Lời mở đầu 1
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT CHUNG 3
A.KHÁI NIỆM VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH ĐỐI TƯỢNG KIỂM TOÁN 3
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐỐI TƯỢNG KIỂM TOÁN. 3
II.CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH ĐỐI TƯỢNG KIỂM TOÁN 4
1. Thực trạng hoạt động tài chính- Đối tượng chung của kiểm toán. 4
2. Tài liệu kế toán- Đối tượng cụ thể của kiểm toán. 5
3. Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính- Đối tượng cụ thể của kiểm toán. 6
4. Hiệu quả và hiệu năng - Đối tượng cụ thể của kiểm toán. 7
B.CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN 7
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN 7
II. HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN. 9
1. Các phương pháp kiểm toán chứng từ. 9
1.1.Kiểm toán cân đối. 9
1.2.Đối chiếu trực tiếp. 10
1.3.Đối chiếu logic. 10
2. Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ. 11
2.1.Kiểm kê. 12
2.2.Thực nghiệm. 14
2.3.Điều tra. 14
36 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đối tượng và phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên đòi hỏi KTV phải biết phân vùng sai sót, thường phải dùng chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc điển hình từ đó để suy rộng cho quần thể mẫu.
Phương pháp cân đối này chỉ áp dụng cho các đối tượng hàm chứa các quan hệ cân đối.
1.2.Đối chiếu trực tiếp
Đối chiếu trực tiếp là so sánh về mặt lượng trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kiểm toán. Đối chiếu này thường trong các trường hợp sau:
- Đối chiếu giữa số cuối kì và số đầu năm hoặc giữa các kì trên bảng CĐKT (đối chiếu ngang hay dọc).
- Đối chiếu giữa số dự toán, kế hoạch với số thực tế .
- Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kì trên các hứng từ khác nhau.
- Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ nhưng được bảo quản, lưu giữ ở các nơi khác nhau.
- Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với các trị số của các yếu tố cấu thành các chỉ tiêu đó.
- Đối chiếu số liệu giữa các đơn vị trong cùng ngành, cùng loại hình kinh doanh hay cùng lãnh thổ với quy mô tương đương. Hoặc so sánh giữa các chỉ tiêu của từng đơn vị cá biệt với chỉ tiêu trong ngành.
- Đối chiếu giữa số phải thu, phải trả và số xác nhận của con nợ, chủ nợ.
Mỗi nội dung trên đều đạt được những mục đích nhất định cho nên phương pháp này được sử dụng rất rộng rãi nhưng chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một chuẩn mực (cùng nội dung, phương pháp, đơn vị tính...) và trong cùng khoảng thời gian điều kiện như nhau. Chính vì vậy trong nhiều trường hợp để tăng độ tin cậy của kết luận kiểm toán, KTV còn phải sử dụng đến phương pháp kiểm toán logic.
1.3.Phương pháp đối chiếu logic.
Là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác nhau. Chẳng hạn:
- Khi tài khoản tiền giảm đi đáng kể thì có thể xảy ra các trường hợp:
+Nếu công ty xuất tiền để mua nguyên vật liệu (đối với đơn vị sản xuất) hay để mua hàng hoá (đối với đơn vị kinh doanh thương mại) thì các tài khoản vật tư, hàng hoá phải tăng lên.
+ Nếu số tiền mặt xuất ra để chi trả các khoản phải trả (cho người bán, cho CNV, nộp lệ phí cấp trên...) thì các khoản phải trả giảm đi.
+Nếu tài khoản TGNH được chuyển khoản đẻ mua sắm TSCĐ, đầu tư XDCB...thì các khoản giá trị TSCĐ hoặc chi phí đầu tư XDCB tăng lên.
- HTK giảm có thể dẫn đến tiền mặt, TGNH hoặc các khoản phải thu phải tăng. Xu hướng biến động giữa HTK và các khoản mục liên quan nói trên là ngược nhau và có thể là không đồng nhất trên từng khoản mục....
Cách đối chiếu này rất hữu ích giúp KTV phát hiện nhanh nhất các gian lận, sai sót khi tiến hành xem xét khái quát các mối quan hệ kinh tế- tài chính thuộc đối tượng kiểm toán. Trên cơ sở đó định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện những mâu thuẫn hay xu hướng biến động của các chỉ tiêu liên quan.
