MỤC LỤC
MỤC LỤC . 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU . 4
Lời mở đầu . 1
Chƣơng I: Một số vấn đề về thƣơng mại điện tử và thanh toán điện tử . 3
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thƣơng mại điện tử . . 3
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử. 3
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thương mại điện tử . 6
1.1.3. Phân loại thương mại điện tử . 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thanh toán điện tử . . 8
1.2.1. Khái niệm về thanh toán điện tử . 8
1.2.2. Đặc điểm của thanh toán điện tử . 9
1.2.3. Phân loại các hình thức thanh toán điện tử . 9
Chƣơng II: Thực trạng thanh toán điện tử và sử dụng thẻ ATM tại VN tại
Việt Nam. 14
2.1 Thực trang phát triển của thanh toán điện tử tại Việt Nam . . 14
2.1.1 Tiền đề cho việc phát triển thanh toán điện tử tại Việt Nam . 14
2.1.2 Các loại hình thanh toán điện tử xuất hiện tại Việt Nam . 17
2.1.3 Kết quả mang lại từ việc ứng dụng thanh toán điện tử tại Việt Nam giai
đoạn 2006- 2010 . 20
2.2 Thực trang sử dụng thẻ ATM taị Việt Nam . . 23
2.2.1.Sự xuất hiện của ATM tại Việt Nam . 23
2.2.2 Sự phát triển của thẻ ATM tại Việt Nam . 23
2.2.3 Hạn chế còn tồn tại của công cụ thanh toán ATM tại Việt Nam . 25
Chƣơng III: Giải pháp cho thanh toán điện tử tại Việt Nam . 29
sử dụng mô hình e-ATM. . 29
3.1 Xây dƣng mối liên kết vi mô cho việc sử dụng mô hình thanh toán e-ATM tại Việt
Nam. . . . . . 29
3.1.1 Sơ đồ hoạt động của thẻ e-ATM. . 29
3.1.2 Cách thức sử dụng thẻ ATM . 30
3.1.2.1 Cách thức đăng kí . 30
3.1.2.2 Cách thức tính phí khi sử dụng: . 34
3.1.2.3 Cách thức phòng chống gian lận . 37
3.2 Xây dựnh mối liên kết vĩ mô cho việc sử dụng công cụ thanh toán e- ATM tại Việt
Nam. . . . . . 39
3.2.1 Xây dựng mối liên kết liên ngân hàng trong thị trường thẻ ATM. . 39
3.2.2 Xây dựng hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng cho hệ thống liên ngân
hàng. . 40
3.3 Hiệu quả dự kiến của việc ứng dụng e - ATM trong thanh toán trong nƣớc . 41
3.3.1 Hiệu quả vi mô . 41
3.3.2 Hiệu quả vĩ mô . 45
Kết luận . 47
Danh mục tài liệu tham khảo . 48
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài E-ATM Giải pháp cho công cụ thanh toán mạnh và phổ biến trong thanh toán điện tử tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à liên minh thẻ
thông minh Việt Nam- VNBC, Banknetvn đã hoàn thành nhiệm vụ kết nối
mạng thanh toán thẻ thống nhất tại Việt Nam. Việc kết nối thành công đánh
dấu bước phát triển trong quá trình Banknetvn thực hiện nhiệm vụ của Chính
phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về xây dựng Trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất mà Banknetvn được chọn làm hạt nhân.
b/ Định hướng nhà nước về phát triển thanh toán điện tử của chính phủ
Ngày 29/12/2006, thủ tướng chính phủ đã chính thức phê duyệt Đề án
thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến năm
2020 tại Việt Nam. Mục tiêu của Đề án là hạn chế tối đa việc sử dụng tiền
mặt trong thanh toán, đồng thời thúc đẩy phát triển các phương thức thanh
toán điện tử trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu này, Đề án vạch ra 6
nhóm đề án nhanh như sau:
16
16
Nhóm đề án 1: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán
của nền kinh tế theo hướng tạo lập môi trường công bằng, hạn chế thanh toán
bằng tiền mặt, ứng dụng công nghệ trong thanh toán.
Nhóm đề án 2: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu
vực công. Giải pháp này bao gồm quản lý chi tiêu trong khu vực chính phủ
bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt và trả lương, trợ cấp ưu đãi
xã hội qua tài khoản.
