MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 2
3. Mục đính, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Mục đích nghiên cứu 3
3.2. Đối tượng nghiên cứu 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu 3
3.3.1. Không gian nghiên cứu 3
3.3.2. Thời gian nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giả thuyết khoa học 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
6.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu 4
6.2. Phương pháp quan sát 4
6.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê số liệu 5
7. Bố cục của đề tài 5
NỘI DUNG 6
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 6
1. Du lịch là gì? 6
2. Các nguồn lực để phát triển du lịch. 7
2.1. Hệ thống di sản văn hoá 7
2.2. Hệ thống cảnh quan thiên nhiên 7
2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch 8
2.4. Nguồn lực dân cư – lao động 8
2.5. Đường lối chính sách phát triển du lịch 9
2.6. Những cơ hội để phát triển du lịch 9
2.7. Nguồn lực bên ngoài để phát triển du lịch 10
3. Ý nghĩa của du lịch trong sự phát triển nền KT - XH 10
3.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế của phát triển Du lịch 10
3.1.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế của phát triển du lịch nội địa 10
3.1.2. Ý nghĩa về mặt kinh tế của phát triển du lịch quốc tế 11
3.2. Ý nghĩa xã hội của việc phát triển du lịch đối với đất nước 13
4. Sự phát triển du lịch trên Thế giới nói chung 14
5. Sự phát triển du lịch ở Việt Nam 16
PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 18
CHƯƠNG 1. ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 18
1.1. Đánh giá tiềm năng du lịch tỉnh Nghệ An 18
1.1.1. Địa lý 18
1.1.2. Địa hình 18
1.1.3. Khí hậu - Thời tiết 19
1.1.4. Tài nguyên tự nhiên 19
1.1.5. Tài nguyên nhân văn 20
1.1.6. Văn hoá - Con người 20
1.2. Đánh giá tiềm năng du lịch tỉnh Hà Tĩnh 21
1.2.1. Vị trí địa lý 21
1.2.2. Địa hình 21
1.2.3. Khí hậu - Thời tiết 22
1.2.4. Một số đặc điểm khác 22
1.3. Đánh giá tiềm năng du lịch sông Lam 22
1.3.1. Giới thiệu chung về sông Lam 22
1.3.2. Di sản văn hoá đôi bờ sông Lam 23
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SÔNG LAM TRONG TỔNG THỂ DU LỊCH XỨ NGHỆ 30
2.1. Hiện trạng phát triển du lịch sông Lam trong tổng thể du lịch xứ Nghệ từ năm đầu 2009 trở về trước 30
2.1.1. Đánh giá tổng hợp khách du lịch thời kỳ năm 2002-2008 của toàn tỉnh Nghệ An 30
2.1.2. Đánh giá tổng hợp khách du lịch thời kỳ 2002-2008 của toàn tỉnh Hà Tĩnh 33
2.1.3. So sánh du lịch Nghệ An & Hà Tĩnh với các tỉnh trong khu vực 36
2.1.4. Hiện trạng du lịch sông Lam 37
2.2. Những thuận lợi và khó khăn 38
2.2.1. Thuận lợi 38
2.2.2. Khó khăn 40
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH SÔNG LAM 41
3.1. Phương hướng 41
3.2. Giải pháp 41
3.2.1. Giải pháp về vốn 41
3.2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực 42
3.2.3. Giải pháp về cơ chế 44
3.2.4. Các lĩnh vực cần ưu tiên 46
3.2.5. Giải pháp về chính sách sản phẩm du lịch 47
3.2.6. Giải pháp thị trường và xúc tiến quảng bá du lịch 49
3.2.7. Giải pháp hợp pháp quốc tế 51
3.2.8. Giải pháp bảo tồn, tôn tạo tài nguyên du lịch 51
3.3. Đề xuất những biện pháp trước mắt cần triển khai 52
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 55
1. Kết luận 55
2. Khuyến nghị 56
2.1. Đối với Chính phủ và Nhà nước 56
2.2. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
PHẦN III: PHỤ LỤC BẢN ĐỒ VÀ ẢNH 58
65 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Du lịch sông Lam - Hành trình tìm hiểu di tích và danh nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển; sau cùng là những bãi cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh, tiêu biểu là cảng biển nước sâu Vũng Áng và bãi biển Thiên Cầm.
1.2.3. Khí hậu - Thời tiết
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ngoài ra Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp của miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc, nên thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa: Mưa trung bình hằng năm từ 2500 mm đến 2650 mm. Hạ tuần tháng 8, tháng 9 và trung tuần tháng 11 lượng mưa chiếm 54% tổng lượng mưa cả năm.