Như vậy, khi sử dụng hai phương pháp kiểm toán đối chiếu trực tiếp và đối chiếu logic, một công việc chung và mang tính bắt buộc mà KTV phải thực hiện là đối chiếu, soát xét tài liệu trên các phương diện khác nhau. Chính vì vậy trong kiểm toán, sự kết hợp hai phương pháp này gọi là “phương pháp rà soát tài liệu”. Song trong thực tế phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn thông qua việc hình thành ba loại trắc nghiệm: Trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích trong KTTC.
Trong thực tế, KTV thường tiến hành thực trạng hoạt động tài chính đã có cơ sở dẫn liệu là các sổ sách, BCTC của đơn vị...Do đó kiểm toán chứng từ được sử dụng rất phổ biến và được coi là phương pháp chủ đạo có ý nghĩa then chốt quyết định đến chất lượng của kết luận kiển toán. Để phương pháp này thực sự phát huy tác dụng thì việc vận dụng nó phải được thực hiện qua hai công đoạn cụ thể là phân tích tổng quát và kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư tài khoản.
2. Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ.
Nếu như các phương pháp kiểm toán chứng từ được thực hiện trong trường hợp đối tượng kiểm toán là thực trạng hoạt động tài chính được phản ánh trong hệ thống kế toán thì phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ lại đặc biệt phát huy tác dụng khi KTV không thể hoặc lượng thông tin phục vụ các nội dung kiểm toán là chưa đủ hoặc không được phản ánh trên hệ thống sổ sách, BCTC của đơn vị. Với loại phương pháp này bao gồm ba phương pháp: Kiểm kê, thực nghiệm và điều tra.
2.1.Kiểm kê.
Kiểm kê là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản bằng cách cân, đo, đong, đếm nhằm tìm kiếm các thông tin về số lượng, giá trị của tài sản đó.
Trong kiểm kê, những yếu tố về thời gian và không gian cũng như quy trình kiểm kê có ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả kiểm kê. Trong mọi trường hợp để phát huy tác dụng và nâng cao hiệu quả kiểm kê, quy trrình chung cần được thực hiện từ khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc kiểm kê.
Trong giai đoạn chuẩn bị căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời hạn kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng kiểm kê nói riêng và của kiểm toán nói chung.
Thực hành kiểm kê theo đúng mục tiêu và ghi chép đầy đủ theo từng mã cân hay lô hàng...khi đó phiếu mã cân hay phiếu kiểm kê trở thành chứng từ kiểm toán.
Kết thúc kiểm kê cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm với phiếu kiểm kê, bảng kê chênh lệch và bảng kê so sánh về kết quả kiểm kê.
Bảng kê so sánh về định mức dự trữ
Loại vật tư tài sản (Mã hiệu)
Số liệu
kế toán
Định mức
dự trữ
So sánh
Nhận xét
Bảng kê so sánh về mức hao hụt trong định mức.
Loại tài sản
Đơn giá
Số liệu
so sánh
Số liệu thực tế
Định mức hao hụt
Chênh lệch
So với định mức
Ghi chú
Số lượng
Thành tiền
Với kiểm kê tiền mặt, kết quả kiểm kê thể hiện trong hai bảng kê chênh lệch và xác minh như sau.
Bảng kê chênh lệch
Chứng từ
Nội dung
Số tiền
Ghi
chú
Số hiệu
Ngày tháng
Sổ sách
Thực tế
Chênh lệch
Bảng kê xác minh
Chứng từ
Nội dung
Số tiền
Đối tượng xác minh
Ghi chú
Số hiệu
Ngày tháng
Trực tiếp
Gián tiếp
Trong kiểm kê cần chú ý, căn cứ vào tính chất các loại vật tư, tài sản cần kiểm kê để lựa chọn loại hình kiểm kê tối ưu nhất:
- Tổng kiểm kê hay kiểm kê toàn diện (Ví dụ :Tiền mặt).
- Kiểm kê điển hình.
- Kiểm kê chọn mẫu.
Như vậy kiểm kê với kỹ năng kiểm tra đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh (thông qua thực tế để khẳng định số liệu trên sổ sách), nó luôn gắn chặt vào quy trình chung của kiểm toán, nhất là ngoại kiểm. Do tính ưu việt và lợi thế của nó, kiểm kê thường được áp dụng với việc kiểm kê tiền mặt, hàng hoá, nguyên vật liệu, TSCĐ, tài sản thế chấp, ...