Nhóm đề án 3: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu
vực doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tập trung xây dựng và ứng
dụng thanh toán điện tử, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử.
Nhóm đề án 4: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực
dân cư thông qua phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt, tăng lượng tài khoản cá nhân, mở rộng mạng lưới máy
ATM và đơn vị chấp nhận thẻ.
Nhóm đề án 5: Phát triển hệ thống thanh toán thông qua việc hoàn thiện
và phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng; xây dựng trung tâm thanh
toán bù trừ tự động và trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.
Nhóm đề án 6: Các giải pháp hỗ trợ để phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt.
Nếu 6 nhóm đề án nêu trên được triển khai thành công, tỷ lệ tiền mặt/
tổng phương tiện thanh toán có thể giảm xuống không quá 18% năm 2010 và
dưới 15% năm 2020. Đồng thời, số tài khoản cá nhân sử dụng cho thanh toán
điện tử cũng tăng lên trên 20 triệu vào cuối năm 2010 và 45 triệu vào năm
2020, số thẻ phát hành đạt mức trên 15 triệu đến cuối năm 2010 và 30 triệu
vào cuối năm 2020. Ngân hàng nhà nước hiện đang tích cực triển khai Đề án
xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất. trong thời gian tới, ngân
hàng Nhà nước sẽ có những chỉ đạo cụ thể để các liên minh tăng cường hợp
17
17
tác với nhau, cùng chia se cơ sở hạ tầng thanh toán thẻ, qua đó giảm chi phí
và tạo thuận lợi hơn cho các chủ thẻ trong giao dịch cá nhân.
2.1.2 Các loại hình thanh toán điện tử xuất hiện tại Việt Nam
Trong phần này chúng tôi sẽ trình bày một số hình thức thanh toán điện
tử phổ biến tại Việt Nam hiện nay.
a/Internet Banking :
Dịch vụ Internet Banking là một khái niệm bắt đầu phổ biến trong vài
năm gần đây khi số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ này tăng mạnh từ năm
2004. Tốc độ phát triển của dịch vụ Internet Banking là một minh chứng rõ
ràng cho những thay đổi trong hoạt động thanh toán từ phía ngân hàng nhằm
phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Sự thay đổi này hoàn toàn phù hợp
với tốc độ và xu thế phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam. Khi
thương mại điện tử ngày càng phổ biến thì nhu cầu về thanh toán điện tử sẽ
ngày càng tăng. Tính đến năm 2007, đã có 18 ngân hàng thương mại triển
khai dịch vụ Internet Banking. Mặc dù vậy, tính đến cuối năm 2007 hầu hết
các ngân hàng vẫn chưa thể triển khai dịch vụ Internet Banking một cách toàn
diện mà chủ yếu mới dưng ở tính năng cơ bản nhất gồm: tra cứu số dư cá
nhân, thông tin sao kê hàng tháng hay cung cấp thông tin có tính thay đổi
thường xuyên như tỷ lệ lãi suất tiết kiệm, tỷ giá ngoại tệ, giá vàng. Đối với
chức năng chuyển khoản điện tử thì chỉ có 8 ngân hàng cung cấp, trong đó chỉ
có 4 ngân hàng cho phép chuyển khoản là: ngân hàng Kỹ Thương
(Techcombank), ngân hàng Indovina, ngân hàng Á Châu (ACB) và chi nhánh
Citibank Việt Nam.
Một trong những cản trở của việc cung cấp dịch vụ Internet Banking đó
là mức độ an toàn, bảo mật của khách hàng và khả năng của hệ thống ngân
hàng lõi (core banking) chưa đảm bảo. Tiếp theo đó chính là việc nâng cấp hệ
thống xử lí liên ngân hàng của nhà nước giai đoạn II, chỉ mới bước đầu đưa
vào sử dụng vào 28/02/2009.
