Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CẢM ƠN. 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐLÝ THUYẾT KINH TẾVỀ ĐẦU TƯCÙNG VAI TRÒ

CỦA ĐẦU TƯVỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ. 2

I. Tổng quan về đầu tư. 2

1. Khái niệm: . 2

2. Các loại hình đầu tư. 3

3. Các lí thuyết kinh tếvề đầu tư. 7

II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 17

1. Khái niệm . 17

1.2 Khái niệm phát triển kinh tế. 19

1.3 Mối quan hệgiữa tăng trưởng và phát triển . 19

2. Một sốchỉtiêu đánh giá . 21

2.1. Một sốthước đo tăng trưởng . 21

2.2. Các chỉsốvềcơcấu kinh tế. 24

III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯVỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾQUA CÁC LÝ

THUYẾT KINH TẾVÀ ĐẦU TƯ. 28

1. Đầu tưtác động đến tổng cung của nền kinh tế. . 28

1.1. Lí thuyết tăng trưởng kinh tếcủa trường phái cổ điển. . 28

1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tếcủa K.Marx . 30

1.3 .Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư. . 31

1.4. Mô hình Harrod-Domar . 32

1.5 Lý thuyết tăng trưởng kinh tếcủa trường phái kinh tếhiện đại . 35

2. Mô hình của Keynes . 38

3. Đầu tưtạo sựphát triển cho các ngành kinh tếmũi nhọn từ đó tạo ra sự

dịch chuyển cơcấu kinh tế. . 40

3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow . 40

3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis . 42

3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima . 43

3.2.2. Nội dung của mô hình . 44

4. Tác động của đầu tưphát triển đến khoa học và công nghệ. . 47

5. Đầu tư đúng hướng cho phép khai thác lợi, phát triển ngoại thương . 49

5.1. Quan điểm của Adam Smith . 49

5.2. Lí thuyết của Ricarđo và Heckscher-Ohlin. . 51

I. Tổng quan về đầu tưphát triển ởViệt Nam trong các năm qua . 57

1. Đầu tưtrong nước: . 57

2.Đầu tưnước ngoài . 59

II. Tổng quan vềtăng trưởng kinh tếcủa Việt Nam trong thời gian qua . 61

III.Tác động của đầu tưvới tăng trưởng kinh tế ởViệt Nam trong thời

gian qua . 70

III. Một sốtồn tại trong hoạt động đầu tư ởViệt Nam đã và đang tác

động đến tăng trưởng kinh tế. . 78

1. Hạn chếcủa đầu tư. . 78

2. Hạn chếtrong tăng trưởng kinh tế. 84

CHƯƠNG III: MỘT SỐGIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢSỬDỤNG VỐN ĐẦU TƯTẠI VIỆT NAM. 85

KẾT LUẬN.86

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 87

pdf90 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5802 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rưởng bảo đảm với tốc độ tăng trưởng tự nhiên Mô hình Harrod–Domar có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ đầu của các giai đoạn phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Quan điểm chủ yếu của mô hình này là nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố vốn-vốn là vấn đề chủ yếu nhất để tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế… cũng dựa vào mô hình này để nhấn mạnh vai trò của viện trợ trong việc bù đắp các chênh lệch về vốn và trao đổi ngoại thương. • Hạn chế của mô hình Sự đơn giản hóa khi coi tăng trưởng chỉ do đầu tư đem lại. Thực tế có thể xảy ra những trường hợp như: đầu tư thiếu hiệu quả không tạo nên tăng trưởng, tăng trưởng không phải sử dụng giải pháp đầu tư và đầu tư đến mức độ nào đó sẽ bị quy luật lợi tức giảm dần chi phối. Tóm lại, nhược điểm của mô hình Harrod - Domar là chỉ quan tâm đến vốn mà bỏ qua vai trò của lao động, vai trò của kỹ thuật công nghệ và vai trò của chính sách 1.5 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại Các nhà kinh tế học hiện đại ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế, nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes. Những ý tưởng cơ bản của học thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Kinh tế học” của P.Samuelson xuất bản năm 1948. Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế theo mô hình của Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 36 Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế thường dưới mức tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường của nền kinh tế vẫn có lạm phát và thất nghiệp. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có thể chấp nhận được. Sự cân bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao điểm của tổng cung và tổng cầu. Lý thuyết hiện đại cũng thống nhất với mô hình kinh tế Tân cổ điển về xác định các yếu tố tác động đến tổng cung nền kinh tế: lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, khoa học. Y = f (K, L, R, T). Tuy nhiên, Samuelson cho rằng tầm quan trọng của các yếu tố là như nhau. Như vậy, trường phái hiện đại cũng cho rằng vốn là một trong những yếu tố làm tăng trưởng kinh tế. Hàm sản xuất dạng Cobb- Douglas: Y= F (L,K,R,A ) (1.1) Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện tác động của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế: α β γ =Y AK L R (1.2) α β γ= + + +g a k l r (1.3) Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào. a là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ. Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 37 có công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong phân tích và dự báo kinh tế ngày nay hệ số ICOR được coi là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. ∆ = ∆ Kk Y và sg k = (1.4) Trong đó: k - hệ số ICOR (tỷ lệ gia tăng vốn và đầu ra). ,K Y∆ ∆ tương ứng là mức gia tăng vốn và mức gia tăng đầu ra. s là tỷ lệ tiết kiệm. g là tốc độ tăng trưởng. Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như cách tiếp cận của Keynes: Y = f (C, G, I, NX) (1.5) Trong đó: C - tiêu dùng của các hộ gia đình G - chi tiêu của chính phủ I - tổng đầu tư NX - xuất khẩu ròng Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng cung và tổng cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ thất nghiệp, mức giá - tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào. Mặt khác vai trò của Chính phủ ngày càng được coi trọng. Việc mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, không chỉ vì thị Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 38 trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Theo Samuelson, trong nền kinh tế hiện đại, Chính phủ có bốn chức năng cơ bản: thiết lập khuôn khổ pháp luật; xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế; thiết lập các chương trình tác động tới việc phân phối thu nhập 2. Mô hình của Keynes Học thuyết kinh tế của Keynes ra đời vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản phương Tây diễn ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng, đặc biệt cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 -1933 đã làm tan rã tư tưởng tự do kinh tế Với quan điểm trọng cầu, Keynes đã xây dựng nên mô hình kinh tế vĩ mô, trong đó yếu tố trung tâm là vai trò điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước thông qua các giải pháp kích thích cầu để tác động vào các khuynh hướng tâm lý chung của xã hội: Khuynh hướng tiêu dùng, khuynh hướng tiết kiệm, khuynh hướng ưu chuộng tiền mặt,… với mục đích là để chống đỡ khủng hoảng, thất nghiệp Năm 1936, sự ra đời của tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của John Maynard Keynes (1883-1946) đánh dấu sự ra đời của học thuyết kinh tế mới. Keynes cho rằng có hai đường tổng cung: đường tổng cung dài hạn AS- LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng, và đường tổng cung ngắn hạn AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thường cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng. Keynes cũng đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Theo ông, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích luỹ. Nhưng xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng trung Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 39 bình sẽ giảm, xu hướng tiết kiệm trung bình tăng. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm. Ông cho rằng đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn dến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế. Keynes đưa ra mô hình tổng cầu : Y = C + I + G + NX Trong đó : Y là tổng lượng cầu của sản phẩm của một nền kinh tế C là chi tiêu tiêu dùng - tức là tổng cầu về hàng tiêu dùng và dịch vụ I là chi tiêu đầu tư G là chi tiêu của chính phủ NX là xuất khẩu ròng Keynes cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến qui mô việc làm, khối lượng đầu tư phụ thuộc lãi suất cho vay và năng suất cận biên của vốn. Keynes sử dụng lý luận về việc làm và sản lượng do cầu quyết định để giải thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp kéo dài trong những năm 30 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây, do đó lý thuyết này còn gọi là thuyết trọng cầu. AD PL0 GDY* AS-SR AS-LR PL Y0 Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 40 Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận: muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm tăng cầu tiêu dùng. Ông cũng cho rằng Chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng những chính sách kinh tế: chính sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất... nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 3. Đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn từ đó tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. 3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow Trong đầu những năm 1950, khi thế giới đang khôi phục lại từ sự tàn phá của Thế Chiến Hai và hầu hết những nước là thuộc địa của các nước phát triển đều được độc lập, có một nhu cầu lớn về các chính sách phát triển đối với các nước mới độc lập này. Để chống lại đe doạ lan rộng từ chế độ cộng sản, các nước tư bản phát triển cố gắng đưa ra các đề xuất chính sách cứng rắn đối với các nước mới độc lập, các đề xuất này nhằm đưa các nước kém phát triển đi theo chiều hướng phát triển. Thành công của Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm giúp các nước mới thành lập ở các nước Tây Âu là thực tế và kinh nghiệm lịch sử của nước phát triển trong việc chuyển đổi các xã hội nông nghiệp sang các nước công nghiệp hiện đại có thể có những bài học quan trọng cho các nước đang phát triển, dẫn đến việc hình thành các lý thuyết giai đoạn của Rostow. Theo Rostow, việc chuyển đổi từ kém phát triển đến phát triển có thể được nhận thấy trong hàng loạt các bước hay giai đoạn thông qua đó tất cả các nước phải đi đến. Ông miêu tả ba giai đoạn này là: Giai đoạn 1- Xã hội truyền thống: Giai đoạn này là giai đoạn đầu tiên của sự phát triển, như các xã hội săn bắn và hái lượm của Adam Smith hay các xã hội phong kiến của Marx. Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 41 Giai đoạn 2- Giai đoạn chuẩn bị cho sự cất cánh: Đây là giai đoạn bắt đầu có sự tiết kiệm. Một hay hai lĩnh vực sản xuất hàng hoá quan trọng với tiềm năng phát triển lớn được chú ý đến và đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng được thực hiện. Giai đoạn 3- Giai đoạn cất cánh: Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng nhất trong 5 giai đoạn của mô hình Rostow. Lĩnh vực này có thể được nhận biết nhờ 3 đặc điểm chính, đó là: • Một sự gia tăng trong tỷ lệ đầu tư sản xuất từ 5% hay thấp hơn, trở thành 10% hay nhiều hơn thu nhập quốc dân. • Sự phát triển của một hay hai lĩnh vực sản xuất quan trọng hơn với một tỷ lệ tăng trưởng cao. • Sự tồn tại hay xuất hiện nhanh chóng của các khuôn khổ về thể chế, xã hội và chính trị làm nẩy sinh các động lực cho sự mở rộng khu vực hiện đại. Giai đoạn 4- Hướng tới giai đoạn trưởng thành: Đây là giai đoạn khi mà tất cả các cản trở đối với giai đoạn cất cánh không còn và xã hội đã tự đi vào con đường tăng trưởng kinh tế bền vững. Giai đoạn 5- Giai đoạn tiêu dùng cao: Đây là giai đoạn cuối cùng. Một khi đã đạt được tới giai đoạn này thì tất cả các vấn đề mà các nước kém phát triển phải đối mặt với cũng sẽ qua và các xã hội sẽ đạt tới một giai đoạn tiêu dùng rộng lớn hơn. Mô hình W.Rostow mặc dù có nhiều hạn chế về cơ sở của sự phân đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự nhất quán về đặc trưng của mỗi giai đoạn so với thực tế, nhưng đứng trên góc độ mối quan hệ giữa sự chuyển dịch cơ cấu với quá trình phát triển thì mô hình này đã chỉ ra một sự lựa chọn hợp Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 