2.2.Thực nghiệm
Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra cần được xác minh lại. Do vậy thực nghiệm còn được gọi là phương pháp “làm lại”.
Kết quả của phương pháp này thường rất trung thực vì có sự tái diễn lại sự thật cho nên nó cũng được sử dụng phổ biến trong thực tiễn kiểm toán nhất là muốn xác định lại chi phí hay kết quả của một quá trình SXKD nào đó.Vấn đề ở chỗ, phương pháp này chỉ được áp dụng với những quá trình có quy trình cụ thể, và trong nhiều trường hợp chi phí cho việc thử nghiệm rất lớn, hơn nữa KTV phải vận dụng cả những kĩ thuật chuyên ngành khác như: Phải thuê chuyên gia, giám định...trong lĩnh vực hoá học, cơ lý học, xây dựng...
2.3.Điều tra
Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luậu kiểm toán.
Tuỳ theo yêu cầu của từng cuộc kiểm toán và đặc điểm của từng đối tượng kiểm toán cụ thể, KTV có thể sử dụng các phương pháp điều tra khác nhau: Phỏng vấn, điều tra trực tiếp hoặc điều tra gián tiếp. Do cách thức tiến hành đơn giản, hiệu quả lại cao nên phương pháp này được sử dụng rất phổ biến trong kiểm toán. Một số trường hợp điển hình là:
Tìm hiểu khách thể kiểm toán: Có thể tìm hiểu trực tiếp, qua các KTV tiền nhiệm hoặc gửi phiếu điều tra phỏng vấn...Đây là bước điều tra sơ bộ nhằm đưa ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận thư hẹn kiểm toán của khách hàng (đối với kiểm toán độc lập), hoặc lập kế hoạch kiểm toán (đối với kiểm toán nhà nước).
Tiếp cận với các bên hữu quan: Dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm và tích luỹ dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán. Ngoài ra xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên có liên quan.
Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán. Vì đối tượng kiểm toán rất rộng không thể kiểm toán tất cả mọi nghiệp vụ, mọi tài sản...Trong khi đó, chuẩn mực thận trọng thích đáng không cho phép công tác kiểm toán bỏ qua các sai phạm trọng yếu. Do vậy bằng chọn mẫu, với số lượng xác định, với tính đại diện cao của mẫu chọn giúp KTV vẫn đảm bảo chất lượng kiểm toán và chi phí kiểm toán thấp.
Tóm lại để đảm bảo hiệu quả kiểm toán, điều tra cần được kết hợp với hàng loạt các kĩ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như: chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hay điển hình và cả những kinh nghiệm trong tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan.
Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược và điều kiện áp dụng riêng. Do đó chúng phải được kết hợp một cách hợp lý cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, nghiệp vụ cụ thể để thu thập được đầy đủ những bằng chứng có độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc đưa ra kết luận kiểm toán.
Phần II
ảnh hưởng của đối tượng kiểm toán đến việc hình thành các phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
KTTC là hoạt động kiểm toán đặc trưng bởi nó chứa đựng những “sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời và trong quá trính phát triển. Đặc trưng cơ bản của KTTC bắt nguồn từ chính đối tượng và từ quan hệ chủ thể, khách thể kiểm toán.
Đối tượng KTTC và mối quan hệ chủ thể- khách thể của KTTC.
1.Đối tượng kiểm toán trong kiểm toán tài chính
KTTC là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của các thực thể kinh tế do những người có trình độ tương xứng đảm nhiệm, dựa trên hệ thống pháp lý đang có hiêu lực.
Đối tượng của KTTC là các bảng khai tài chính mà bộ phận quan trọng là báo cáo tài chính. Theo định nghĩa trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 “Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị”. Theo đó BCTC gồm bảng CĐKT, báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Ngoài ra, bảng khai tài chính còn bao gồm những bảng kê khai có tính chất pháp lý khác như : Bảng kê khai tài sản cá nhân, bảng kê khai đặc biệt (về tài sản của doanh nghiệp phá sản hay bán đấu giá...) theo yêu cầu riêng của chủ đầu tư...Là bảng tổng hợp, các bảng khai này đều chứa đựng những thông tin lập ra tại một thời điểm cụ thể trên cơ sở các tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa theo những quy tắc xác định.