Mùa khô: Từ tháng 12 đến tháng 7 năm sau. Đây là mùa nắng gắt, có gió Tây Nam (thổi từ Lào) khô, nóng, lượng bốc hơi lớn.
1.2.4. Một số đặc điểm khác
Gần như có vị trí, địa hình giống nhau, lại được tách ra từ một tỉnh xưa kia cho nên về đặc điểm tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, Hà Tĩnh cũng giống Nghệ An. Song du lịch Hà Tĩnh còn chưa phát triển bằng Nghệ An và các tỉnh trong khu vực, kinh tế còn nhiều khó khăn, còn vùng nghèo đói chưa khắc phục hết, song trong những năm vừa qua tỉnh đã cố gắng hết mình và đạt được những thành tựu đáng kể.
1.3. Đánh giá tiềm năng du lịch sông Lam
1.3.1. Giới thiệu chung về sông Lam
Sông Lam là một con sông lớn của Nghệ An, bắt nguồn từ Lào và vùng núi phía tây Nghệ An. Trên thượng nguồn dòng sông Lam có hai nhánh, một nhánh gọi là Nậm Nơn và một nhánh gọi là Nậm Mộ. Hai nhánh này nhập lại cùng với sông Con (chảy từ Nghĩa Đàn, Tân Kỳ) gọi là Cửa Rào về thành một con sông lớn từ đó có tên gọi là sông Cả cắt Nghệ An ra làm hai phần hữu ngạn và tả ngạn. Chảy qua các huyện Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên và đổ ra biển Cửa Hội.
Đây là con sông chảy giữa vùng đất Lịch Sử địa linh nhân kiệt, trên mảnh đất này từ ngàn xưa đã sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, nhiều danh nhân văn hoá và gần đây nhất là chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta.
1.3.2. Di sản văn hoá đôi bờ sông Lam
³ Khu lưu niệm nhà cụ Phan Bội Châu
Là khu di tích lưu niệm về nhà yêu nước, nhà văn hoá, nhà thơ Phan Bội Châu nằm ở thôn Sa Nam, xã Đông Liệt, thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn. Là ngôi nhà mà cụ Phan Bội Châu đã sinh ra và sống tới năm 38 tuổi. Công trình đã được tôn tạo để trở thành khu lưu niệm đón khách trong và ngoài nước đến thăm từ tháng 10/1990. Công trình với ngôi nhà đơn sơ ấy nhưng đã góp phần làm nên cốt cách nhà văn hoá, nhà yêu nước, nhà thơ Phan Bội Châu. Khu di tích lưu niệm trên diện tích 2000m2 gồm hai ngôi nhà gỗ lợp lá tranh, các gian ngăn bằng phên nứa. Nơi đây còn lưu giữ những hiện vật quý gắn với cuộc đời của cụ Phan sống ở quê hương Nam Đàn. Bên cạnh là nhà lưu niệm, nơi trưng bày các tư liệu, hình ảnh và hiện vật tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp cứu nước của cụ.
³ Khu di tích vua Mai Hắc Đế
Khu di tích thuộc huyện Nam Đàn, nằm trong quần thể du lịch núi Đụn, hiện có hai hạng mục công trình tiêu biểu, đó là: đền thờ Mai Hắc Đế, lăng mộ Mai Hắc Đế.
Khu đền này có ba toà: thượng điện, trung điện, hạ điện.
• Thượng điện: là nơi dành riêng thờ gia đình vua Mai.
• Trung điện: là nơi thờ hai vị tướng của vua Mai.
• Hạ điện: là nơi thờ cộng đồng và là nơi dành chuẩn bị làm hành lễ. Đền thờ còn lưu giữ một số tài liệu hiện vật như: long ngai, bài vị và các hiện vật có giá trị văn hoá khác.
Từ đền thờ vua Mai, du khách theo đê 42 hoặc du thuyền theo tả ngạn sông Lam khoảng 2 km về phía Tây sẽ đến khu mộ vua Mai. Hiện nay, khu mộ nằm giữa một thung lũng đẹp dưới chân Đụn Sơn, dãy núi có tiếng là “địa linh” xưa nay, đồng thời là một danh sơn xứ Nghệ. Đến nay, trong dân gian xứ Nghệ vẫn còn lưu một bài vè nói về sự linh địa của địa danh này:
“Đụn Sơn phân giải
Bò Đái thất thanh
Nam Đàn sinh thánh”.
Đứng từ khu mộ, phóng tầm mắt nhìn xa về bốn hướng, du khách sẽ ngỡ như mình đang lạc vào một bức tường thành thiên nhiên, bởi bốn bề đều có núi non án ngự (ba phía Đông, Tây, Bắc đều được che chắn bởi các ngọn núi của dãy Đụn Sơn, phía trước là dòng sông Lam chảy cắt ngang qua).
