Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 4

CHƯƠNG I: 5

CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ 5

I/ CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ 5

1. Các khái niệm chung 5

1.1 Đầu tư là gì: 5

1.2 Phân loại đầu tư: 6

1.3 Khái niệm về tăng trưởng: 8

1.4 Khái niệm về phát triển: 8

2. Số nhân đầu tư 9

2.1 Tư tưởng của mô hình 9

2.2 Mô hình số nhân đầu tư 9

3. Lý thuyết gia tốc về đầu tư 10

3.1 Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư 10

3.2 Nội dung của lí thuyết gia tốc đầu tư 11

3.3 Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư 14

4. Lý thuyết quỹ nội bộ đầu tư 16

5. Lý thuyết q về đầu tư 17

6. Lý thuyết tân cổ điển 17

7. Mô hình Harrod – Domar 20

7.1 Sự ra đời của mô hình 20

7.2 Nội dung của mô hình Harrod-Domar 20

II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 22

1. Tác động của đầu tư đến quy mô tăng trưởng 22

1.1 Tác động của đầu tư đến tổng cung – tổng cầu 22

1.1.1 Tác động đến tổng cung 22

1.1.2 Tác động đến tổng cầu: 23

2.2 Tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng 24

2. Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng 26

2.1 Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 26

2.2 Tác động đến khoa học công nghệ: 29

CHƯƠNG II: 32

VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 32

I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG – PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2009 32