18
18
Tuy nhiên, Internet Banking vẫn là một dịch vụ gia tăng mang lại nhiều
lợi ích cho ngân hàng và người tiêu dùng. Về phía ngân hàng, Internet
Banking giúp cho ngân hàng tiết kiệm được các chi phí giao dịch tại quầy và
một số phụ phí khác, giảm được lượng tiền mặt trong giao dịch, tạo ra thêm
các giá trị gia tăng. Về phía người khách hàng, Internet Banking cho phép
khách hàng tiết kiệm được chi phí thời gian và tiền bạc vì chỉ cần một máy
tính nối mạng, khách hàng đã có thể thực hiện các thao tác như kiểm tra số dư
tài khoản, nhật ký chi tiêu, chuyển khoản, thanh toán hóa đơn. Chính vì lý do
như vậy, bản thân các ngân hàng cũng đang nỗ lực nâng cao khả năng quản lý
cũng như cơ sở hạ tầng để có thể mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng
và các tiện ích của Internet Banking. Trong những năm tới, Inernet Banking
sẽ trở thành một công cụ để các ngân hàng cạnh tranh trong thị trường và trở
nên phổ biến hơn trong thanh toán điện tử tại Việt Nam.
b/ NgânLượng.vn
NgânLượng.vn là dịch vụ thanh toán điện tử (thanh toán điện tử) cho
thương mại điện tử đầu tiên tại Việt Nam cả về hoạt động thị trường, số
lượng người dùng và tổng lưu lượng giao dịch thanh toán. Là một trong
những sản phẩm của công ty PeaceSoft, thừa kế và phát huy được bề dày kinh
nghiệm lâu năm trong lĩnh vực TMĐT từ liên doanh ChợĐiện Tử - eBay, nó
cho phép các cá nhân và doanh nghiệp gửi & nhận tiền thanh toán tức thời
cho các giao dịch trên Internet một cách an toàn, tiện lợi và phổ biến.
NgânLượng.vn hoạt động theo mô hình ví điện tử, trong đó mỗi người
dùng đăng ký sở hữu một tài khoản ví loại cá nhân hoặc doanh nghiệp (dành
cho các tổ chức có tư cách pháp nhân). Tài khoản ví sau đó có thể liên kết với
một tài khoản ngân hàng để người mua nạp tiền (trước khi thanh toán) và
người bán rút tiền (sau khi nhận thanh toán) một cách tiện lợi. Sự hỗ trợ từ
các nhà đầu tư tài chính và công nghệ hàng đầu thế giới bao gồm tập đoàn
IDG (Mỹ) và tập đoàn SoftBank (Nhật) cùng liên doanh chiến lược với tập
19
19
đoàn eBay (Mỹ) giúp NgânLượng.vn có đủ khả năng đảm bảo tài chính cho
toàn bộ các giao dịch thanh toán điện tử tại thị trường VN.
Hình 2.1. Mô hình hoạt động thanh toán điện tử của
NgânLương.vn
nguồn
Hình 3. Quy trình giao dịch “thanh toán tạm giữ”
nguồn
NgânLượng.vn đã đầu tư xây dựng một hệ thống cổng thanh toán liên
thông rộng khắp với các ngân hàng và các tổ chức tài chính như
20
20
VietComBank, Đông Á, VietinBank, TechComBank, VISA/MASTER. Điều
đó góp phần đưa NgânLượng.vn trở thành công cụ thanh toán điện tử được ưa
dùng và chấp nhận rộng rãi . Ngoài ra, NgânLượng.vn được coi là công cụ
thanh toán xuyên biên giới đầu tiên và duy nhất tại VN thông qua eBay.vn,
cổng giao dịch TMĐT mua & bán lẻ giữa VN với 39 quốc gia khác trên thế
giới trong mạng lưới của tập đoàn eBay.
Kể từ khi hoạt động tháng 4 năm 2009, NgânLượng.vn đã nhanh chóng
xác lập vị trí dẫn đầu thị trường với hơn 100.000 tài khoản ví, trên 2.000
người bán hàng (website hỗ trợ) và chiếm khoảng 50% lưu lượng thanh toán
điện tử cho thương mại điện tử tại VN. Sau 1 năm hoạt động, NgânLượng.vn
đã được bầu chọn là dịch vụ ví điện tử ưa thích nhất trong một cuộc khảo sát
do Hiệp hội thương mại điện tử VN (VECOM) và Sở công thương TP.HCM
tổ chức đầu năm 2010.