Tương truyền rằng, sau khi Vua Mai bị thương nặng nghĩa quân của ông đã lui về căn cứ này để bảo toàn lực lượng. Tại đây ông đã qua đời, các binh sĩ đã bí mật mai táng, về sau mới xây mộ đá. Cho đến năm Minh Mệnh thứ hai (1821) mộ được xây theo kiểu “Thượng miếu, hạ mộ”. Nay mộ được xây cất cẩn thận khang trang, tiện để tham quan.
Lễ hội:
Hàng năm, tại đền và mộ vua Mai có nhiều kỳ lễ trọng: hội đền rằm tháng giêng, giỗ vua Mai 16/9, giỗ Mai Hoàng hậu 15/7 (âm lịch). Trong đó, kỳ lễ hội Vua Mai vào rằm tháng giêng được tổ chức có quy mô lớn nhất như: lễ hội rước kiệu, vật, đua thuyền, chọi gà, đánh đu, cờ người, múa hát… Mỗi kỳ lễ hội như vậy kéo dài trong 3 ngày 14, 15, 16.
Năm 1996 khu di tích này đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng di tích “lịch sử văn hoá” cấp Quốc gia.
³ Quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890. Tên thật là Nguyễn Sinh Cung (giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành, sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa) cùng huyện Nam Đàn và sống ở đây cho đến năm 1895.
Kim Liên là khu di tích về Bác Hồ, cách thành phố Vinh 13 km theo QL49 và cách thủ đô Hà Nội trên 300 km về phía Nam với các tài nguyên hấp dẫn khách du lịch như:
- Làng Sen (quê nội)
Từ TP Vinh theo đường 49 đến cây số 13 rẽ vào con đường đất đỏ rợp bóng cây Bạch Đàn và hàng Phi Lao, đến Làng Sen, tên chữ là Kim Liên (bông sen vàng). Cảnh đầu tiên mà du khách sẽ thấy thích thú là làng có rất nhiều hồ thả sen suốt hai bên đường. Ngôi nhà chủ tịch Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ dựng bằng tre và gỗ, 5 gian, lợp tranh mộc mạc với những vật dụng thân thuộc hàng ngày của gia đình Bác, cũng là nơi gắn với thời niên thiếu cùng với gia đình và cũng là nơi Bác đã chứng kiến những cuộc bình luận về thơ văn, thời cuộc của thân phụ - ông Nguyễn Sinh Sắc với bạn bè như cụ Phan Bội Châu, cụ Vương Thúc Quý. Nhà được dựng năm 1901 do công sức và tiền của dân làng góp lại tặng ông Nguyễn Sinh Sắc khi ông đỗ phó bảng, đem lại vinh dự cho cả làng. Từ bấy đến nay, ngôi nhà đã được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ điền viên như xưa.
- Làng Chùa (quê ngoại)
Làng Chùa tên chữ là Hoàng Trù, là cái nôi văn hóa đồng quê xứ Nghệ. Làng Hoàng Trù xưa có tên Nôm là Cồn Trùa sau thành làng Chùa. Cách làng Sen 2 km, đến cụm di tích Hoàng Trù, sau cánh cổng tre rộng mở là lối đi giữa hai bờ dậu Mận Hảo dẫn chúng ta đến một ngôi nhà thờ và hai ngôi nhà tranh thân thuộc giữa những hàng cau thẳng tắp cao vút, giống những ngôi nhà của cư dân vùng này thuở trước, nhưng lại là nơi nổi tiếng trong và ngoài nước vì đây là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh cất tiếng khóc chào đời và được mẹ nuôi dạy trong những năm ấu thơ. Nơi đây vẫn đang lưu giữ ngôi nhà 3 gian gia đình Bác từng sống với những vật dụng đơn sơ, giản dị, tất cả đều được giữ nguyên vẹn như trước đây.
- Mộ bà Hoàng Thị Loan
Bà là người mẹ Việt Nam tiên tiến có công nuôi dưỡng, dạy dỗ những người con yêu nước, trong đó có cậu bé Nguyễn Sinh Cung, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1985, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 95 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Nghệ An đã xây phần mộ bà trên núi Động Tranh, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn. Từ chân núi đi gần 300 bậc đá, lên đến phần mộ bà. Phía trên mộ có mái che là dàn bê tông được cách điệu như hình chiếc khung cửi thuở sinh thời bà vẫn dệt vải để kiếm tiền nuôi con.
- Núi Chung:
Nơi gắn liền với cuộc đời thơ ấu của Bác Hồ.