1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam: 32

1.1 Đầu tư trong nước: 33

1.2 Đầu tư nước ngoài: 35

1.2.1 FDI: 35

1.2.2 ODA 36

* Các kết quả đạt được: 37

2. Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2009: 38

II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2009 39

1. Tác động tới tốc độ tăng trưởng: 39

2. Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 42

3. Tác động của đầu tư đối với phát triển khoa học - công nghệ: 46

4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực cạnh tranh: 47

5. Đầu tư gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội: 49

5.1 Xóa đói giảm nghèo: 49

5.2. Đầu tư góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp: 51

CHƯƠNG III: 53

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA 53

ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 53

I/ MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2011 – 2015: 53

II/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 53

1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư 54

2. Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả 54

2.1. Nguồn vốn trong nước 54

2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước 54

2.1.2. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân 56

2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI) 56

3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động 57

4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 58

KẾT LUẬN 61

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4385 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông qua chỉ số ICOR, ta có thể dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định trong tương lai. Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm, nền kinh tế phải bỏ ra một lượng vốn đầu tư ít hơn, nếu các điều kiện khác ít thay đổi. Tuy nhiên, hệ số ICOR mới chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố đầu tư mà chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm. ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ chế chính sách…Mặt khác, hệ số ICOR không tính đến yếu tố độ trễ thời gian của kết quả và chi phí, vấn đề tái đầu tư… Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay thấp mà còn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau: g = Di + Dl + TFP Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng GDP Di: phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP Dl: phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP TFP: phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP Thông qua công thức này, chúng ta có thể đánh giá tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế. Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng. Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành giữa 2 thời kỳ người ta có thể sử dụng công thức sau: Nếu: Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là Tỷ trọng của ngành dịch vụ là Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là βPhi NN(t)= βCN(t) + βDV(t) Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là βSXVC(t)= βNN(t)+ βCN(t) Thì hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp là θ0=arccos θ0 Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và bằng 900 khi sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất. Và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là dNN= βNN(t1) – βNN(t) Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là θ0=arccos θ0 Và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là dDV= βDV(t1) – βDV(t) Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới… Do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Có thể sử dụng các chỉ tiêu dưới đây để đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế % thay đổi tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước = % thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành Chỉ tiêu này cho biết để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước = % thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó/tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP Chỉ tiêu này cho biết: để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu. 2.2 Tác động đến khoa học công nghệ: Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và một quốc gia. Trong mỗi thời kỳ, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đọan đầu, các nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Sau đó, giảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và phát triển của khoa học và công nghệ. Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh… Công nghệ tự do nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đọan, từ nghiên cứu, đến thí nghiệm, sản xuất thử… Dù nhập hay tự nghiên cứu, để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư: cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ. Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện: cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện: phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm: chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ảnh mức độ hiện đại của công nghệ. Đầu tư tác động vào hệ số TFP – một thành phần trong công thức tính tốc độ tăng trưởng. TFP là quan hệ giữa đầu ra với tổng hợp các yếu tố đầu vào bao gồm cả các yếu tố không định lượng được như công nghệ, trình độ quản lý…TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Ngoài ra TFP còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý, thời tiết...  Nâng cao TFP tức là nâng cao hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Bằng cách thay đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ… đầu tư đã tác động không nhỏ tới sự phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới phương thức sản xuất… CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG – PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2009 Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam: Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhìn chung, tổng số vốn đầu tư huy động được tăng dần qua các năm kể từ 2001 cho đến 2009 phù hợp với sức tăng trưởng khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng của vốn đầu tư trong giai đoạn này mang dấu hiệu rất khả quan. Cụ thể: năm 2001, tổng số vốn huy động được chỉ đạt được 170,5 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2009, con số này là 704,7 nghìn tỷ đồng tức tổng vốn đầu tư tăng gấp 4 lần trong vòng 9 năm. Điều này phản ánh dấu hiệu lạc quan trong lĩnh vực đầu tư (đầu tư phát triển) trong nền kinh tế Việt Nam. Xét về cơ cấu vốn, nếu như trong các năm 2001 và 2002, vốn đầu tư được chú trọng đến khu vực kinh tế nhà nước chiếm lần lượt 60% và 57% trên tổng số vốn đầu tư, thì bắt đầu tư năm 2003 trở đi, cơ cấu vốn đã có sự chuyển dịch. Tức là quan tâm rót vốn vào 2 khu vực kinh tế còn lại (khu vực ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) nhưng chưa rõ rệt. Năm 2009, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP. Trong đó, khu vực nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm. (bảng 1) Bảng 1: Vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế                                                                      Đơn vị: nghìn tỷ đồng  Năm Tổng số vốn Cơ cấu Tổng vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước (%) Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2001 170,5 102,0 38,5 30,0 35,4 2002 200,1 114,7 50,6 34,8 37,4 2003 239,3 126,6 74,4 38,3 39,0 2004 290,8 139,8 109,8 41,2 40,7 2005 343,1 161,6 130,4 51,1 40,9 2006 404,7 185,1 154,0 65,6 41,5 2007 521,7 208,1 184,3 129,3 45,6 2008 580 257 180 143 41.3 2009 704.2 363 207 134.7 42.8 Nguồn: Tổng cục thống kê 1.1 Đầu tư trong nước: Năm 2009, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước đạt 163 nghìn tỷ đồng, chiếm trên 21,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn trái phiếu chính phủ ước đạt 48 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,8%; vốn đầu tư từ khu vực dân cư và tư nhân ước đạt 223,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ trên 31,7%. Vốn vay và vốn của các DNNN cho đầu tư chiếm tỷ lệ nhỏ hơn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư, điều này cho thấy việc tỷ trọng vốn đầu tư tăng là do nhà nước tăng cường tập trung đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, các chương trình phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, xoá đói, giảm nghèo. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. * Một số vấn đề: - Tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư nhà nước đạt mức cao hơn nhiều so với các năm trước, bố trí vốn tập trung, khắc phục dần tình trạng phân tán, dàn trải…Tuy nhiên, việc giải ngân còn thấp so với yêu cầu đặt ra, trong đó đặc biệt là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. - Tình trạng chậm tiến độ xây dựng các công trình, dự án tuy có giảm nhưng vẫn chưa được khắc phục. Công tác chuẩn bị đầu tư, quy hoạch, kế hoạch, công tác xây dựng dự án, thẩm định và phê duyệt dự án chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực tư vấn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều dự án, công trình phải chỉnh sửa thiết kế và tổng dự toán, đã ảnh hưởng và làm chậm tiến độ triển khai thực hiện. Cụ thể, ngành và địa phương, tỷ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 khoảng 12,7% (năm 2008 là 18,2%; năm 2007 là 14,8%; năm 2006 là 13,1%). Số dự án phải thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng đầu năm 2009 là 6.478, chiếm 20,2% tổng số dự án; trong đó, 4% dự án điều chỉnh về nội dung đầu tư, 7,1% dự án điều chỉnh về tiến độ, và 12,7% dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư. - Tình hình vi phạm quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản dù đã giảm so với năm trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009, có 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, chiếm khoảng 13% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong ký (năm 2008 là 18,9%; năm 2007 là 17,6%; năm 2006 là 13,4%). Các vi phạm gồm 4.076 dự án chậm tiến độ đề ra, chiếm 12,7% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ; 51 dự án không phù hợp với quy hoạch, chiếm 0,2%; 29 dự án đấu thầu không đúng quy định, chiếm 0,1%; 108 dự án phê duyệt chậm, chiếm 0,3%; 149 dự án chất lượng xây dựng thấp, chiếm 0,5%; 94 dự án lãng phí, chiếm 0,3%. 