Như vậy, khi nói đối tượng KTTC là các bảng khai tài chính là nói đến quan hệ trực tiếp nhưng không có nghĩa là đối tượng duy nhất. Để xác minh và bày tỏ ý kiến, KTV còn phải thu thập bằng chứng bằng nhiều cách thức để thu thập bằng chứng khi cần thiết.
2.Quan hệ chủ thể- khách thể của KTTC.
Nếu căn cứ theo chủ thể kiểm toán hay bộ máy tổ chức để phân loại đối tượng kiểm toán thì có ba loại hình kiểm toán là: KTNB, KTNN và KTĐL. Về quan hệ cụ thể của chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán có những quan niệm và quy định cụ thể khác nhau. Tuy nhiên theo thông lệ phổ biến, KTNN thường quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực kiểm toán tuân thủ, KTNB thường quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực kiểm toán hoạt động còn KTĐL lại thường quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực KTTC. Quan hệ này thường xác định như sau:
KTNB: Kiểm toán các đơn vị thành viên theo yêu cầu (quyết định) của người lãnh đạo cao nhất trong đơn vị.
Chủ thể là các KTV nội bộ gọi là các KTV không chuyên nghiệp để kiểm toán lĩnh vực chủ yếu là KTNV và kiểm toán tuân thủ. Khách thể kiểm toán là các cá nhân, bộ phận, đơn vị trực thuộc đơn vị được kiểm toán.
KTNN: Kiểm toán các đơn vị, cá nhân hoạt động trên cơ sở NSNN thường bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, các bên liên doanh có từ 51% vốn NSNN trở lên.
Chủ thể là các KTVNN là các công chứng Nhà nước, cần có chứng chỉ do trung tâm khoa học đào tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước để kiểm toán lĩnh vực chủ yếu là KTTC và kiểm toán tuân thủ.
KTĐL: Kiểm toán các doanh nghiệp liên doanh có quy mô lớn, kể cả các liên doanh có dưới 50% vốn ngân sách Nhà nước...theo quy định của pháp luật (khách thể bắt buộc). Đồng thời, KTĐL cũng kiểm toán cho tất cả các đơn vị, cá nhân có nhu cầu (qua thư mời) kiểm toán (khách thể tự nguyện).
Chủ thể là các KTV độc lập còn gọi là các CPA để kiểm toán lĩnh vực củ yếu là KTTC.
Từ phân tích trên có thể thấy mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của KTTC chủ yếu là mối quan hệ ngoại kiểm. Mối quan hệ này tuỳ thuộc vào mức độ độc lập của chủ thể kiểm toán và quan hệ cụ thể của chủ thể đó với một khách thể cụ thể.
B.Đối tượng kiểm toán với việc hình thành phương pháp kiểm toán trong KTTC
Như các loại hình kiểm toán khác, KTTC cũng sử dụng hệ thống phương pháp kiểm toán bao gồm kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ nhưng việc kết hợp giữa các phương pháp trên có sự khác nhau so với các loại hình kiểm toán khác do có đặc thù về chức năng, đối tượng, khách thể. Do đó trong quá trình tiến hành kiểm toán hình thành các trình tự xử lý liên hoàn những phương pháp cơ bản của kiểm toán để đưa ra ý kiến về đối tượng.
I.Hai thử nghiệm trong KTTC.
1.Thử nghiệm cơ bản.
Chúng ta biết rằng, KTTC tiến hành theo trình tự ngược với trình tự kế toán và quản lý nghĩa là theo hướng tổng hợp về chi tiết. Cách khái quát này chỉ mang tính chất phổ biến. Trên thực tế, trình tự kiểm toán rất đa dạng cho từng loại khách thể và đối tượng từng loại kiểm toán. Tuy nhiên nguyên tắc chung của mọi cuộc kiểm toán tài chính là phải thẩm tra lại các thông tin biểu hiện bằng tiền phản ánh trên bảng tổng hợp bằng việc kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ theo trình tự và cách thức kết hợp xác định. Cách làm này được gọi là kiểm toán cơ bản hay thử nghiệm cơ bản.
2.Thử nghiệm tuân thủ.
