PHẦN I - MỞ ĐẦU .1
PHẦN II: NỘI DUNG .4
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.4
1. Du Lịch Và Các Loại Hình Du Lịch.4
1.1. Khái niệm về du lịch và bản chất của sản phẩm du lịch .4
1.1.1. Khái niệm về du lịch.4
1.1.2. Sản phẩm du lịch - bản chất của sản phẩm du lịch.6
1.2. Các loại hình du lịch.7
1.2.1. Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch.7
1.2.2. Căn cứ vào môi trường tài nguyên du lịch.7
1.2.3. Phân loại theo phương thức hợp đồng.8
1.2.4. Phân loại theo đặc điểm địa lý .9
1.2.5. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến du lịch.10
1.3. Môi trường phát triển du lịch.11
1.3.1. Môi trường phát triển bên trong của doanh nghiệp .12
1.3.2. Môi trường phát triển bên ngoài của doanh nghiệp.14
2. Hoạt động kinh doanh du lịch .23
2.1. Hoạt động kinh doanh lữ hành .23
2.2. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch .24
2.3. Kinh doanh cơ sở lưu trú .27
2.4. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác .27
3. Vai trò của du lịch.28
3.1. Vai trò về mặt kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.28
3.1.1. Tác động vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân.28
3.1.2. Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất .28
3.1.3. Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài .29
3.1.4. Du lịch thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo.29
3.2. Vai trò về mặt xã hội đối với đất nước .30
3.2.1. Du lịch góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.30
3.2.2.Du lịch củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế .30
3.2.3. Du lịch làm giảm quá trình đô thị hoá ở các nước kinh tế phát triển .30
112 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 05/09/2024 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Du lịch Quảng Ninh. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước, con người Việt Nam.
6. Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu hút
ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
Riêng tỉnh Quảng Ninh, để tạo đà cho ngành du lịch phát triển nhanh, bền
vững, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Du lịch Quảng Ninh phối hợp với Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) tiến hành xây dựng quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch thời kỳ 2001-2010.
Bên cạnh đó, Ngành Du lịch Quảng Ninh cũng đã tích cực tham gia đề xuất
xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển du lịch; chỉnh sửa, bổ sung
Quyết định số 410/QĐ-UB và Quyết định số 4117/QĐ-UB của UBND Tỉnh về
Quản lý tàu thuyền du lịch, quy chế xếp hạng tốp 5 doanh nghiệp phong phú du
lịch, 5 doanh nghiệp lữ hành, tầu thuyền du lịch và các nhà hàng đạt chuẩn mua sắm
du lịch hàng đầu của tỉnh; đề xuất tham gia xây dựng chính sách góp phần quan
trọng cho quản lý nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch. Đến năm 2008, Ngành
du lịch Quảng Ninh đã tham gia các dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Du lịch về cơ sở lưu trú, Lữ hành, Quảng bá xúc tiến du lịch, chi
nhánh văn phòng đại diện Kế hoạch Marketing du lịch Việt Nam giai đoạn 2005
– 2015; xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê báo cáo định kỳ ngành du lịch.
UBND tỉnh đã phối hợp với thị xã Móng Cái tuyên truyền, phổ biến Luật Du
lịch, Nghị Định 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007, Nghị định149/2007/NĐ-CP ngày
09/10/2007 của Chính phủ cho trên 60 doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn
thị xã.
Chủ trì, phối hợp các ngành liên quan dự thảo quy chế quản lý hoạt động tàu
du lịch trên vịnh Hạ Long, thay thế quyết định 4114/2005/QĐ-UBND và quyết định
410/2006/QĐ-UBND trình UBND Tỉnh phê duyệt, ban hành.
46
Đề xuất các giải pháp, phương án tăng cường hợp tác phát triển du lịch giữa
Quảng Ninh với một số tỉnh, thành phố trong nước ( Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn,
thành phố Hồ Chí Minh) và các nước trong khu vực (Quảng Tây Trung Quốc và các
tỉnh đại diện cho các nước tham gia diễn đàn du lịch Đông á ).