1.2 Đầu tư nước ngoài: 1.2.1 FDI: Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam và trở thành một bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể: Tuy chỉ bằng 30% năm 2008, nhưng FDI vào Việt Nam năm 2009 đạt con số 21,48 tỷ USD cũng vẫn là kết quả khả quan. Mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song Việt Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm nay, theo kế hoạch ban đầu chỉ là 20 tỷ USD. Cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng kí là 16,34 tỷ USD bằng 24,6% so với năm 2008 và 215 dự án xin bổ sung vốn với tổng vốn tăng thêm là 5,13 tỷ USD bằng 98,3% so với năm 2008. Riêng tháng 12, Việt Nam có 1,78 tỷ USD vốn đăng kí và bổ sung. TT Ngành Số dự án mới Vốn đăng ký cấp mới (triệu USD) Số lượng dự án tăng vốn Vốn đăng ký tăng thêm (triệu USD) Vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm (triệu USD) 1 Dvụ lưu trú và ăn uống 32 4.982,6 8 3.811,7 8.794,2 2 KD bất động sản 39 7.372,4 4 236,1 7.608,5 3 CN chế biến,chế tạo 245 2.220,0 131 749,3 2.969,2 4 Xây dựng 74 388,3 11 99,2 487,4 5 Khai khoáng 6 397,0 0 0,0 397,0 6 Nghệ thuật và giải trí 12 291,8 0 0,0 291,8 7 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa 115 191,7 14 46,5 238,2 8 Vận tải kho bãi 26 109,8 5 74,8 184,6 9 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa 16 129,0 1 27,9 156,9 10 HĐ chuyên môn, KHCN 148 89,0 7 10,9 99,9 11 Thông tin và truyền thông 63 67,6 17 25,5 93,1 12 Nông,lâm nghiệp;thủy sản 16 62,4 8 22,5 84,9 13 Giáo dục và đào tạo 8 5,2 3 23,7 28,9 14 Dịch vụ khác 22 14,9 5 7,9 22,7 15 Cấp nước;xử lý chất thải 5 8,4 0 0,0 8,4 16 Y tế và trợ giúp XH 6 7,4 1 0,9 8,3 17 Hành chính và dvụ hỗ trợ 5 7,9 0 0,0 7,9 18 Tài chính,n.hàng,bảo hiểm 1 0,0 0 0,0 0,0 Tổng số 839 16.345,4 215 5.136,7 21.482,1 Nguồn số liệu: bộ kế hoạch và đầu tư 1.2.2 ODA Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các hiệp định với các nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD. Trong đó, vốn vay là 5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD. Trong số 28 nhà tài trợ cho Việt Nam năm nay, có 5 đối tác đa phương (ADB, EC, UN Agencies, WB và International NGOs), và 23 đối tác song phương. Trong các nước trực tiếp viện trợ ODA cho Việt Nam, đứng đầu là Cộng hòa Pháp với 280,96 triệu USD, Hàn Quốc 268,7 triệu USD, Đức 186 triệu USD, Hoa Kỳ 128,12 triệu USD... Hàn Quốc và Thái Lan là hai quốc gia châu Á duy nhất cam kết tài trợ cho Việt Nam. Riêng Nhật Bản - nguồn viện trợ khá lớn của Việt Nam các năm trước không có tên trong danh sách các nước cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam. * Các kết quả đạt được: - Việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia. Tuy tiếp nhận một khối lượng vốn ODA bao gồm các khoản vay gắn liền với các điều kiện về cải cách thể chế, song ta vẫn giữ được độc lập tự chủ và chủ động thực hiện công cuộc đổi mới và cải cách theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy đã vay một lượng vốn ODA đáng kể, song theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ nước ngoài của ta hiện trong giới hạn an toàn. - ODA đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo. - Nguồn vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô vừa và nhỏ (nước, đường, trường, trạm, lưới điện, điện thoại...). Nhờ vậy đã tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện cơ sở vật chất trường học, y tế và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, đặc biệt ở các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. - Thông qua các chương trình và dự án ODA, ta đã tiếp nhận được các thành tựu khoa học hiện đại, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường năng lực và phát triển thể chế, hỗ trợ xây dựng chính sách, luật pháp: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng,...và đào tạo cán bộ. Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2009: Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP củaViệt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân  4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%; cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%; và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%; tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%; năm 2002: 7%; năm 2003: 7,3%; năm 2004: 7,7%; năm 2005: 7,5%; năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu của sự sụt giảm đáng kể. Tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm này chỉ đạt 6,23% tức là thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái và thấp nhất trong vòng 9 năm trở lại đây Đánh giá chung về tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 2009: tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy đã tăng lên, vượt qua giai đoạn suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên tăng trưởng chưa thật vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2008 là 41,3%; năm 2009 là 