Cho dù thử nghiệm cơ bản là thử nghiệm then chốt trong mọi cuộc kiểm toán tài chính song không phải chúng được thực hiện với mọi khoản mục trong mọi quan hệ. Trên thực tế các thông tin tài chính thường được xác minh nhiều lần tạo khả năng cho việc giảm tối đa các thử nghiệm cơ bản. Mặt khác xét về nhu cầu, trong nhiều cuộc kiểm toán cũng không đòi hỏi phải thực hiện số lớn các thử nghiệm cơ bản nếu nghiệm thấy các thông tin trên các bảng khai tài chính đáng tin cậy. Đồng thời nhu cầu về tiết kiệm thời gian, chi phí kiểm toán cũng đòi hỏi phải giảm tối đa những việc lặp lại không hiệu quả. Do đó trong KTTC đã hình thành kiểm toán tuân thủ hay thử nghiệm tuân thủ.
Thử nghiệm tuân thủ là việc khảo sát thẩm tra đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ để từ đó khẳng định mức độ hiệu lực của hệ thống nhằm dựa vào kết quả của hệ thống kiểm soát nội bộ để điều chỉnh quy mô, nội dung và thời gian của một cuộc kiểm toán.
Trong thử nghiệm tuân thủ KTV phải hướng vào xác minh các khía cạnh sau:
- Thiết kế: Hệ thống KSNB được thiết kế để ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai phạm trọng yếu.
- Tính hiện hữu: Sự hoạt động của hệ thống KSNB thực sự tồn tại và được vận hành.
- Tính liên tục: Xem xét hệ thống KSNB có được vận hành hữu hiệu trong suốt kì kế toán hay không.
Thực chất của thử nghiệm này là dựa vào kết quả của hệ thống KSNB khi hệ thống này tồn tại và hoạt động có hiệu lực. Để khẳng định sự tồn tại và hiệu lực này cần khảo sát, thẩm tra và đánh giá hệ thống KSNB. Trong trường hợp hệ thống KSNB của khách thể kiểm toán không tồn tại hoặc hoạt động không có hiệu lực thì KTTC không thực hiện kiểm toán tuân thủ. Khi đó các thử nghiệm cơ bản được tăng cường với quy mô đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy các kết luận kiểm toán. Ta có thể khái quát mối quan hệ giữa các phương pháp thử nghiệm áp dụng với tính hiệu lực của hệ thống KSNB như sau:
Hiệu lực hệ thống KSNB (Mức độ)
BKTC (Mức độ sai phạm trọng yếu)
Thử nghiệm
Độ tin cậy
Cao
Thấp
Mở rộng thử nghiệm tuân thủ
Giảm thử nghiệm cơ bản
Hợp lý
Thấp
Cao
Giảm hoặc không thử nghiệm tuân thủ
Mở rộng thử nghiệm cơ bản
Hợp lý
II.Các trắc nghiệm trong KTTC.
Trong KTTC, trắc nghiệm được hiểu là các cách thức hay trình tự xác định trong việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ vào việc xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành bảng khai tài chính.
Tuỳ yêu cầu và đối tượng cụ thể cần xác minh, các phép kết hợp giữa các phương pháp kiểm toán cơ bản cũng khác nhau cả về số lượng và trình tự kết hợp từ đó hình thành ba loại trắc nghiệm cơ bản: Trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích.
1.Trắc nghiệm công việc.
Trắc nghiệm công việc là cách thức và trình tự rà soát các nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu lực của hệ thống KSNB trước hết là hệ thống kế toán.
Thông thường trắc nghiệm công việc hướng vào hai mặt cơ bản của tổ chức kế toán là thủ tục kế toán và độ tin cậy của các thông tin kế toán. Từ đó trắc nghiệm công việc được chia thành hai loại: Trắc nghiệm đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ vững trãi của công việc.
Trắc nghiệm đạt yêu cầu của công việc là trình tự rà soát các thủ tục kế toán hay thủ tục quản lý có liên quan đến đối tượng kiểm toán. Đối tượng rà soát có thể có dấu vết hoặc không có. Trong trường hợp có dấu vết, KTV cần đối chiếu chữ kí trên tất cả các chứng từ và kiểm tra chức trách của người kí duyệt. Trường hợp không có dấu vết, KTV có thể sử dụng các kĩ thuật phỏng vấn, quan sát, điều tra hoặc có thể quan sát trực tiếp công việc hoặc thủ tục.
Trắc nghiệm độ vững trãi của công việc là trình tự rà soát các thông tin về giá trị trong hệ thống kế toán. Trong trường hợp này KTV phải tính toán lại số tiền trên chứng từ kế toán và so sánh với các sổ sách khác có liên quan.