Mặc dù vậy việc ngân lượng sử dụng thẻ thanh toán quốc tế (visa,
master) trong quá trinh nạp tiền vào gây nên những hạn chế về số lượng tài
khoản người dùng và làm tăng chi phí khi đăng kí tài khoản ban đầu.
Tại thời điểm hiện tại, thị trường thương mại điện tử Việt Nam đã xuất
hiện nhiều công cụ thanh toán điện tử trong đó phổ biến nhất là hai công cụ
được trình bày ở trên. Tuy nhiên, số lượng người sử dụng mỗi công cụ mới
chỉ đạt tối đa khoảng 200.000 trong số lượng hơn 20 triệu người sử dụng
Internet. Điều đó cho thấy sự hạn chế của các công cụ thanh toán tại Việt
Nam hiện nay.
2.1.3 Kết quả mang lại từ việc ứng dụng thanh toán điện tử tại Việt
Nam giai đoạn 2006- 2010
Thương mại điện tử đang ngày càng phát triển ở Việt Nam và làm thay
đổi thói quen của người tiêu dùng đồng thời tạo ra cơ hội cho các doanh
nghiệp triển khai nhiều hình thức giới thiệu và phân phối hàng hoá đến người
dùng. Khảo sát mới nhất của công ty nghiên cứu thị trường Cimigo đưa ra
21
21
ngày 7/4 năm 2010 cho thấy mua sắm điện tử tăng trưởng 12% trong giai
đoạn từ năm 2007 ở TPHCM và Hà Nội. Ngân hàng điện tử đang dần trở nên
phổ biến với mức tăng trưởng từ 7% đến 11% ở Hà Nội và TPHCM trong
vòng ba năm (2007, 2008 và 2009). Số lượng người mua hàng trên các trang
đấu giá, mua sắm tăng lên hơn 40%.Mua sắm điện tử được sử dụng thường
xuyên hơn ở phía Bắc (Hà Nội và Hải Phòng) và chủ yếu phổ biến với nhóm
tuổi 15-35. Lượng người sử dụng Internet để mua sắm điện tử và sử dụng
ngân hàng điện tử cũng tăng theo thành phần kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập được hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng, kết nối 63 tỉnh, thành phố với hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp
vụ thanh toán hiện đại theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán với dung lượng ngày càng cao của nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ
thống ngân hàng thương mại đã phát triển cả về quy mô và mạng lưới hoạt
động. Các ngân hàng đã thiết lập được hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking)
và hệ thống thanh toán nội bộ với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Đặc biệt là
ngành viễn thông, công nghệ thông tin đã thiết lập được hệ thống hạ tầng kỹ
thuật rộng khắp, đáp ứng tốt các điều kiện cần thiết để triển khai các dịch vụ
và phương tiện thanh toán điện tử trên toàn quốc.
Nhờ đó, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh
toán đã giảm mạnh qua các năm (giảm từ 31,6% năm 1991 đến nay chỉ còn
khoảng 15%).
Hoạt động thanh toán điện tử phục vụ cho việc thu, chi Ngân sách Nhà
nước đã được chú trọng triển khai, nhất là việc triển khai công tác hiện đại
hóa quy trình thu, nộp thuế giữa cơ quan thuế - Kho bạc Nhà nước – Hải quan
– Tài chính – các ngân hàng thương mại đã được hình thành. Bên cạnh đó,
dịch vụ trả lương qua tài khoản cũng được triển khai mạnh mẽ và đạt được
nhiều kết quả khả quan. Theo thống kê, đến cuối năm 2009 đã có 41,5% đơn
vị hưởng lương từ ngân sách Nhà nước với 1,44 triệu cán bộ, công chức nhận
22
22
lương qua tài khoản, chiếm 46% tổng số người hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước. Đây cũng là đội ngũ được đánh giá là hình mẫu trong việc thúc đẩy
thanh toán điện tử tại Việt Nam.
Đặc biệt, nhận thức, thói quen của các tổ chức, doanh nghiệp và một bộ
phận người dân trong xã hội về thanh toán điện tử đã có sự thay đổi tích cực,
các giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, giữa các tổ chức kinh tế đã
được thực hiện chủ yếu qua ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng đã
từng bước được triển khai phục vụ nhu cầu thanh toán của xã hội.