Tại điểm du lịch này có thể tổ chức các sản phẩm du lịch văn hoá lịch sử, đồng thời xây dựng các sản phẩm du lịch bổ sung để đáp ứng nhu cầu số lượng lớn khách tham quan.
- Lễ hội: lễ hội Làng Sen tổ chức hàng năm vào tháng năm (trùng với sinh nhật Bác).
³ Khu di tích núi Dũng Quyết
Khu du lịch núi Quyết nằm ở chân núi Quyết, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, với di tích Phượng Hoàng Trung Đô do vua Quang Trung xây dựng. Trên đường vào Nam ra Bắc qua phà Bến Thuỷ, nhìn về phía tây, có một dãy núi nhỏ, đó là rú Quyết ngút ngàn thông reo có diện tích 56 ha, với tiểu khu di tích thành cổ, nhà bia...
Nguyễn Huệ đã cho xây thành, dựng lầu điện tại đây. Phượng Hoàng Trung Đô được xây ở khoảng giữa núi Quyết và núi Kỳ Lân (rú Mèo), nay còn dấu tích của thành hình tam giác. Đó là thành nội, chu vi 1.680m giữa có lầu rồng ba tầng. Thành ngoại cấu tạo hình thang, chu vi 2.820m. Từ trên thành có thể nhìn thấy sông Lam, sông Vĩnh Doanh và kênh nhà Lê uốn lượn giữa cánh đồng Hưng Nguyên, Nam Đàn trải rộng. Hướng về phía đông có thể dõi về hòn Ngư, hòn Mát, cận kề với tám cảnh đẹp của Nghi Xuân (Nghi Xuân bát cảnh). Từ chân núi Quyết, du khách có thể đi thuyền xuôi sông Lam tham quan nhiều điểm di tích nổi tiếng khác.
³ Khu di tích Nguyễn Du (xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân)
Nguyễn Du (1765- 1820) là đại thi hào Việt Nam - danh nhân Văn hoá Thế giới, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân. Sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, với những biến cố dữ dội của đất nước, Nguyễn Du để lại cho nền văn học nước nhà những tác phẩm thơ kiệt xuất trường tồn mãi với thời gian.
Toàn bộ khu di tích Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền nằm rải rác trên vùng đất rộng chừng 20 ha từ bờ nam Sông Lam đến xứ Đồng Cùng, bao gồm đền thờ Nguyễn Huệ Đại Vương, cầu Tiên, khu lưu niệm, đền thờ Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng, mộ Nguyễn Du. Phần trọng tâm của khu di tích là khu lưu niệm và khu mộ Nguyễn Du. Năm 2001-2003, Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du đã được Bộ văn hoá Thông tin đầu tư tu bổ, tôn tạo lại khang trang.
Khu lưu niệm Nguyễn Du rộng khoảng 2 ha, từ cổng chính đi vào qua bệ đá khắc hai chữ "Hạ Mã", lần lượt đến nhà khách, nhà tư văn, bia tưởng niệm Nguyễn Quỳnh, nhà thờ Nguyễn Du, nhà trưng bày bảo tàng Nguyễn Du.
Nhà Tư văn 1, Tư văn 2 làm bằng gỗ lim lợp ngói vảy, xung quanh có tường cao. Hai nhà này là nhà văn thánh của huyện Nghi Xuân do Nguyễn Nghiễm đưa về năm 1790 bị cháy, người trong họ Nguyễn và quan viên trong huyện dựng lại, đây là trung tâm sinh hoạt văn hoá của những người trong họ và bạn bè thân thích.
Nhà thờ Nguyễn Du được xây dựng vào năm 1825 trên mảnh vườn nhà tại làng Tiên Điền, gồm thượng điện, hạ điện, bên phải nhà thờ là nhà trưng bày. Trong nhà có bàn thờ bằng vôi cát, một bàn nhỏ để góc bút nghiên, trên bàn thờ có một bức hoành đề chữ “ Hồng Sơn thế phả” do Hoàng Phù phái tước Trung hiến Đại phu tặng vào năm thứ 55 triều Càn Long đời nhà Thanh, phía ngoài nhà thờ treo bức đề chữ “ Địa linh nhân kiệt”.
Từ cổng chính đi vào bên phải nhà thờ Nguyễn Du là nhà trưng bày bảo tàng. Nội thất nhà trưng bày ngoài một số tài liệu tranh ảnh minh hoạ tác phẩm của Nguyễn Du thì có một số hiện vật quý như: nghiên mực, đĩa mai hạc Nguyễn Du được tặng trong thời gian đi sứ, nậm và chén uống rượu, gạc nai treo áo, la bàn dùng đi săn, bức phù điêu bằng gỗ ghi lại hình ảnh rước Tiến sĩ, hoàn sắc của Nguyễn Nghiễm.