Về nguyên tắc, trắc nghiệm đạt yêu cầu chỉ được áp dụng khi rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức thấp, nếu ngược lại có thể bỏ qua trắc nghiệm đạt yêu cầu và tiến hành ngay trắc nghiệm độ vững trãi với số lượng lớn. Tuy nhiên trong thực tế có khi đồng thời thực hiện cả hai trắc nghiệm này gọi là trắc nghiệm song song.
2.Trắc nghiệm trực tiếp số dư
Trắc nghiệm trực tiếp số dư là cách thức kết hợp phương pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và điều tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số dư cuối kì hoặc tổng số phát sinh.
Đây là cách thức chủ đạo của KTTC , nhờ đó phần lớn bằng chứng thu thập được từ một nguồn độc lập với khánh thể kiểm toán nên bằng chứng thường có chất lượng cao. Tuy nhiên trắc nghiệm này có chi phí kiểm toán lớn nên số lượng trắc nghiệm trực tiếp số dư cần thực hiện tuỳ thuộc vào kết quả trắc nghiệm công việc cùng trắc nghiệm phân tích có liên quan.
3. Trắc nghiệm phân tích
Trắc nghiệm phân tích hay quy trình phân tích (Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520) là cách thức xem xét các mối quan hệ kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp với đối chiếu logic, giữa trị số của các chỉ tiêu hoặc giữa chỉ tiêu với các yếu tố cấu thành chỉ tiêu đó.
Tuỳ đối tượng và yêu cầu kiểm toán, các hướng phân tích có thể áp dụng khác nhau hoặc kết hợp phân tích ngang, phân tích dọc và phân tích chéo. Và thủ tục phân tích này được áp dụng trong cả 3 giai đoạn kiểm toán. Trong lập kế hoạch, trắc nghiệm phân tích giúp KTV xác định những khoản mục, nghiệp vụ trọng yếu cần kiểm toán tương ứng với rủi ro dự kiến. Trong thực hành kiểm toán, cùng kết hợp trắc nghiệm số dư giúp KTV đánh giá mức độ áp dụng các trắc nghiệm và phạm vi áp dụng. Cuối cùng trong giai đoạn kết thúc, trắc nghiệm phân tích được sử dụng để đánh giá tính hợp lý chung của kết luận kiểm toán.
Như vậy, với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến có thể thấy, KTTC hướng tới công khai tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau. Mà KTTC có đối tượng trực tiếp là các bảng khai tài chính với những thông tin tổng hợp phản ánh nhiều mối quan hệ kinh tế, pháp lý cụ thể. Mặt khác về quan hệ chủ thể với khác thể, KTTC thường được thực hiện bởi kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nhà nước và trong trường hợp đặc biệt có thể là kiểm toán nội bộ của các đơn vị có quy mô lớn với nhiều bộ phận thành viên là đơn vị cơ sở. Trong mọi trường hợp, quan hệ chủ thể với khách thể đều mang đặc tính của quan hệ ngoại kiểm với nội kiểm. Do đặc điểm của đối tượng kiểm toán và mối quan hệ chủ thể- khách thể kiểm toán nói trên, KTTC thường sử dụng tổng hợp các phương pháp cơ bản để hình thành các trắc nghiệm kiểm toán nhằm tìm hiểu và đánh giá tình hình hoạt động cùng hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở đó phải cụ thể hoá các phương pháp cơ bản này trong việc hình thành các bằng chứng.
c. đối tượng và phương pháp kiểm toán trong một số chu trình kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
Trong quan hệ với đối tượng của mình, KTTC có mối quan hệ trực tiếp với các bảng khai tài chính nhưng để kiểm tra tính hợp lý chung trên các bảng khai tài chính, KTTC không thể tách rời các tài liệu kế toán, các hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy của từng khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng trong các số dư và các chỉ tiêu tài chính. Theo đó, KTTC có hai cách cơ bản để phân chia các bảng khai tài chính thành các phần hành kiểm toán: Phân chia theo khoản mục hoặc theo chu trình.
Phân chia theo khoản mục: Là cách phân chia máy móc từng khoản mục hoặc từng nhóm các khoản mục theo thứ tự trên bảng khai tài chính. Cách chia này đơn giản song hiệu quả không cao vì không tạo ra mối liên hệ giữa các khoản mục với nhau, trùng lặp công việc.