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch Quảng Ninh
Từ năm 1955 đến năm 1965, đất nước có một thời gian hòa bình, các công
nhân viên chức, bộ đội, các trường học cũng thường tổ chức các cuộc nghỉ hè, an
dưỡng tại Vịnh Hạ Long với hoạt động chủ yếu là tắm biển. Và do vậy, một số
ngành đã xây dựng một vài nhà nghỉ, nhà an dưỡng cho công nhân ven bờ biển Bãi
Cháy. Tuy nhiên, hoạt động tham quan Vịnh Hạ Long lại rất hạn chế do những khó
khăn về kinh tế lúc bấy giờ. Hoạt động du lịch của Quảng Ninh thời gian này đã bắt
đầu có tính mùa vụ với việc không có khách du lịch vào mùa đông.
Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, bãi biển Bãi Cháy lại tiếp
tục đón khách đến nghỉ mát. Thời kỳ này, lượng du khách còn rất ít, hầu như là
người Việt Nam, là công nhân viên chức nhà nước đi nghỉ theo chế độ bao cấp, học
sinh đi trại hè. Lúc đó giao thông đi lại giữa Quảng Ninh và các tỉnh khác rất khó
khăn. Mặc dù đây là thời gian khó khăn của cả nước nói chung, và của du lịch
Quảng Ninh nói riêng song vịnh Hạ Long vẫn luôn là góc trời mơ mộng huyền thoại
của những người dân Việt Nam đam mê du lịch và văn hóa của đất nước.
Khi đất nước bắt đầu vượt qua thời kỳ khó khăn về kinh tế, vào những năm
1980, du lịch bắt đầu được chú ý đến. Các du khách nước ngoài đầu tiên đã tìm
đường đến Việt Nam trong đó có Quảng Ninh. Lúc này, đã có nhiều người tìm cách
thuê thuyền để đi thăm vịnh và leo lên các hang động trên hòn đảo đá. Dịch vụ cho
thuê thuyền bắt đầu thu hút được sự đầu tư của một số cư dân địa phương. Họ sửa
các tàu đánh cá thành các tàu chở khách, nhiều khi dùng cả thuyền nan, thuyền
buồm để chở khách. Vào cuối những năm 1980, sau khi đất nước thực hiện chính
sách mở cửa, khách nước ngoài ồ ạt đến thăm Việt Nam không những để tham
quan, nghỉ dưỡng mà còn để du khách khám phá, tìm hiểu các di tích lịch sử, các
đền chùa cũng như văn hóa của đất nước. Vẻ đẹp nguyên sơ, kỳ ảo của hàng nghìn
đảo đá ở Hạ Long đã làm mê hồn các du khách đến từ khắp năm châu bốn bể. Vì
47
vậy, vịnh Hạ Long được nhắc đến ngày càng nhiều trên sách, báo, truyền hình quốc
tế. Và từ những năm 1990 trở đi, du lịch Hạ Long bước sang một trang mới.
Cũng trong năm 1980, cơ sở vật chất phục vụ du lịch tại Quảng Ninh từng
bước phát triển mạnh mẽ. Trước hết là hệ thống các phương tiện vận chuyển ngày
càng đông, đủ loại kích cỡ và được giao thông trên những tuyến đường được nâng
cấp tốt hơn nhiều so với thời gian trước. Bên cạnh đó, men theo chân dải núi nằm
dọc theo bờ biển Bãi Cháy, các khách sạn, nhà nghỉ lớn nhỏ đua nhau mọc như
nấm, song vẫn chưa đủ điều kiện đạt tiêu chuẩn quốc tế cao như ngày nay. Người ta
đua nhau mua đất để xây khách sạn, mở nhà hàng. Những người có nghề đi biển thì
bằng mọi cách sửa chữa, đóng tàu mới và nhanh chóng đưa vào phục vụ khách. Mặt
biển Hạ Long bắt đầu nhộn nhịp với các tàu du lịch đủ loại. Dọc theo mấy cây số kè
đá ven biển, các tàu du lịch đỗ san sát để đón khách thăm vịnh. Đa số các tàu này là
do tư nhân đầu tư vốn và kinh doanh với giá cả linh hoạt. Trên bờ, dọc theo con
đường mới được sửa sang, mở rộng với tên gọi Hạ Long là hàng loạt các quán phục
vụ giải khát, ăn nhậu. Thời gian này cũng có nhiều nhà hàng song quy mô vẫn chưa
lớn. Các công ty du lịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước với đội ngũ nhân
viên số lượng nhỏ, trình độ nghiệp vụ chưa thực chuyên nghiệp như ngày nay. Tuy
nhiên nhờ vào các chính sách mở cửa, nhờ vào các phương tiện truyền thông đại
chúng cũng như nhờ vào sự nỗ lức của nhân dân trong tỉnh, chỉ trong vòng chưa đầy
10 năm, từ một khu vịnh biển vắng vẻ, xa cách các đô thị lớn, Hạ Long đã trở thành
một trong những trung tâm du lịch sầm uất của Viêt Nam.