42 lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của mỗi quốc gia 3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis Vào những khoảng giữa thập niên 50 của thế kỷ 20, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Jamaica A.Lewis, trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh tế” đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng, gọi là “ Mô hình hai khu vực cổ điển”. Đặc trưng chủ yếu của mô hình hai khu vực cổ điển là phân chia nền kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế nhị nguyên và nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực Những tư tưởng của Lewis dựa vào nghiên cứu của Ricardo. Hai vấn đề mà Ricardo đưa ra là:  Có sự giảm dần lợi nhuận trong nông nghiệp (quy luật lợi tức giảm dần). Đây là điểm khác biệt với sản xuất công nghiệp.  Có lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp, tuy nhiên khái niệm dư thừa lao động trong nông nghiệp và công nghiệp được xem xét khác nhau. Cách đặt vấn đề của Ricardo: Phát triển nông nghiệp có giới hạn, cần chuyển hướng sang phát triển công nghiệp. Sự phát triển nông nghiệp phải chuyển hướng như thế nào để không làm cản trở sự phát triển công nghiệp. Với hai vấn đề trên, Ricardo kết luận rằng khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối, cần giảm dần cả về quy mô và tỷ trọng đầu tư. Nên hướng giải quyết của Lewis là chuyển lực lượng lao động trong nông nghiệp ra khỏi nông nghiệp nhưng không làm giảm sút sản lượng nông nghiệp và huy động lao động đó vào khu vực công nghiệp. Giả thuyết của mô hình hai khu vực cổ điển: Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 43 - Một nền kinh tế kém phát triển bao gồm hai khu vực: truyền thống và hiện đại - Khu vực nông nghiệp dư thừa lao động - Tiền công tiền lương của khu vực công nghiệp không đổi khi lao động còn lao động dư thừa Wcn = Wnn + 30% Wnn Nội dung chính: Nội dung của thuyết tập trung ở 2 khu vực là : khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Mô hình này xác định một hướng giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Mô hình này xây dựng dựa trên cơ sở khả năng và nhu cầu thu hút lao động của khu vực công nghiệp theo khả năng tích lũy vốn của khu vực này. Mô hình này chỉ ra rằng khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động, tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khả năng tích lũy và đầu tư của khu vực công nghiệp. Cũng chính từ lập luân đó mà mô hình Lewis còn chỉ ra những hệ quả về mặt xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế và góp phần lý giải những hiện tượng nghiên cứu thực chứng về mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng xã hội trong mô hình U ngược của Kuznets Tuy vậy, mô hình còn có những hạn chế: Mô hình ngầm giả định tốc độ thuyên chuyển lao động tỷ lệ thuận với tốc độ tích lũy vốn. Tuy nhiên ở LDCs các khoản lợi nhuận thặng dư tư bản lại được tái đầu tư vào ngành thậm dụng vốn chứ không phải thâm dụng lao động  Mô hình giả thiết khu vực thành thị toàn dụng nhân công nhưng ở các nước đang phát triển khu vực thành thị vẫn còn lao động dư thừa  Ở các nước đang phát triển khi khu vực nông nghiệp còn dư thừa lao động, W của khu vực công nghiệp vẫn tăng 3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 44 3.2.1. Cơ sở xuất phát của mô hình Dựa trên những điểm khác biệt trong sản xuất nông nghiệp ở các nước châu á và châu Âu, Harry T. Oshima, nhà kinh tế học Nhật bản đã đưa ra mô hình phát triển hai khu vực ở các nước châu Á, được thể hiện thông qua cuốn: “Tăng trưởng kinh tế châu Á gió mùa”. Khác với Arthus Lewis và một số nhà kinh tế học phát triển khác, T. Oshima cho rằng ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở các nước châu á thì không phải lúc nào cũng có tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn. Sở dĩ có điều này là do nền nông nghiệp lúa nước ở các nước châu á có tính thời vụ rất cao. Ở đây, sản lượng nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vụ thu hoạch – khi đó, sẽ không có sự dư thừa lao động, thậm chí là còn