Thời gian vừa qua, sự phát triển của một số phương tiện và dịch vụ thánh
toán mới, tiện ích như Mobile banking, Internet banking, Ví điện tử đã xuất
hiện và đang dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của các
nước trong khu vực và trên thế giới. Theo thống kê của ngân hàng Nhà nước,
đến cuối năm 2009, đã có khoảng 70.000 Ví điện tử được mở, trong đó Công
ty VietUnion có số lượng Ví nhiều nhất đạt hơn 32.000 Ví. Giá trị giao dịch
qua Ví cũng được tăng dần theo thời gian. Các công ty cung cấp các dịch vụ
thanh toán này cũng đã chủ động và tích cực hợp tác với các ngân hàng
thương mại và các đơn vị kinh doanh thương mại điện tử.
Trong thời gian tới, ngân hàng Nhà nước tiếp tục xây dựng kế hoạch
thực hiện cụ thể cho từng địa bàn, phù hợp với đặc điểm tình hình và xu
hướng phát triển của từng địa phương với mục tiêu đến cuối năm 2010 có ít
nhất 55% tổng số đơn vị hưởng lương từ ngân sách Nhà nước thực hiện trả
lương qua tài khoản. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục quán triệt các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán triển khai tập trung nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng
và phát triển mạnh thanh toán điện tử trên cơ sở gia tăng các tiện ích phát
triển thanh toán điện tử, cụ thể như thanh toán hóa đơn sinh hoạt thường kỳ
như thanh toán tiền điện, tiền nước, điện thoại, Internet thông qua tài khoản
trả lương, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng máy POS tại các đơn vị chấp
23
23
nhận thẻ vì đây là một trong những giải pháp chiến lược mang tính đột phá
trong quá trình mở rộng, phát triển thanh toán điện tử tại Việt Nam.
2.2 Thực trang sử dụng thẻ ATM taị Việt Nam
2.2.1.Sự xuất hiện của ATM tại Việt Nam
Thanh toán qua thẻ được coi là giải pháp bước đầu cho hệ thống thanh
toán điện tử tại Việt Nam. Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ
tầng cơ sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002.
Trong đó, công nghệ cho thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai.
Lúc đầu chỉ có một số ngân hàng như ngân hàng ngoại thương Việt Nam,
ngân hàng công thương Việt Nam … tham gia phát hành thẻ ATM.
Ban đầu thẻ ATM chỉ có chức năng rút tiền đơn thuần do khi đó chưa có
cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của hệ thống thẻ trong sự phát triển của
các ngân hàng. Khi đó muốn sử dụng được các loại thẻ phải cần phải lập một
tài khoản ở ngân hàng cung cấp, mọi giao dịch qua thẻ được ghi lại trong tài
khoản này, và hầu như chỉ được rút tiền không quá số dư tối thiểu trong tài
khoản này, kèm theo đó là số tiền rút phải là cấp số của 50 nghìn đồng.
2.2.2 Sự phát triển của thẻ ATM tại Việt Nam
Tính từ năm 2002 đến nay kể từ khi ưu tiên phát triển thanh toán thẻ
triểm khai thì thẻ thanh toán nói chung và thẻ ATM nói riêng thu được nhiều
thành tựu tích cực. Trong đó từ năm 2002 đến năm 2006 với chủ trương xây
dựng nền móng cơ bản cho thanh toán thẻ trong nước nhưng đã thu được
những thành công không nhỏ. Số lượng thẻ năm 2006 đạt 4 triệu thẻ và số
máy ATM lên đến 2500 máy. Trong giai đọan này hầu như tất cả các máy
ATM đều được nhập khẩu từ nước ngoài vì thế nên chi phí cao lên đến 5000-
10000 đôla/ chiếc. Mặt khác thì do vấn đề cán cân thanh toán bị phụ thuộc
vào ngân hàng nhà nước lên số lượng máy không thể mua được nhiều. Trong
đó thì việc sử dụng thẻ ATM thường xuyên chưa đi vào cuộc sống của người
tiêu dùng.