Ngoài khu lưu niệm là phần mộ đại thi hào Nguyễn Du ở sứ Đồng Cùng , mộ được xây bằng gạch trên diện tích 702m2 bao gồm 3 phần: nhà chứa bàn thờ bia đá, phần mộ và vườn cây. Cổng mộ có 4 cột tứ trụ cao trên 3m, bằng gạch trát xi măng, phần mộ được bao quanh bằng hàng rào 9 x 16m, hàng rào thấp bằng gạch trát xi măng cẩn thận, vườn mộ được trồng một số cây cảnh như bàng, keo, phi lao, đặc biệt là rặng tre ngà đung đưa trong gió, sân gạch khang trang rộng khoảng 6 x 8 m. Bước đến nhà chứa bia đá, đi qua cánh cửa gỗ thấp nhiều song thẳng màu nâu đỏ. Bên trong có bia bằng đá Thanh đề dòng chữ “Danh nhân văn hoá thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820)”. Quanh bia khắc hình hoa văn thế kỷ XVIII theo luật đường triện. Lư hương tròn trắng được đặt trước mộ hình khối chữ nhật, cao 1,2 m; rộng 1,3 m; dài 2,3 m, vỉa bao quanh mộ được ốp đá đen. Nền mộ lát gạch Cẩm Trang, bia tường hình cuốn thư màu trắng đỉnh có hình long chầu nguyệt, hai bên là hình 2 ông nghê được người dân xây dựng rất khéo léo.
Từ khu lưu niệm về phía đông vài trăm mét là đến đền thờ Nguyễn Nghiễm còn gọi là đền Đức Đại Vương. Cách đền Nguyễn Nghiễm vài trăm mét là đền Nguyễn Trọng, đền có bia đặt trước tiền sảnh nội dung bia là bài ca tựa như “ Gia Huấn ca” của Nguyễn Trãi dùng để khuyên con cháu bảo vệ đạo lý của cha ông để lại.
Tóm lại, sông Lam mặc dù không là con sông màu mỡ phù sa, song lại là cái nôi của văn hoá xứ Nghệ. Nhắc đến xứ Nghệ, người ta không thể không nhắc đến sông Lam, với chiều dài của con sông xuyên suốt cả một vùng và xuyên suốt lịch sử đã tạo ra nhiều tiềm năng về cảnh quan và ý nghĩa tâm linh – tinh thần. Sông Lam có thể phát triển nhiều loại hình du lịch, trong đó du lịch văn hoá là tiềm năng to lớn mà không phải con sông nào cũng có được. Cần phải biết khai thác và phát huy những thế mạnh đó trong phát triển du lịch để nâng cao sự hiểu biết của thế hệ trẻ về lịch sử và phát triển du lịch địa phương.
Ch¬ng 2. hiÖn tr¹ng ph¸t triÓn du lÞch s«ng lam trong tæng thÓ du lÞch xø nghÖ
2.1. Hiện trạng phát triển du lịch sông Lam trong tổng thể du lịch xứ Nghệ từ năm đầu 2009 trở về trước
Xứ Nghệ trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực du lịch, việc khai thác những nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn vào việc phát triển du lịch đã được triển khai có hệ thống, vì vậy lượng khách du lịch đến Nghệ An va Hà Tĩnh trong những năm vừa qua có sự gia tăng đáng kể, góp phần làm tăng doanh thu ngành du lịch trong bối cảnh hội nhập.
2.1.1. Đánh giá tổng hợp khách du lịch thời kỳ năm 2002-2008 của toàn tỉnh Nghệ An
Bảng HT-1: Khách du lịch đến Nghệ An giai đoạn 2002-2008
Đơn vị: 1. Người
2. Ngày
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
1.Tổng số khách
634.689
762.145
1.046.265
1.400.820
1.587.654
2.009.419
2.767.551
Trong đó
Khách quốc tế
Khách nội địa
20.815
613.874
15.768
746.377
26.362
1.019.903
40.897
1.359.973
44.093
1.543.561
69.735
1.939.684
84.279
2.683.272
2.Ngày khách lưu lưu trú bình quân
-
-
-
-
-
1,54
1,53
Khách quốc tế
1,65
1,74
2,02
1,45
1,48
-
-
Khách nội địa
1,82
1,81
1,47
1,52
1,55
-
-
Nguồn: Sở VH,TT&DL Nghệ An, 2009
Qua bảng tổng hợp trên dễ dàng nhận thấy những con số tăng lên đáng kể, phân tích tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về khách du lịch đạt khoảng 23%. So sánh tỷ trọng khách du lịch quốc tế và nội địa cho thấy khách du lịch quốc tế đạt 3% tổng số khách đến Nghệ An. Xem xét về mức độ tăng trưởng hàng năm cho thấy: Mức tăng trưởng khách du lịch quốc tế hàng năm đạt tốc độ trung bình là 21,85%, có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, song số lượng vẫn còn quá thấp so với khách nội địa. Lượng khách du lịch nội địa đến Nghệ An tăng ồ ạt trong những năm qua, so sánh số liệu năm 2002, khách nội địa đến tỉnh đạt 613.874 và năm 2008 lên đến 2.683.272 lượt khách tăng gấp 4,3 lần. Nguồn khách đến Nghệ An chủ yếu là cán bộ công nhân viên, dân cư của các thành phố từ các tỉnh phía Bắc về nghỉ mát, nghỉ dưỡng, hoặc công tác, hội họp kết hợp tham quan du lịch.
