Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3

I. Đầu tư và phân loại đầu tư. 3

1. Khái niệm về đầu tư. 3

2. Phân loại đầu tư. 4

II. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế. 7

III. Khái niệm về phát triển kinh tế. 8

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÔNG QUA CÁC LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ ĐẦU TƯ 10

I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ 10

1. Số nhân đầu tư 10

2. Gia tốc đầu tư 11

3. Quỹ nội bộ của đầu tư 15

4. Lí thuyết tân cổ điển 16

5. Mô hình Harrod - Domar 19

II. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 20

1. Đầu tư kích thích tổng cầu nền kinh tế:. 20

1.1. Vai trò của đầu tư với tổng cầu thông qua mô hình số nhân của Keynes: 20

1.2. Vai trò của đầu tư thông qua các chính sách kinh tế: 21

2. Đầu tư là cú huých bên ngoài thoát khỏi vòng luẩn quẩn: 21

3.Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 22

4. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 23

5. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ 25

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM. 27

I. Đánh giá chung về tác động của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 27

II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam . 34

1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: 34

2. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng 35

3. Nâng cao hiệu quả quản lí của Nhà Nước, cải thiện môi trường pháp lí, đơn giản hóa thủ tục hành chính 35

4. Khuyến khích đầu tư hiệu quả trên tất cả lĩnh vực 36

5. Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực 37

6. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư 38

CHƯƠNG 4: XU HƯỚNG ĐẦU TƯ,TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ĐẾN NĂM 2020. 39