Tháng 10 năm 1993, hồ sơ về vịnh Hạ Long cơ bản được hoàn thành và được
gửi đến Hội đồng di sản thế giới. Ngay sau khi nhận được hồ sơ, Hội đồng di sản
thế giới đã cử các chuyên gia của Hiệp hội bảo tàng thế giới ICOM và tổ chức Bảo
tồn Thiên nhiên thế giới IUCN đến Hạ Long để thẩm định các giá trị. Từ tháng 2
đến tháng 10 năm 1994, hồ sơ về vịnh Hạ Long tiếp tục được hoàn tất để làm rõ
thêm một số ấn đề về ranh giới, tổ chức quản lý và vào ngày 17 tháng 12 năm
1994, tại phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng di sản thế giới tổ chức tại Thái Lan,
vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị
thẩm mỹ. Tiếp đó, vào tháng 9 năm 1998, theo đề nghị của UNESCO, tiến sĩ Tony
48
Waltham – giáo sư nổi tiếng về địa chất trương Đại học Trent Nottinggham đã đến
nghiên cứu về vùng địa hình karst của Hạ Long. Sau báo cáo của giáo sư Tony,
tháng 7 năm 1999, hồ sơ về giá trị địa chất của vịnh Hạ Long được trình Ủy ban di
sản thế giới đã hoàn tất. Từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12 năm 2000, trong
kỳ họp toàn thể lần thứ 24 của Ủy ban di sản thế giới tổ chức tại thành phố Cairns,
bang Queensland, Australia, vịnh Hạ Long đã được UNESCO tái công nhận lần thứ
2 bởi cá giá trị địa mạo, địa chất.
+ Thị trƣờng khách du lịch trong nƣớc:
Trong những năm qua, tốc độ kinh tế nhìn chung, có sự tăng trưởng mạnh,
chính trị bình ổn, phương tiện đi lại thuận tiện, đời sống của nhân dân được nâng
cao, điều đó nói lên được nguyên nhân tại sao mà trong giai đoạn 2001 – 2007, số
lượng khách du lịch nội địa đến Quảng Ninh đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2001,
du lịch Quảng Ninh đã thu hút được 1.298.091 khách du lịch nội địa, thì tính đến
hết năm 2007, số lượng khách du lịch nội địa đến với Quảng Ninh lên tới 2.402.964
khách. Khách du lịch nội địa Quảng Ninh phần lớn là khách tham quan, nghỉ mát
tắm biển và thăm thú lễ hội
Lượng khách du lịch nội địa năm 2008 tăng gần gấp 2 lần so với năm 2001.