Do đặc điểm vị trí địa lý của Tỉnh nằm trên đường vận chuyển giữa Bắc-Nam; Việt Nam - Lào - Thái Lan nên khách du lịch đến Nghệ An ít và có thời gian ngắn, biểu đồ biểu diễn độ dài lưu trú trung bình của khách trong thời kỳ không đều. Nguyên nhân là do Nghệ An nằm trên trục đường trung chuyển Bắc - Nam và Đông - Tây nên khách có thể không lưu trú để tiết kiệm thời gian đi du lịch, tài nguyên tuy nhiều nhưng chưa thực sự đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế và khách có yêu cầu cao, sản phẩm dịch vụ du lịch chưa hấp dẫn để níu kéo khách quyết định lưu trú tại Nghệ An.
Bảng HT2- Doanh thu từ du lịch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2002-2008.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng doanh thu
172.043
191.853
266.811
385.396
459.751
578.744
744.988
Khách nội địa
162.726
183.068
252.294
360.312
425.965
572.720
735.148
Khách quốc tế
9.317
8.785
14.517
25.000
33.186
6.024
9.840
1-Doanh thu d.v du lịch
131.807
155.190
230.229
346.651
419.502
532.932
686.665
Lưu trú
53.675
63.151
91.245
140.124
172.449
226.113
287.847
Ăn uống
57.163
66.150
102.348
161.039
188.826
244.533
322.797
Lữ hành
4.568
4.752
8.299
9.774
16.098
18.171
23.319
Vận chuyển khách
4.247
5.083
8.980
8.188
11.618
13.125
18.848
Dịch vụ khác
12.154
16.054
19.357
27.526
30.511
30.990
33.854
2-Doanh thu d.v bán hàng cho khách du lịch
40.236
36.663
36.582
38.745
40.249
45.812
58.323
Nguồn: Sở VH,TT&DL Nghệ An,2009
Qua nghiên cứu hiện trạng cho thấy doanh thu từ du lịch đạt cao, năm sau cao hơn năm trước từ cả hai nguồn khách quốc tế và nội địa, trong đó doanh thu từ khách nội địa chiếm tỷ trọng lớn hơn, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 19,5%. So sánh doanh thu từ nguồn khách quốc tế và nội địa, năm 2002, doanh thu từ khách nội địa là 162,726 tỷ đồng, chiếm 95% tổng doanh thu, khách du lịch quốc tế đạt 9,317 tỷ đồng; đến năm 2004 doanh thu từ khách du lịch nội địa đạt 252,294 tỷ đồng, chiếm 95% tổng doanh thu, khách quốc tế đạt 12,517 tỷ đồng; năm 2005 doanh thu từ khách nội địa đạt 360,312 tỷ đồng, chiếm 92,42% tổng doanh thu, khách quốc tế đạt 25 tỷ; năm 2006 doanh thu khách du lịch đạt mức cao nhất trong thời kỳ nghiên cứu là 425,965 tỷ đồng chiếm 93% tổng doanh thu, doanh thu từ khách quốc tế cũng tăng lên gấp 8 lần so với năm 2000; tổng doanh thu đang ngày càng tăng nhanh, năm 2007 đạt 578,744 tỷ đồng, năm 2008 đạt 744,988. Từ các số liệu trên rút ra một số vấn đề là doanh thu từ khách tăng trưởng hàng năm cao, và chính là doanh thu từ khách nội địa, nhưng xét tốc độ tăng trưởng hàng năm thì doanh thu dịch vụ du lịch từ khách du lịch quốc tế tăng nhanh hơn khách du lịch nội địa.