Tiền
Phân chia theo chu trình: Là cách phân chia căn cứ vào mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành, các yếu tố trong một chu trình chung của hoạt động tài chính. Cách phân chia này hiệu quả hơn do xuất phát từ mối liên hệ vốn có của các nghiệp vụ, tập hợp được các đầu mối của các mối liên hệ nên trong kiểm toán thường dùng phương pháp này. Theo cách phân chia này, KTTC thường bao gồm sáu phần hành cơ bản. Mối quan hệ giữa các chu trình kiểm toán được phản ánh qua sơ đồ sau:
Huy động và
hoàn trả vốn
Bán hàng-Thu tiền
Tiền lương- nhân viên
Mua hàng- Trả tiền
Hàng tồn kho
1.Đối tượng và phương pháp kiểm toán trong kiểm toán chu trình bán hàng- thu tiền.
Chu trình bán hàng- thu tiền được xem là chu trình cuối cùng của quá trình SXKD. Nó không những đánh giá hiệu quả của những chu trình trước đó mà còn đánh giá hiệu quả của toàn bộ quá trình SXKD.
Với ý nghĩa như vậy, để kiểm toán chu trình này đối tượng kiểm toán bao gồm những chứng từ, sổ sách sau.
Các chứng từ bao gồm:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm trước và năm nay.
Các hợp đồng đã kí kết về cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Các đơn đặt hàng của khách hàng
Hoá đơn bán hàng hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho
Biên bản quyết toán cung cấp hàng hoá dịch vụ.
Phiếu thu tiền mặt, giấy báo có TGNH, bảng sao kê hoặc sổ phụ NH.
Các chứng từ liên quan đến vận chuyển hàng hoá, thành phẩm...
Sổ sách kế toán bao gồm:
Nhật kí bán hàng, nhật kí thu tiền.
Sổ hạch toán chi tiết HTK và TK131 (theo từng đối tượng)
Bảng kê số 1 và 2
Sổ cái TK641, TK642.
Với đặc điểm về đối tượng kiểm toán và chức năng của chu trình, thử nghiệm cơ bản với chu trình này được tiến hành như sau:
ỉPhân tích và đánh giá tổng quát.
- So sánh DTBH của từng loại hàng hoá dịch vụ giữa kì này với kì trước, tỉ lệ lãi gộp năm nay với năm trước. Nếu có biến động bất thường thì tìm hiểu rõ nguyên nhân.
- So sánh tỉ lệ DTBH bị trả lại- các khoản giảm giá trên tổng doanh thu của kì này so kì trước. Nếu có biến động thì tìm hiểu rõ nguyên nhân.
- So sánh số dư khách hàng có giá trị lớn giữa các kì để phát hiện doanh thu và các khoản phải thu ghi khống.
- So sánh tỉ lệ dự phòngphải thu khó đòi trên tổng doanh thu hay trên tổng các khoản phải thu giữa kì này với kì trước để xem xét khả năng tài chính của khách hàng trước khi bán hàng và xem xét chi phí dự phòng có hợp lý không.
- Đối chiếu các khoản phải thu lớn chưa thanh toán hoặc đến hạn và quá hạn chưa thanh toán giữa các kì kế toán.
ỉKiểm tra chi tiết các nghiệp vụ.
*Đối với nghiệp vụ bán hàng (NVBH)
- Các NVBH ghi sổ là có thật (hiệu lực): KTV xem xét nhật kí bán hàng, sổ cái, sổ chi tiết các khoản phải thu, đối chiếu và xác nhận NVBH với hoá đơn, vận đơn.
- Các NVBH được ghi sổ đầy đủ (đầy đủ): KTV đối chiếu vận đơn- hoá đơn, hoá đơn- bút toán bán hàng để xác minh mọi nghiệp vụ được ghi sổ.
- Các NVBH được phê chuẩn đúng đắn (được phép): KTV so sánh giá trị trên hoá đơn- bảng giá hoặc hợp đồng kinh tế đã kí kết.
- Các NVBH ghi sổ được định giá đúng (định giá): KTV tính lại các con số trên hoá đơn bán hàng, đối chiếu HĐBH- vận đơn, bảng giá, đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế.
- Các NVBH được phân loại thích hợp (phân loại): KTV xem xét nội dung kinh tế cụ thể của từng nghiệp vụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV391.doc