24
24
Thực hiện đề án “Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai
đoạn 2006 – 2010” nên ngay từ năm 2007 đã có những bước chuyển biến
quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng của việc sử dụng thẻ ATM. Đầu tiên
đó là số lượng thẻ tăng lên nhanh chóng hơn hẳn cả thời kì 2002-2006, trong
năm 2007 con số đó lên tới 8 triệu thẻ, còn hết năm 2008 đã đạt tới 13,4 triệu
thẻ thanh toán. Đến năm 2009 số lượng này đã tăng chậm lại do sự phát triển
của thanh toán điện tử trên phương tiện internet banking sau khi ngân hàng
nhà nước hoàn thành nâng cấp hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai
đoạn 2. Tiếp theo đó là sự đột phá về số lượng các loại máy ATM, trong năm
2007 số lượng này đã là hơn 4000 chiếc, còn năm 2008 là 7051 chiếc, đến nay
2009 chúng ta đã cho xây dựng những nhà máy lắp ráp máy ATM đầu tiên, và
trong tương lai không xa thì những chiếc máy đầu tiên mang thương hiệu Việt
Nam sẽ phủ khắp mọi nơi.
Mặt khác Hệ thống thanh toán của hai liên minh thẻ lớn nhất cả nước là
Banknetvn và Smartlink với trên 90% thị trường thẻ toàn quốc đã được kết
nối liên thông.
Thực tế cho thấy rằng trong năm 2009 thị trường thanh toán điện tử Việt
Nam phát triển nở rộ, đa dạng về cách thức, trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong khi đó thì thị trường thẻ ATM không phát triển nhiều về mặt số lượnng
như các năm trước mà tập chung mạnh về mặt chất lượng. Điều này thể hiện
giao dịch qua thẻ tăng mạnh, khiến cho nhiều ngân hàng đang từng bước
chuẩn bị kế hoạch thu phí, khi sử dụng thẻ ATM để rút tiền.
Một điều nữa đó chính là trong năm Quyết định 371 /2007 về quy chế
ban hành về việc phát hành thẻ và các loại thẻ được phép ban hành. Trong
đó cho phép phát hành loại thẻ trả trước vô danh không yêu cầu có tài khoản
ngân hàng. Thực tế đây là loại thẻ ghi nợ nhưng được thực hiện hoàn toàn
tách biệt với các ngân hàng, nhằm tạo tiền đề cho các tổ chức tín dụng tài
chính có thể phát hành thẻ mang mục đích thanh toán. Đối với các lọai thẻ trả
25
25
trước không gắn liền với ngân hàng thì việc tuân theo quy chế thẻ là không
nhất thiết, vì thế các tổ chức tài chính, tín dụng có thể phát hành cũng như
quản lí kèm theo các dịch vụ của mình dễ dàng hơn.
Theo Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 371, tổ chức phát hành
thẻ, tổ chức thanh toán thẻ chỉ là các ngân hàng, cụ thể tại Quy chế này chỉ có
các khái niệm ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, không có
khái niệm tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ nói chung. Nhưng
trong Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 20 mở rộng các chủ thể phát
hành thẻ, ngoài ngân hàng còn có thể là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có
thể được phát hành thẻ khi các tổ chức này được phép hoạt động ngân hàng
trong đó có hoạt động phát hành thẻ. Việc mở rộng các tổ chức được phát
hành thẻ phù hợp với thực tế hiện nay là có một số tổ chức không phải là ngân
hàng nhưng cũng có hoạt động phát hành thẻ có tính chất thanh toán rộng rãi
ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán, hoạt động ngân hàng. Do vậy, quy định
về việc phát hành thẻ của các tổ chức khác này một mặt để thừa nhận, mặt
khác là để quản lý nhà nước đối với việc phát hành thẻ của các tổ chức khác
này.
Theo Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 371, tổ chức phát hành
thẻ chỉ phát hành thẻ cho các chủ thẻ là cá nhân. Tuy nhiên, do tính năng của
thẻ cũng thích hợp để sử dụng trong quản lý chi tiêu của các tổ chức. Do vậy,
để thúc đẩy sự phát triển của thị trường thẻ, Quy chế thẻ ban hành kèm theo
Quyết định 20 quy định chủ thể sử dụng thẻ ngoài các cá nhân, còn có thể là
các tổ chức.
2.2.3 Hạn chế còn tồn tại của công cụ thanh toán ATM tại Việt Nam
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và giao dịch
nhưng chúng ta vẫn thấy những hạn chế còn tồn tại trong việc sử dụng thẻ
ATM.