2.1.2. Đánh giá tổng hợp khách du lịch thời kỳ 2002-2008 của toàn tỉnh Hà Tĩnh
Cùng với du lịch Nghệ An, du lịch Hà Tĩnh cũng đang trên đà phát triển, mặc dù chưa cao, nhưng khá ổn định và có nhiều tiềm năng.
Bảng HT3- Khách du lịch đến Hà Tĩnh giai đoạn 2002-2008
Đơn vị: 1. Người
2. Ngày
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
1.Tổng số khách
52.700
75.840
100.000
128.000
145.700
197.263
-
Trong đó
Khách quốc tế
Khách nội địa
2.170
50.630
3.000
72.000
4.000
96.000
5.200
122.800
5.700
140.000
6.729
179.971
-
2.Ngày khách lưu trú trú bình quân
1,68
1,78
1,88
2,0
1,9
2,28
-
Khách quốc tế
1,3
1,3
1,5
1,9
2,0
2,0
-
Khách nội địa
1,7
1,8
1,9
2,0
1,9
2,3
-
Nguồn: Sở VH,TT&DL Hà Tĩnh, năm 2009
Lượng khách du lịch đến Hà Tĩnh mặc dù ít, nhưng tương đối ổn định. Năm 2007, toàn ngành đón 197.263 lượt khách, tăng 28% so với năm 2006; trong đó khách quốc tế đạt 6.729 lượt, tăng 13%; khách nội địa 179.971, tăng 29%. Khách du lịch nội địa đến Hà Tĩnh cũng chủ yếu là từ Hà Nội và các tỉnh phụ cận như Nghệ An, Quảng Bình… với mục đích tắm biển, tham quan các di tích lịch sử, công vụ… Khách từ phía Nam ra chủ yếu là khách du lịch công vụ, quá cảnh qua Hà Tĩnh. Ngoài ra còn một bộ phận người dân Hà Tĩnh cũng tham gia vào dòng khách du lịch cuối tuần. Các doanh nghiệp lữ hành đã tích cực phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành ngoại tỉnh tích cực khai thác thị trường khách từ Lào và Thái Lan. Năm 2008, các doanh nghiệp lữ hành đã trực tiếp đón trên 300 lượt khách từ Lào Và Thái Lan đến Hà Tĩnh du lịch và công tác, đưa 400 lượt khách từ Hà Tĩnh sang Lào, Thái Lan và Trung Quốc tham quan bằng đường bộ; thực hiện hợp đồng du lịch với các cơ quan, tổ chức trong tỉnh đưa khoảng 1.300 lượt khách đi tham quan, học hỏi, nghỉ ngơi ở nhiều tỉnh khác.
Du lịch Hà Tĩnh trong những năm qua đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, một số chỉ tiêu đạt và vượt mức kế hoạch. Tổng doanh thu từ hoạt động du lịch toàn ngành năm 2007 đạt 71,638 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2006. Trong đó, doanh thu lữ hành đạt 1,271 tỷ đồng (chiếm 2%), doanh thu lưu trú đạt 37,449 tỷ đồng (chiếm 52%), doanh thu ăn uống, bán hàng đạt 24,347 tỷ đồng 24,347 tỷ đồng (chiếm 34%), doanh thu du lịch khác 8,571 tỷ đồng (chiếm 12%). Nộp ngân sách nhà nước 7,148 tỷ đồng, tăng 43%. Mức tăng doanh thu những năm gần đây tăng mạnh. Đặc biệt là những năm 2006-2007 (15,57%).