I. Xu hướng đầu tư Việt Nam hiện nay đến năm 2020 39

1. Lĩnh vực đầu tư 39

2. Đầu tư vào vùng lãnh thổ 40

3. Cơ cấu đầu tư của các thành phần kinh tế 41

II. Xu hướng tăng trưởng và phát triển kinh tế Viêt Nam hiện nay đến năm 2020 43

1. Đối với tăng trưởng kinh tế 43

2. Đối với thương mại 46

3. Đối với các ngành kinh tế 47

KẾT LUẬN 49

TÀI LIỆU THAM KHẢO 51

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3494 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. (α + β + γ = 1) Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số. g = t + αk + βl + γr Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP K, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào. T: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ. Ví dụ: Giả sử các biến số của phương trình trên nhận các giá trị sau: y = 0,07 (vốn tăng 7%) k = 0,02 (lao động tăng 2%) r = 0,01 (tài nguyên – ví dụ đất đai – tăng 1%) α = 0,3 (vốn chiếm 30% trong GDP) β = 0,6 (lao động chiếm 60% trong GDP) γ = 0,1 (tài nguyên chiếm 10% trong GDP). Thay các số liệu vào phương trình trên chúng ta có: 0,06 = t + (0,3 x 0,07) + (0,6 x 0,02) + (0,1 x 0,01) t = 0,026 Con số này cho biết rằng trong số 6% tăng GDP thì tác động của khoa học công nghệ là 2,6%. Như vậy hàm sản xuất Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cũng cho rằng khoa học – công nghệ có vai trò quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế. Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển. a. Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Ví dụ, cần 10 tỷ đồng và 100 lao động để sản xuất 100 nghìn tấn xi măng, nếu xí nghiệp muốn tăng sản lượng lên gấp đôi, tức là 200 nghìn tấn thì có thể lựa chọn các phương án khác nhau với cách kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau. Cách lựa chọn phương án với việc kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau (xem Sơ đồ). Sơ đồ 1. Đường đồng sản lượng là các đường cong 10 20 100 C B A 200 Y(nghìn tấn) D Y=f(K,L) L (người) K(tỷ đ) I(100.000tấn) II(200.000tấn) - Tại B: Sự gia tăng vốn phù hợp với gia tăng lao động. - Tại D: Công nghệ sử dụng nhiều lao động. - Tại C: Sử dụng vốn thay thế lao động. b. Từ quan điểm trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm “Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu”, có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là “phát triển kinh tế theo chiều rộng”. c. Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ví dụ, bằng cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ gia tăng khối lượng sản phẩm. Một khía cạnh khác đáng lưu ý của các nhà kinh tế tân cổ điển về xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công. 5. Mô hình Harrod - Domar Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư. Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định: - Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động. - Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc. Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t g = : Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Sản lượng gia tăng trong kì S : Tổng tiết kiệm trong năm s = : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng Từ công thức: ICOR = Nếu , ta có : ICOR = Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có: ICOR = Từ đây suy ra: Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế: Cuối cùng ta có: Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến,nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng. II. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1. Đầu tư kích thích tổng cầu nền kinh tế:. 1.1. Vai trò của đầu tư với tổng cầu thông qua mô hình số nhân của Keynes: Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Cụ thể như sau: mỗi sự gia tăng của vốn đầu làm tăng nhân công và tư liệu sản xuất, từ đó dẫn đến sự gia tăng của nhu cầu tiêu dùng và kéo theo đó là thu nhập. Thu nhập gia tăng lại làm tăng sự đầu tư mới. Quá trình này lặp đi lặp lại, kết quả là thu nhập sẽ gia tăng theo cấp số nhân nhờ sự gia tăng của đầu tư. Đó là nội dung của mô hình số nhân. k = dR/dI = dR/dS = 1/(1- dC/dR ) Trong đó k hệ số nhân đầu tư dR sự gia tăng thu nhập dI sự gia tăng đầu tư dS sự gia tăng tiết kiệm dC sự gia tăng tiêu dùng 1.2. Vai trò của đầu tư thông qua các chính sách kinh tế: Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận, muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm nâng cao cầu tiêu dùng, đồng thời kích thích đầu tư. Theo ông nhà nước nên sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Ông đánh giá cao vai trò của các chính sách tài khóa và tiền tệ. Ông tán thành đầu tư của chính phủ vào công trình công cộng, đồng thời cũng phải đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. Như vậy các chính sách của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, tăng cầu tiêu dùng và từ đó sản xuất phát triển - là nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế. 2. Đầu tư là cú huých bên ngoài thoát khỏi vòng luẩn quẩn: Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson: Theo ông các nước có trình độ kinh tế phát triển thấp thường rơi vào vòng luẩn quẩn. Vòng luẩn quẩn này đưa các nước đang phát triển từ mức phát triển thấp đến thấp hơn, và gần như không thoát ra nổi tình trạng đó. Tiết kiệm và đầu tư thấp Thu nhập bình quân thấp Tốc độ tích lũy vốn thấp Năng xuất thấp Vậy phải có những giải pháp gì để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó? Samuelson cho rằng, giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó là cú huých từ bên ngoài, cũng có nghĩa là đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài chính là cú huých mạnh nhất, có hiệu quả nhất. Muốn vậy, các nước đang phát triển phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích đầu tư nước ngoài, cụ thể bằng các chính sách của nhà nước, bằng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư. Đây chính là vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế của các nước đang phát triển. 