26
26
a)Về chức năng của thẻ ATM:
Với chức năng chủ yếu là để rút tiền hầu như rất ít có khả năng cho vay
đối với khách hàng. Với các ngân hàng thực hiện cho vay thì điều kiện cho
vay lại khá là khó khăn, một khách hàng bình thường hầu như không có cơ
hội tiếp cận đến các khoản vay này.
Một điều nữa đó chính là chức năng thanh toán của thẻ ATM thông
thường bị hạn chế bới việc sử dụng máy ATM và máy POS tại các điểm cố
định, do vậy muốn sử dụng được thẻ ATM chúng ta phải tìm đến những nơi
có địa điểm đặt máy. Nó thật sự rất tốn thời gian và công sức mặc dù sự phát
triển của phương tiện đi lại đã giảm ngắn thời gian này bởi vì sự phân bố máy
ATM tại Việt Nam chỉ tập chức ở một số khu vực nhất định do chi phí của
việc lắp đặt máy và bố trí máy chưa khoa học, đồng bộ. Mặt khác đôi khi
chúng ta cũng có thể có thể gặp những chiếc máy này nhưng chúng ta cũng
không thể sử dụng được chiếc thẻ của chúng ta vì không mang thẻ ATM.
Mặt khác thì khả năng thanh toán điện tử của ATM là hoàn toàn không
có chức năng thanh toán điện tử, mặc dù về cấu tạo của chiếc thẻ ATM không
có gì khác nhiều so với các lọai thẻ thanh toán bình thường. Đây có thể là do
nguồn gốc của thẻ ATM được xuất phát từ Mỹ nơi có những loại thẻ thanh
toán mạnh đã trở thành công cụ phổ biến trong thanh toán điện tử như thẻ
VISA, MASTER…. Do đó việc ra đời thẻ ATM đối với họ chỉ nhằm giảm
bớt các giao dịch đơn giảm tại ngân hàng, và việc cấp các loại thẻ thanh toán
gặp nhiều vấn đề trong công tác quản lí liên quan đến tài khoản ngân hàng của
họ. Chính vì lẽ đó khi cho phát hành thẻ ATM tại Việt Nam, hầu như các
ngân hàng đã mặc nhiên hiẻu thẻ ATM chỉ có khả năng rút tiền và coi đó chỉ
là một sản phẩm mang lại giá trị gia tăng đối với ngân hàng. Thực tế này thể
hiện rõ trong thời kì đầu khi việc phát hành thẻ ATM của các ngân hàng mang
tính bộc phát hầu như không chịu sự quản lí của một tổ chức chung nào cả về
thẻ lẫn máy rút tiền, chúng chỉ xử lí nếu cùng trong một ngân hàng. Điều này
27
27
hoàn toàn sai lầm vì ở Mỹ họ có hệ thống chuyển mạch ACH dùng cho cả các
lọai thẻ trong đó có thẻ ATM, còn ở Việt Nam lúc đó hầu như không có một
trung tâm chuyển mạch nào cả. Ngày nay thì với sự ra đời của các liên minh
thẻ và hệ thống chuyển mạch nên hệ thống thẻ ATM ở Việt Nam đã có bước
chuyển biến đáng kể, song những giao dịch điện tử vẫn chủ yếu đối với các
tài khoản ở cùng với một ngân hàng, trừ một số ngân hàng đặc biệt như
citibank.
b)Phí sử dụng thẻ ATM.
Trong thời điểm hiện tại thì chi phí sử dụng thẻ ATM ngày càng gia tăng
với một tốc độ chóng mặt, đầu tiên chúng ta có thể thấy đến đó chính là số dư
tối thiểu, có thể hiểu đó là chi phí để có thể sở hữu một chiếc thẻ ATM. Ở một
số ngân hàng lớn ở các nước phát triển thì điều này hoàn toàn ngược lại. Chi
phí này lại phụ thuộc vào tùy từng ngân hàng, tùy từng thời gian gây nên sự
chồng chéo trong khả năng quản lí chung của nhà nước.