42,8%; nhưng tốc độ tăng GDP hai năm chỉ đạt 6,18% và 5,32% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp. II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2001 - 2009 Tác động tới tốc độ tăng trưởng: Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn được xếp vào hàng cao của khu vực và thế giới, đặc biệt năm 2006 (8,2%) và năm 2007 ( 8,5%), và mặc dù trong năm 2008 (6,23%), 2009 (5,32%) có sự sụt giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam được xếp vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 3 yếu tố đầu vào: vốn, lao động và nhân tố năng suất tổng hợp (TFP). Mức độ đóng góp của từng yếu tố đầu vào này trong từng giai đoạn thể hiện bảng sau: Tốc độ tăng GDP Tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) Đóng góp của vốn Đóng góp của lao động 2003-2008 45,72 7,55 13,43 6,74 Phần trăm đóng góp 100% 16,51% 86,75% 14,74% Bình quân TFP hàng năm 1,50 2004-2009 42,22 6,92 30,25 5,04 Phần trăm đóng góp 100% 16,40% 71,66% 11,93% Bình quân TFP hàng năm 1,47 Như vậy, bảng trên cho thấy: Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư quá mức và dàn trải. Mức đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng chiếm đến 68,75% trong giai đoạn năm năm 2003 – 2008 và tăng lên đến 71,40% trong năm năm 2004 – 2009. Đây là một tỷ lệ cao hiếm thấy trên thế giới. Tuy vốn đầu tư đóng vai trò chủ chốt đối với sức tăng trưởng của kinh tế Việt Nam nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Điều này thể hiện ở hệ số ICOR: ICOR Việt Nam qua các giai đoạn 2001-2009 Giai đoạn ICOR 2001-2003 5.24 2004-2006 5.04 2006-2008 6.15 2009 8 Với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, theo khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Nhưng nhìn vào số liệu đã thống kê ở trên, ICOR Việt Nam luôn ở mức xấp xỉ 5 từ (2001-2006) và tăng đến 6,15 năm 2008, đặc biệt, đạt mức báo động 8 ở năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn nhà nước vẫn còn xảy ra; công tác cải cách hành chính được thúc đẩy nhưng còn nhiều bất cập. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tăng trưởng. Nói đến chất lượng tăng trưởng, phải kể đến nhân tố năng suất (TFP). Năng suất thể hiện những tiến bộ về hiệu quả của nền kinh tế như công nghệ, phương pháp quản lý… Nhưng trong tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp vào tăng trưởng 7,29% trong khi tăng trưởng do đóng góp của vốn vào khoảng 83,2%. Năng suất các nhân tố tổng hợp trong giai đoạn 2004 – 2008 cũng chỉ tăng bình quân khoảng 1,5% nhưng mức tăng này ngày càng giảm dần. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay, năng suất nhân tố tổng hợp chỉ tăng xấp xỉ 1%. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không thiên về chiều sâu, chưa chú trọng phát triển các yếu tố khoa học kỹ thuât, chất lượng quản lý…Theo đà phát triển hiện nay, TFP ngày càng trở nên quan trọng. Nâng cao nhân tố TFP sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong dài hạn. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng phụ thuộc vào yếu tố số lượng lao động. Nguồn lao động ở Việt Nam khá dồi dào và hàng năm thì tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Số lượng gia tăng nhanh, nhưng chất lượng lao động không cao dẫn đến tỷ trọng của yếu tố lao động đóng góp vào tăng trưởng kinh tế không cao (ước khoảng 25-27% GDP). Lực lượng lao động phân bố chênh lệch dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn. Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 2.1 Những thành tựu: Bảng: cơ cấu GDP và cơ cấu vốn đầu tư theo ngành (%) Cơ cấu GDP Cơ cấu vốn đầu tư 1995 2000 2005 2008 1995 2000 2005 2008 Nền kinh tế 100 100 100 100 100 100 100 100 Khu vực I 27.2 24.5 21.0 22.1 13.3 13.8 7.5 8.4 NN và LNghiệp 23.0 19.8 15.8 18.1 12.5 11.4 5.9 4.8 Thủy sản 2.9 3.4 3.9 4.0 0.7 2.5 1.7 1.6 Khu vực II 28.8 36.7 41.0 39.7 34.1 39.2 42.6 40.6 Khai thác mỏ 4.8 9.6 10.6 8.9 5.0 6.3 7.8 8.3 CN chế biến 15.0 18.6 20.6 21.1 17.1 19.3 19.9 17.7 SX và pp điện 2.1 3.2 3.4 3.2 9.2 11.2 11.0 10.5 Xây dựng 6.9 5.4 6.3 6.5 2.8 2.4 3.8 4.1 Khu vực III 44.1 38.7 38.0 38.2 52.7 46.9 49.9 53.0 Thương mại 16.4 14.2 13.6 13.9 1.2 2.0 5.4 4.6 KS nhà hàng 3.8 3.2 3.5 4.4 5.3 2.9 1.9 1.9 Vận tải,tt liên lạc 4.0 3.9 4.4 4.5 15.7 13.2 14.1 14.7 Tài chính tín dụng 2.0 1.8 1.8 1.8 0.1 0.9 0.6 1.2 KH và công nghệ 0.6 0.5 0.6 0.6 0.3 1.2 0.4 0.6 Tài sản và tư vấn 5.4 4.3 4.0 3.6 3.0 2.7 1.7 5.8 Quản lý NN 3.6 2.7 2.7 2.8 3.1 2.6 2.8 2.1 GD và đào tạo 3.6 3.4 3.2 2.6 2.5 4.0 2.9 2.7 Nguồn: NGTK. GDP và vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành Tổng vốn đầu tư ở khu vực I thấp và giảm dần: 13,8% năm 2000, còn 6,5% vào năm 2008 so với tỉ trọng của nhóm ngành này trong GDP năm 1995 là 27% và năm 2008 là 20% thì số đầu tư nói trên là quá thấp. Trong khu vực I, đầu tư giảm chủ yếu trong nông nghiệp, tỷ trọng của ngành này trong GDP cũng giảm rất nhanh từ 23% trong GDP năm 1995 còn có 15% vào năm 2008. Nội lực của khu vực I là khá mạnh n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dock49a_n2_tac_dong_cua_dau_tu_5697.doc