3.Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư phát triển vừa tác động đến tốc độ phát triển vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng Hệ số ICOR ( Incremental - tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng ) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là phần đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lưọng GDP tăng thêm: Vốn đầu tư tăng thêm Đầu tư trong kỳ ICOR= = GDP tăng thêm GDP tăng thêm Chia cả tử cả mẫu của công thức trên cho GDP, ta có: Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ICOR= Tốc độ tăng trưởng kinh tế Từ công thúc trên cho thấy: Nếu COR không đổi thì mức tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: * Do thay đổi của cơ cấu đầu tư ngành.Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, từ đó tác động đến ICOR chung. * Sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng đến ICOR.Gia tăng khoa học công nghệ làm cho đầu tư trong kỳ (tử số của công thức) tăng thêm, mặt khác sẽ làm cho máy móc hoạt động có hiệu quả hơn, năng suất cao hơn kết quả làm cho đấu tư tăng lên, GDP tăng lên (mẫu số của công thức). *Do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý, nếu cơ chế chính sách phù hợp thì đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại. 4. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế ,có quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc thay đổi tỷ trọng của bộ phận cấu thành nền kinh tế.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các nghành , vùng.Những cơ cấu kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.nó góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng thời kỳ, tạo cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế,trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành ,tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới, do đó, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Có thể đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các chỉ tiêu dưới đây: % thay đổi tỷ trọng đầu tư của Hệ số co dãn giữa việc ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữakỳ thay đổi cơ cấu đầu tư nghiên cứu so với kỳ trước với thay đổi cơ cấu = kinh tế ngành %thay đổi tỷ trọng GDPcủa ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứuvới kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP(thay đổi cơ cấu kinh tế ) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. % thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành Hệ số co dãn giữa việc nào đó /tổng vốn đầu tư xã hội knghiên thay đổi cơ cấu cứu so với kỳ trước đầu tư ngành với thay = đổi GDP % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết : để góp phần dưa tăng trưởng kinh tế ( GDP ) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng lên bao nhiêu. 5. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệcủa một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng ( máy móc,thiết bị ),phần mềm( các văn bản,các tài liệu,các bí quyết …),yếu tố con người ( các kỹ năng quản lý,kinh nghiệm ),yếu tố tổ chức(các thể chế,phương pháp tổ chức…) .Muốn có công nghệ ,cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Đối với các nước đang phát triển ,do có nhiều lao động và nguyên liệu thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu,sau đó, ảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển,xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng.Dù nhập hay là nghiên cứu thì đề đòi hỏi vốn đầu tư lớn.Mỗi doanh nghiệp mỗi nước mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển khoa học và công nghệ ,có thể sử dụng các chỉ tiêu sau : Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ /tổng vốn đầu tư .Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ. Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị /tổng vốn đầu tư thực hiện.Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là do máy máoc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với doanh nghiệp sản xuất công nghệ khai khoáng, chế tạo, lắp ráp, tỷ lệ này phải lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu /tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học công nghệ cao. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn ,trọng điểm. Các công trình trọng điểm mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn,công nghệ hiện đại,mang tính chất đầu tư mồi,tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình khác. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ. CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM. I. Đánh giá chung về tác động của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam Để tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững thì một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia là phải mở rộng đầu tư. Người ta hay nói đến một trong những nguyên nhân chính làm cho kinh tế của 5 con rồng Châu Á tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài là do vốn đầu tư phát triển tăng liên tục và thường chiếm khoảng 30% trong GDP. Theo báo cáo của Chính phủ tại phiên họp lần thứ 24 Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, trong năm 2009, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước thực hiện 715 nghìn tỷ đồng, bằng 42,6% GDP (kế hoạch là 39,5% GDP), tăng 17% so với năm 2008. Chia theo thành phần kinh tế thì tốc độ tăng trưởng đầu tư của các khu vực như sau: - Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước ước thực hiện cả năm 2009 là 161 nghìn tỷ đồng, tăng gần 63% so với thực hiện năm 2008, tăng 42,7% so với kế hoạch năm, và chiếm 22,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ước cả năm đạt kế hoạch, khoảng 50 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội - Về phía đạt thấp có nguồn vốn đầu tư trái phiếu Chính phủ, ước thực hiện cả năm 2009 đạt 54 nghìn tỷ đồng, trong đó thực hiện trong kế hoạch năm 2009 là 45 nghìn tỷ đồng, đạt 80,4% kế hoạch giao (kế hoạch là 56 nghìn tỷ đồng); chuyển nguồn từ năm 2008 sang năm 2009 là 7.183 tỷ đồng, đạt 100% số vốn chuyển nguồn… - Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước ước cả năm 2009 đạt 60 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 75,9% kế hoạch, giảm 7,7% so với thực hiện năm 2008, chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân ước cả năm đạt 220,5 nghìn tỷ đồng, đạt 93,8% kế hoạch, tăng 22,5% so với thực hiện năm 2008, chiếm 30,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tổng số vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm dự kiến đạt 20 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện cả năm ước đạt 8,8 tỷ USD, tương đương 150 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 82% kế hoạch, giảm 22% so với thực hiện năm 2008, chiếm 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Các nguồn vốn khác khoảng 19,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Như vậy, tổng số vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện năm 2009 tăng khoảng 2,7 lần so với năm 2008, tăng 1,5 lần so với kế hoạch đầu năm, và chiếm 7,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Về thu hút vốn ODA, ước thực hiện cả năm 2009 tổng vốn ODA ký kết đạt 5,456 tỷ USD, tổng vốn ODA giải ngân đạt khoảng 3 tỷ USD. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Năm 1998, tăng trưởng GDP giảm xuống 4% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, sau đó lại tăng lên đến 4,8% năm 1999. Trong những năm 2000 - 2003, tăng trưởng GDP tăng từ 6% đến 7% trong khi tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái. Từ năm 2003, tăng trưởng kinh tế đã có sự phục hồi, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2007 đạt 8,04%, tăng trưởng kinh tế 2008 chỉ đạt 6,18%.So sánh với các nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đứng thứ 2 sau Trung Quốc, cao hơn các nước ASEAN khác như Inđônêsia, Thái Lan, Malaysia và Philipin. Mặc dù đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong giai đoạn 1990 - 2009, nhưng tăng trưởng của Việt Nam những năm qua chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng. Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất của các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm, từ 14,8% (1992 - 1997) lên 22,6% (1998 - 2002) và 28,2% (2003 đến nay), tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và do yếu tố lao động chiếm 19,07%. Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy vốn vẫn là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Bảng 1: Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam Đơn vị: % 1993 - 1997 1998 - 2002 2003 - 2006 Vốn 69,3 57,4 52,73 Lao động 15,9 20 19,07 TFP 14,8% 22,6% 28,2% Nguồn: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW và Thời báo kinh tế Việt Nam Xem xét tốc độ tăng GDP và sự biến đông của đầu tư trong GDP cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam gắn liền với sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư trong GDP. Nếu như trong thời kỳ 1986 - 1990 đầu tư chỉ là 12,6% thì tốc độ tăng trưởng cũng chỉ đạt 4,3%. Trong khi đó, giai đoạn 1991 - 1995 tỷ lệ đầu tư lên tới 22,3% thì tốc độ tăng GDP lên tới 8,2%. Trong giai đoạn 1996 - 2000 tỷ lệ đầu tư trong GDP đạt 33,2% tốc độ tăng GDP giảm nhẹ xuống còn gần 7%. Đặc biệt trong giai đoạn 2001 - 2007, tỷ lệ đầu tư tăng mạnh lên 38,8% thì tốc độ tăng GDP là 7,62%. Sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1998 - 2003 một phần là do khủng hoảng tài chính trong khu vực và do cơ chế chính sách ngày càng không theo kịp với tình hình mới làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn tới tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tốc độ tăng GDP vẫn chưa được phục hồi so với trước khi khủng hoảng. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Vốn đầu tư phát triển được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, độ trễ về thời gian phát huy tác dụng để tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, nếu đầu tư cho sản xuất thì có những lĩnh vực phát huy tác dụng ngay trong năm như vốn mua sắm phương tiện vận tải, vốn đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, ... Song nếu đầu tư cho việc trồng cây lâu năm như cao su, trồng quế, ... thì phải từ 7 đến 10 năm sau mới có kết quả. Còn nếu như đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đầu tư cho nghiên cứu khoa học thì thời gian của độ trễ còn dài hơn so với đầu tư cho sản xuất. Chính do độ trễ và sự chuyển dịch trong cơ cấu đầu tư làm cho tốc độ tăng trưởng GDP không hoàn toàn tỷ lệ thuận theo một hằng số với vốn đầu tư phát triển. * Nghiên cứu xu hướng vận động của vốn đầu tư phát triển theo thành phần kinh tế: Bảng 2: Cơ cấu GDP chia theo thành phần kinh tế tính theo giá hiện hành Đơn vị: % 2000 2002 2004 2006 2007 Khu vực kinh tế Nhà nước 59,1 57,3 48,1 45,7 39,9 Khu vực kinh tế tư nhân 22,9 25,3 37,7 38,1 35,3 Khu vực kinh tế có vốn đầu tư NN 18 17,4 14,2 16,2 24,8 Nguồn: Tổng cục thống kê Do nhịp độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển của các khu vực kinh tế rất khác nhau qua các năm đã dẫn đến sự thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua có sự khuyến khích đầu tư nhờ có Luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, bãi bỏ nhiều rào cản để cải tạo đà thu hút vốn đầu tư cho sản xuất, xây dựng nhà ở,... nên đã tăng nhanh về tốc độ. Dựa vào bảng số liệu ta thấy, năm 2007 vốn đầu tư phát triển trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh mẽ. Việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO và những quy định phân cấp quản lý đầu t ư về cho các địa phương đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhanh chóng vào Việt Nam. Tuy nhi ên, ngược với thành tích “gọi tiền”, khả năng “tiêu tiền” - hấp thụ vốn của môi trường đầu tư đã không theo kịp tốc độ phát triển. Vốn FDI kéo về rất cao 20,3 tỷ USD nhưng vốn thực hiện được lại rất khiêm tốn chỉ 4,5 tỷ USD. Có 2 vấn đề chính làm cản ngại giải ngân, đó là hạ tầng cơ sở còn yếu kém, và hai là nguồn nhân lực, thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập. Giám đốc Trung tâm xúc tiến đầu tư (XTĐT) Bến Tre cho rằng, công tác XTĐT có 6 điểm yếu: thẩm quyền của cơ quan XTĐT mờ nhạt chưa đặt đúng vị trí nên phải đi lòng vòng bên ngoài; nguồn nhân lực chưa chuyên nghiệp và kỹ năng ngôn ngữ hạn chế nên giới hạn phạm vi tiếp xúc trực tiếp; kinh phí thiếu; thông tin quảng bá đơn điệu, chậm cập nhật; sự phối hợp giữa cơ quan XTĐT với các sở, ngành còn khó khăn do vai trò của cơ quan XTĐT chưa được coi trọng; cơ quan XTĐT thiếu tính chủ động, lẽ ra phải đi tìm kiếm nhà đầu tư thì vẫn còn ngồi chờ họ tìm đến. Bộ KH - ĐT cho rằng, hoạt động XTĐT chưa có sự phối hợp giữa địa phương với các bộ, ngành trung ương từ việc xây dựng chương trình XTĐT, danh mục kêu gọi dự án đầu tư, tổ chức sự kiện… Ngành công nghiệp phụ trợ ở VN còn quá yếu, gây khó khăn trong việc vận động các dự án công nghiệp và cũng khiến dự án khó triển khai. Tình trạng thiếu nhân sự quản lý, thiếu lao động lành nghề, lao động có trình độ cao, biết ngoại ngữ… khiến nhà đầu tư khó khăn trong việc thực hiện dự án. Theo đại diện Sở Kế hoạch - Đầu tư TP.HCM, trở ngại hiện nay là chưa có quy định ngành nghề rõ ràng, chưa phù hợp các thông lệ quốc tế. Do đó khi hướng dẫn và thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan quản lý đều phải sử dụng hệ thống phân ngành của Liên hiệp quốc mà Việt Nam tham gia ký kết trong cam kết WTO.  * Nghiên cứu xu hướng vận động của vốn đầu tư phát triển theo nhóm ngành kinh tế: Chủ trương phát triển của Đảng và Nhà nước có sự điều chỉnh trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước. Để có được sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải có sự điều chỉnh về cơ cấu đầu tư. Bảng 3: Vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế Đơn vị: % 2000 2002 2004 2006 2007 Nông, lâm, thuỷ sản 13,85 8,76 7,89 7,43 6,5 Công nghiệp, xây dựng 39,23 42,34 42,75 42,24 43,49 Dịch vụ 46,92 48,9 49,36 50,33 50,01 Nguồn: Tổng cục thống kê Nhìn chung xu hướng vận động của tỷ trọng vốn đầu tư phát triển theo nhóm ngành kinh tế diễn ra chậm chạp. Vốn đầu tư của khu vực I có suy giảm nhẹ; khu vực II và khu vực III tăng lên nhưng chậm rãi. Nền kinh tế Việt Nam đang diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, t ỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 21,7% năm 2004 xuống 19% năm 2005 trong khi khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng từ 40,1% năm 2004 lên 41% và khu vực dịch vụ tăng từ 38,2% lên 39%. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2007 đạt 8,04%. Tốc độ tăng trưởng của chúng ta trong năm 2007 trong khu vực chỉ đứng sau Trung Quốc (theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á – ADB). Trong năm 2007 cả ba khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ đều nỗ lực vượt qua khó khăn để đóng góp vào tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Trong đó, dịch vụ được xem là điểm sáng nhất. Nếu như năm 2006, khu vực này tăng trưởng với mức 8,29% thì năm nay đạt 8,68%. Cơ cấu đóng góp trong GDP cũng nâng từ mức 38,08% năm ngoái, lên 38,14%. Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng trong GDP cũng cải thiện hơn năm 2006, chiếm 41,61% (so với con số 41,52% năm ngoái). Tốc độ tăng trưởng của khu vực này năm 2007 đạt 10,6% (tăng nhẹ so với mức 10,37% cùng kỳ). Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, song không sa sút so với năm 2006, đạt tốc độ tăng trưởng 3,41% (kết quả của năm ngoái là 3,4%). Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp trong GDP giảm từ mức 20,40% năm ngoái xuống 20,25% trong năm 2007. Từ thực tế trên cho thấy: để đảm bảo tăng trưởng GDP một cách bền vững cần phải tăng cường đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư đó. Đồng thời phải mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu đầu tư có kết quả là tha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26120.doc
Tài liệu liên quan