Đặc biệt những năm gần đây, do nhu cầu quảng bá và xúc tiến sản phẩm du lịch và
là năm diễn ra các sự kiện trọng đại liên quan đến ngành (Năm 2003 là năm đánh
dấu bước chuyển mình quan trọng của Du lịch Hạ Long khi tỉnh Quảng Ninh, được
sự đồng ý của chính phủ, đã phối hợp với Tổng cục du lịch, Bộ văn hóa Thông tin,
Ủy ban Thể dục Thể thao Quốc gia, Cục hàng không dân dụng Việt Nam và Tổng
công ty Hàng không Việt Nam tổ chức «Năm Du lịch Hạ Long» với quy mô rộng
lớn, một sự đầu tư và chuẩn bị chu đáo. Năm 2004 tiếp tục diễn ra hai sự kiện quan
trọng của quốc gia và khu vực: «Tuần lễ văn hóa ASEAN 2004» và «Vòng chung
kết cuộc thi hoa hậu phụ nữ Việt Nam 2004» Năm 2006, là năm có nhiều sự kiện
kinh tế, chính trị quan trọng của đất nước và của Tỉnh, năm diễn ra Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X, năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm (2006-2010) và thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XII. Tình hình kinh tế của đất nước và của
Tỉnh năm tiếp tục có sự tăng trưởng khá, vị thế của đất nước trên trường quốc tế
49
ngày càng được nâng cao. Năm 2007 là năm toàn Đảng toàn dân tham gia cuộc bầu
cử Quốc Hội khoá XII, năm đầu tiên nước ta thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế sau khi ra nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nền kinh tế cả nước đạt
mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%); đặc biệt lần đầu tiên trong
nhiều năm qua tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của GDP. Sự kiện Việt Nam được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế,
chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.Việt Nam vẫn
được đánh giá là điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn. Đó là những điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế nói chung và cho ngành Du lịch nói riêng)
Bảng 2 : Số lượng khách du lịch nội địa và khách du lịch nội địa có lưu trú ở
Quảng Ninh
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng
khách
du lịch
NĐ
1,298,091 1,423,355 1,414,825 1,629,000 1,452,700 1,960,000 2,136,200 2,402,964
Khách
NĐ có
lưu trú
285,717 389,800 504,476 618,000 570,200 909,100 - -
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Ninh
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
3,000,000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số
khách du lịch
NĐ
Số khách NĐ
có lưu trú
Nguồn: Thống kê hàng năm của Sở Du lịch Quảng Ninh
50
Thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch nội địa là 1,2 đến 1,5 ngày. Về
chi tiêu của khách du lịch nội địa khoảng 370.000 đồng một ngày, trong đó có tới
75% dành cho việc lưu trú và ăn uống. Đây là nhu cầu bắt buộc. Tuy nhiên các
doanh nghiệp cần phải hướng việc chi tiêu của khách vào phần không có giới hạn,
đó là việc mua sắm, trò chơi giải trí và sử dụng sản phẩm công cộng khác.
Nguồn khách du lịch nội địa hàng năm tới Quảng Ninh bao gồm hầu hết các
tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng phần lớn là khách du lịch từ Hà Nội, Hải
Phòng và các tỉnh Bắc Bộ.
+ Thị trƣờng khách du lịch nƣớc ngoài:
Với tiềm năng về du lịch như đã đề cập ở trên, Quảng Ninh là một trong những
địa điểm thu hút, hấp dẫn khách du lịch quốc tế nhiều nhất của cả nước. Khách du
lịch quốc tế thời gian qua nói chung tương đối ổn định và có mức tăng trưởng cao
về số lượng và tỷ trọng.
Số lượng khách quốc tế đến Quảng Ninh trong 8 năm qua tăng lên khá nhanh,
đặc biệt trong những năm gần đây. Chỉ tính riêng số khách quốc tế đến Quảng Ninh
năm 2006 là 1.150.000 người thì sau hai năm tức năm 2008 số lượng khách quốc tế
đã tăng lên tổng cộng là 1.457.036 người. Năm 2008 là năm diễn ra cuộc khủng
hoàng tài chính toàn cầu, tuy nhiên, điều đó vẫn không gây ảnh hưởng quá lớn đến
hoạt động kinh doanh du lịch của toàn tỉnh Quảng Ninh. Bởi ngành du lịch đã thực
hiện những chính sách kích cầu du lịch nhằm ổn định doanh thu và thu hút được lực
lượng đông hơn nữa số lượng khách du lịch không những quốc tế mà còn cả nội địa.