bị thiếu. Tình trạng dư thừa lao động chỉ diễn ra vào lúc nông nhàn. Chính vì vậy theo ông nếu áp dụng nguyên si mô hình chuyển dịch của Lewis-Fei-Renis sẽ không thích hợp ở các nước châu Á. 3.2.2. Nội dung của mô hình Ông cũng chỉ ra rằng việc đầu tư nhiều vào nông nghiệp trong ngắn hạn là không thực hiện được do nền kinh tế ở các nước đang phát triển thường ở trong tình trạng thiếu các nguồn lực về vốn và khoa học công nghệ. Do vậy, để khắc phục tình trạng lao động theo mùa vụ ở khu vực nông nghiệp, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, theo T. Oshima, có thể tiến hành theo ba bước như sau: Bắt đầu cho quá trình tăng trưởng: tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi Theo ông, trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng kinh tế, có thể tăng năng suất lao động trong nông nghiệp bằng cách giảm thiểu số lao động dư thừa vào thời kỳ nông nhàn. Do ở các nước đang phát triển ở châu á, cơ giới hóa chưa được ứng dụng nhiều nên tăng công ăn việc làm bằng mở rộng Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 45 qui mô canh tác là hết sức khó khăn. Vì vậy, biện pháp cơ bản là tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng như trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản, trồng cây lâm nghiệp. Khi có nhiều việc làm hơn, thu nhập của người nông dân tăng lên, họ có thể chi tiêu nhiều hơn cho giống mới, phân hóa học, thuốc trừ sâu và công cụ lao động. Bên cạnh đó, để nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả của các việc làm khác, tăng tốc độ tiêu thụ nông sản thì khu vực nông nghiệp cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt: xây dựng hệ thống kênh mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn, tăng cường và mở rộng các dịch vụ khuyến nông, nâng cấp hệ thống giáo dục và điện khí hóa nông thôn. Cải tiến các hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức các dịch vụ nông thôn; hỗ trợ của các tổ chức tín dụng để nông dân có thể mua giống mới và áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật, cải cách ruộng đất để khắc phục tình trạng đất nông nghiệp còn manh mún, phân tán, giúp người nông dân phát huy cao độ nỗ lực của mình. Vào giai đoạn này thì tất cả những khoản đầu tư kể trên trong khu vực nông nghiệp sẽ không đáng kể so với đầu tư vào khu vực công nghiệp. Cùng với việc gia tăng số lượng lao động trong khu vực nông nghiệp là sự tăng sản lượng trong khu vực này. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu nhập khẩu lương thực giảm xuống đồng nghĩa với việc tiết kiệm ngoại tệ, và tạo ra khả năng xuất khẩu lương thực đồng nghĩa với việc tăng nguồn thu về ngoại tệ. Và kết quả là nguồn ngoại tệ của quốc gia sẽ dồi dào hơn để nhập khẩu các máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Hướng tới việc làm đầy đủ Giai đoạn kế tiếp là tiến hành đa dạng hóa nông nghiệp, tăng việc làm phi nông nghiệp bằng đầu tư vào các hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ và các hoạt động dịch vụ. Điều này đòi hỏi sự hoạt động đồng bộ từ sản xuất, vận chuyển, bán hàng cho đến các dịch vụ Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 46 hỗ trợ như tài chính, tín dụng, và các ngành có liên quan như công nghiệp phân bón, hóa chất, các ngành cung cấp nguyên liệu và công cụ sản xuất cho nông nghiệp. Khi đó sự phát triển nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy mở rộng thị trường cho khu vực công nghiệp, tạo cơ hội để tăng quy mô sản xuất công nghiệp cũng như về các hoạt động dịch vụ. Khi đó nhu cầu thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ tăng lên. Quá trình này diễn ra trong nhiều năm cho đến khi khả năng tăng việc làm vượt quá tốc độ tăng lao động, làm cho thị trường lao động bắt đầu thu hẹp, tiền lương thực tế tăng lên, quá trình này còn phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và khả năng giải quyết việc làm của từng nước. Sau khi có việc làm đầy đủ Như đã trình bày ở trên, quá trình công nghiệp hóa diễn ra qua nhiều bước, được tiến hành liên tục, kéo dài trong nhiều năm, đồng