Tiếp đó ở một số ngân hàng hiện tại như ACB bạn còn phải nộp thêm
một loại phí duy trì tài khoản trung bình là 10 nghìn/ tháng. Một số ngân hàng
còn đang đề nghị thêm vào các chi phí để rút tiền khi sử dụng máy ATM, một
công cụ không thể thiếu khi dùng thẻ. Một loại phí mà bạn chắc chắn phải
nộp thêm đó là khi bạn rút tiền tại các cột ATM không đúng với ngân hàng
phát hành thẻ của bạn. Chi phí này mới được đưa vào sử dụng cách đây không
lâu. Mặt khác khi xảy ra sự cố vật chất đối với thẻ của bạn, thì bạn cần phải
làm lại chiếc thẻ thì bạn vẫn phải nộp một khoản tiền như lúc làm thẻ mới.
c)Việc xuất hiện thẻ giả
Thực tế cho thấy trên thị trường thẻ ATM đã xuất hiện một số lọai thẻ
giả do công tác làm thẻ của các ngân hàng chạy đua thành tích mà đã quên đi
công tác bảo mật trong ngân hàng. Có rất nhiều vụ việc làm thẻ giả, tuy nhiên
đây chỉ là vụ việc nhỏ chưa có tính nghiêm trọng nhưng thể hiện công tác
quản lí thẻ và làm thẻ chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng trong tương lai
28
28
khi trường hợp xuất hiện các thẻ ATM giả như trường hợp các thẻ tín dụng
giả gần đây, với quy mô công nghiệp bởi các máy làm thẻ thì hệ thống thẻ
ATM Việt Nam sẽ khó có thể giải quyết.
29
29
Chƣơng III
Giải pháp cho thanh toán điện tử tại Việt Nam
sử dụng mô hình e-ATM.
Trên cơ sở các phân tích chương II, chúng tôi xin đưa ra một mô hình
thanh toán điện tử dựa trên nền tảng của thẻ ATM có tên gọi là mô hình thẻ e-
ATM. Trong đó thẻ e-ATM là một loại thẻ ghi nợ như thẻ ATM được số hóa
và gắn liền với tài khoản trên hệ thống e-ATM. Mô hình này dựa trên mô hình
cung cấp thẻ virtual card của một số tổ chức tài chính mạnh chẳng hạn như
entropay, citi bank, ecocard. Mô hình e- ATM của chúng tôi xây dựng sẽ khắc
phục được những hạn chế trong việc sử dụng thẻ ATM, tăng cường sự quản lí
của nhà nước về thương mại điện tử thông qua kiểm soát các luồng tiền và hệ
thống này sẽ cung cấp dịch vụ thanh toán một cách toàn diện, đầy đủ cho
người sử dụng Việt Nam mà không chịu bất kì một hạn chế nào như các tổ
chức cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử nước ngoài.
3.1 Xây dƣng mối liên kết vi mô cho việc sử dụng mô hình thanh
toán e-ATM tại Việt Nam.
Trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến mối liên hệ giữa nhà cung cấp
dịch vụ và người sử dụng, nó thực sự hết sức quan trọng vì liên quan trực tiếp
đến sự tiện ích và phổ biến của hệ thống thẻ e-ATM.
3.1.1 Sơ đồ hoạt động của thẻ e-ATM.
Quy trình thanh toán điện tử e-ATM (Sơ đồ 3.1)
Tiền sẽ được chuyển thông qua 1 thẻ ATM điện tử do nhà cung cấp dịch
vụ cung cấp cho người sử dụng khi đăng kí ban đầu. Khi đó tiền sẽ chuyển
Thẻ ATM Tài khoản
ngân hàng của
người bán
hàng
Thẻ e-ATM
30
30
trực tiếp từ tài khoản ATM của người sử dụng sang thẻ e-ATM, khi chuyển
tiền sang thẻ e-ATM họ có thể ngay lập tức sử dụng số tiền trong thẻ e-ATM,
số tiền này sẽ có thể dùng trong để thanh toán ngay lập tức với nhu cầu sử
dụng, nếu số tiền trong thẻ của người sử dụng không được dùng đến họ có thể
ngay lập tức chuyển tiền từ thẻ ATM về tài khoàn ngân hàng của họ để có thể
hưởng lãi suất tiền gửi như các tài khoản khác.
Sau khi người sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E-ATM Giải pháp cho công cụ thanh toán mạnh và phổ biến trong thanh toán điện tử tại Việt Nam.pdf