Đây là những nỗ lực của toàn ngành du lịch mà Tỉnh Quảng Ninh cần phải duy trì
và phát huy.
Trong những năm gần đây, cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh cũng
đã có sự thay đổi. Nếu như năm 2001 cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh
gần 40% khách Đài Loan, 33% khách Pháp, 10% khách châu Âu, và 17% khách từ
các nước và các khu vực khác thì đến năm 2008 do có các thủ tục ra vào dễ dàng
hơn, khách du lịch Trung Quốc tăng cao, cơ cấu khách du lịch quốc tế có sự thay
đổi. Khách Trung Quốc chiếm 66,8%, khách Đài Loan là 6,8%; Nhật Bản 2,3%;
ASEAN là 0,98%; Tây Âu là 8,48%; Bắc Mỹ là 2,29%, các nước khác là 11,8%.
51
Khách du lịch Trung Quốc, mặc dù có số lượng chỉ tiêu không cao, đã trở thành
nguồn khách đứng đầu trong cơ cấu khách du lịch quốc tế ở Quảng Ninh.
Điều đáng chú ý là khách du lịch tàu biển đến Quảng Ninh tăng nhanh, Năm
2001 lượng khách này khoảng 77,604 lượt khách trên 325 số chuyến tàu biển, trong
đó 34,949 lượt khách là khách tàu tiếp nhận của 33 chuyến tàu biển, và 42,655 lượt
do khách tự tổ chức trên 292 số chuyến tàu biển. Thì đến năm 2006, lượng khách
này đã lên tới con số 119331 lượt khách trên 265 số chuyến tàu biển, trong đó
11,534 lượt khách là khách tàu tiếp nhận của 37 chuyến tàu biển, và 107,797 lượt
do khách tự tổ chức trên 229 số chuyến tàu biển. Con số đó cho ta thấy cơ cấu
khách du lịch đi bằng tàu biển đã có sự thay đổi, chuyển biến giữa khách tàu tiếp
nhận và khách tự tổ chức chuyến tàu biển.
Bảng 3: Tổng số lượt khách tàu biển đến Quảng Ninh
Danh
mục
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Khách
tàu biển
77,604 128,418 70,413 33,432 5,091 119,331 - -
Số
chuyến
325 376 161 157 26 265 - -
Khách
tàu tiếp
nhận
34,949 69,801 31,922 6,080 1,960 11,534 - -
Số
chuyến
33 61 37 13 10 37 - -
Khách tự
tổ chức
42,655 58,617 39,140 27,352 3,131 107,797 - -
Số
chuyến
292 315 124 144 21 228 - -
Nguồn : -Sở Du lịch Quảng Ninh
- Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch
Thời gian lưu trú bình quân của khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh còn
thấp. Năm 2001, thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch là 1,34. Mấy năm
gần đây tình hình đó đã được cải thiện hơn, năm 2006 số ngày lưu trú trung bình là
2,9. Lý do chính là do các sản phẩm du lịch của Quảng Ninh và các vùng phụ cận
ngày một phong phú, chương trình, và các tuyến du lịch ngày càng có chất lượng,
52
hấp dẫn hơn, nhưng phát triển còn chậm. Một nguyên nhân nữa là do điều kiện phát
triển hạ tầng cơ sở của Tỉnh Quảng Ninh ngày càng được cải thiện, điều kiện đi lại
thuận lợi nên khách du lịch muốn được tham quan nhiều nơi.
Bảng 4: Số lượng khách du lịch quốc tế và khách du lịch quốc tế có lưu trú
ở Quảng Ninh
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Khách
du lịch
QT
679,555 921,203 1,085,811 1,046,000 1,005,800 1,150,000 1,224,400 1,457,036
Khách
QT có
lưu trú
411,859 564,533 470,033 705,000 609,300 750,900 810,972 892,069
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Ninh
0
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
1,400,000
1,600,000
2001 2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_du_lich_quang_ninh_thuc_trang_va_giai_phap.pdf