thời với việc tiền lương thực tế trong nông nghiệp có xu hướng tăng dần với tốc độ ngày càng nhanh. Khi đó sẽ xuất hiện việc thay thế lao động chân tay bằng máy móc vì lúc này sử dụng máy móc sẽ rẻ hơn sử dụng nhân công. Trong điều kiện đó, nông nghiệp sẽ chuyển dần dần sang sản xuất bằng cơ giới hóa. Các phương pháp sinh học được ứng dụng rộng rãi để tăng sản lượng. Các máy cày, máy đập, gặt, phun nước, máy bơm, làm cỏ, máy sấy và phương tiện vận tải cơ giới ngày càng được mở rộng đã tiết kiệm thời gian cho nông dân trên đồng ruộng, giải phóng được phần lớn lao động trong thời kỳ bận rộn nhất, tạo điều kiện cho việc thu hút lao động từ khu vực này sang khu vực công nghiệp mà sản lượng trong khu vực nông nghiệp vẫn tăng lên. Nhờ những kinh nghiệm đã đúc rút được trong quá trình sản xuất, các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu bắt đầu tìm thị trường nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm của mình. Do những ngành này là những ngành sử dụng Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 47 nhiều lao động, vốn đầu tư ít, công nghiệp không mấy phức tạp nên khả năng cạnh tranh sản phẩm của chúng có xu hướng ngày càng tăng. Việc mở rộng các ngành này đồng nghĩa với việc sự thiếu hụt cung lao động ở khu vực nông nghiệp cho khu vực công nghiệp trong khi thị trường nông thôn cũng đạt đến trạng thái toàn dụng nhân công, tiền công tăng lên đồng thời khu vực dịch vụ cũng mở rộng. Sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ nhằm đáp ứng cho sự phát triển của khu vực nông nghiệp và công nghiệp thay thế nhập khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Khi giai đoạn chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp được hoàn thành thì nền kinh tế bước sang một giai đoạn tiếp theo là giai đoạn dịch chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ. Tóm lại, trong mô hình phát triển của T. Oshima sự tăng trưởng bắt đầu bằng việc tăng công ăn việc làm cho những tháng nông nhàn bằng việc đa dạng hóa hoạt động nông nghiệp mà không có sự dịch chuyển lao động từ khu vực này sang các khu vực khác. Tiếp đó là có thể thu hút lao động nhàn rỗi vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, như mô hình Lewis-Fei- Ranis đã chỉ ra. Điều đó sẽ làm cho thu nhập của người nông dân tăng lên, tạo cơ hội mở rộng thị trường cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Nền kinh tế quá độ từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Khi thị trường lao động rơi vào tình trạng thiếu cung thì tiền công thực tế sẽ tăng nhanh, cơ giới hóa sẽ được sử dụng phổ biến trong nông nghiệp và công nghiệp nhằm thay thế lao động chân tay bằng lao động máy móc. Việc sử dụng máy móc và khoa học công nghệ trong sản xuất sẽ làm tăng nhanh năng suất lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Khi đó, nền kinh tế dần dần quá độ từ công nghiệp sang dịch vụ. 4. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ. Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 48 Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng , phần mềm, yếu tố con người, yếu tố tổ chức,…Muốn có công nghệ, cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Trong mỗi thời kỳ, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng lao động, nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học và công nghệ Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh…Công nghệ do tự nghiên cứu và triển khai được thự hiện qua nhiều giai đoạn, từ nghiên cứu, đến thí nghiệm, sản xuất thử, sản xuất thương, mất nhiều thời gian, rủi ro cao. Dù nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng 49 đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: - Tỷ trọng vố đầu tưu đổi mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ - Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện. Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khai thác, chế tạo, lắp táp, tỷ lệ này phải lớn hơn - Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfUnlock-Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng.PDF
Tài liệu liên quan