294 nhưng nó lại tăng lên rất nhiều vào năm 2000. Chỉ riêng quý I năm 2000, cả nước có tới 15419 lá đơn xin ly hôn.
Cũng theo số liệu tổng hợp của ngành toà án, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đời sống tâm lý của trẻ sau khi cha mẹ ly hôn.doc