Bảng TT4- Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch giai đoạn
2002-2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Doanh thu
Giá trị
26.720
31.250
38.250
46.930
54.444
71.638
Gia tăng(%)
-
16,95
22,40
22,69
16,01
31,58
Nộp ngân sách
2.200
2.658
3.465
4.871
5.021
6.513
Tổng doanh thu
63.000
78.000
95.70
-
-
-
Doanh thu QT
-
13.820
19.140
-
-
-
% trong tổng số
-
17,72
20,00
-
-
-
Doanh thu NĐ
-
64.180
76,560
-
-
-
% trong tổng số
-
82,28
80,00
-
-
-
Nguồn: Sở VH,TT&DL Hà Tĩnh, 2009
2.1.3. So sánh du lịch Nghệ An & Hà Tĩnh với các tỉnh trong khu vực
Bảng HT5- So sánh số lượng khách quốc tế với các tỉnh trong khu vực thời kỳ 2002-2008
Đơn vị: Lượt khách
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Nghệ An
20.815
15.768
26.362
40.897
44.093
69.735
84.279
Hà Tĩnh
3.000
4.000
5.200
5.700
5.944
6.729
-
Thanh Hoá
3.782
3.063
4.000
6.500
6.745
-
-
Huế
272.000
210.000
260.000
369.000
401.023
-
-
Nguồn: Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch
Bảng HT6- So sánh số lượng khách nội địa với các tỉnh trong khu vực
Đơn vị: Lượt khách
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Nghệ An
613.874
746.377
1.019.903
1.359.973
1.543.561
1.939.684
2.683.272
Hà Tĩnh
72.840
96.000
122.800
140.000
163.324
179.971
-
Thanh Hoá
557.352
628.731
696.000
993.500
1.342.880
-
-
Huế
391.000
400.000
500.000
681.000
756.345
-
-
Nguồn: Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch
Bảng HT7- So sánh doanh thu du lịch với các tỉnh liền kề
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Nghệ An
172.043
191.853
266.811
385.396
459.751
578.744
744.988
Hà Tĩnh
63.000
78.000
95.700
-
-
-
-
Thanh Hoá
126.314
141.118
160.000
245.000
265.000
-
-
Huế
302.000
280.000
350.000
543.400
678.300
-
-
Nguồn: Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch
2.1.4. Hiện trạng du lịch sông Lam
Cụm từ du lịch sông Lam không phải quá xa lạ với người dân nơi đây, song việc biến di sản ven bờ sông Lam thành tour du lịch thì vẫn mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm. Một số công ty du lịch tại thành phố Vinh đã ttổ chức bán thử tour Du ngoạn trên dòng sông Lam, nhưng chưa đạt được thành công như mong muốn, bởi chưa có điểm nhấn thu hút, cũng chưa có những giải pháp làm cho khách có hứng thú với tour. Tính ra trên địa phận các điểm du lịch ven sông Lam chỉ có Kim Liên – Nam Đàn là hàng năm thu hút lượng đông du khách tham quan, là điểm du lịch nổi trội ở Nghệ An, là một trong 14 trọng điểm du lịch của cả nước cũng bởi giá trị vốn có của nó, là tấm lòng của khách trong và ngoài nước đối với chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Được sự quan tâm của nhà nước, của tỉnh, địa phương và sự đóng góp của lực lượng lao động đông đảo, nhưng theo số liệu cho thấy, khách tham quan đến Nam Đàn đông khoảng trên 1 triệu người, riêng năm 2008 là 1,6 triệu người, nhưng doanh thu của huyện từ du lịch còn thấp, mỗi năm chỉ trên dưới 1 tỷ đồng, do chưa có nhiều sự chi tiêu của khách cho dịch vụ. Khách thập phương chỉ ghé qua nơi đây mà không có ý định nghỉ lại, bởi lý do tiết kiệm thời gian và chưa có nhiều các dịch vụ hấp dẫn, đạt tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, cơ sở vật chất kỹ thuật còn chưa được mở rộng và nâng cấp; đặc sản, lễ hội, phong tục còn chưa được nâng tầm thành sản phẩm du lịch độc đáo; đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngành còn nhiều hạn chế, nhất là trình độ ngoại ngữ.
Điểm du lịch núi Quyết - Phượng Hoàng Trung Đô cũng đã được đưa vào danh sách ưu tiên khai thác. Nhân dịp kỷ niệm 110 năm Phượng Hoàng Trung Đô, tỉnh đã tổ chức lễ rước cho nhân dân, thu hút một lượng lớn khách du lịch trong vùng tham gia, nhưng cũng như du lịch Nam Đàn, doanh thu từ hoạt động này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Những điểm khác ven sông Lam mặc dù cũng là những điểm di tích nổi bật mang ý nghĩa quan trọng nhưng việc triển khai phát triển du lịch ở đây chưa rộng rãi, chưa có hình thức quảng cáo phù hợp, việc trùng tu, bảo tồn di tích chưa đồng bộ.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn
2.2.1. Thuận lợi
Vị trí địa lý là một trong những lợi thế cơ bản và quan trọng phát triển du lịch xứ Nghệ. Xứ Nghệ trở thành trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, trung tâm giao lưu Đông – Tây, cửa ngõ quốc tế với các nước láng giềng Lào, Thái Lan, Trung Quốc.
Tiềm năng tài nguyên du lịch đa dạng tạo cho tỉnh những lợi thế so sánh rõ rệt so với các địa phương khác trong vùng về phát triển kinh tế nhất là dịch vụ, lương thực thực phẩm phong phú, giá cả hợp lí. Với nguồn lao động dồi dào, trình độ dân trí tương đối cao, người dân lao động cần cù, chịu khó và nhiều người thành đạt trong, ngoài nước. Hệ thống giao thông trong vùng đa dạng kết nối với các địa phương và quốc tế.
Du lịch là ngành nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Du lịch Sông Lam - Hành trình tìm hiểu di tích và danh nhân.doc