MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . . . . 1
CHƯƠNG 1
Entropy – Những hiểu biết cơ bản . . . 3
1.1. Nguồn gốc ra đời khái niệm entropy . . . 3
1.2. Định nghĩa entropy . . . . 4
1.2.1. Tìm hiểu về nhiệt động lực học . . . 4
1.2.2. Định nghĩa entropy . . . 5
1.2.2.1. Định nghĩa entropy theo động lực học cổ điển. . 5
1.2.2.2.Định nghĩa entropy theo vật lý thống kê . . 6
CHƯƠNG 2
Ứng dụng ý nghĩa của entropy vào kinh tế . . . 8
CHƯƠNG 3
Việt Nam và con đường phía trước . . .15
3.1. Xu hướng sắp tới có thể là gì? . . .15
3.2. Những giải pháp dành cho Việt Nam . . 27
KẾT LUẬN . . . .40
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . 4
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3341 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Entropy ứng dụng trong kinh tế và lối đi nào cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay
đổi công nghệ lại hàm chứa một điều gì đó khống chắc chắn bởi vì thay đổi nghĩa là
có rủi ro và dài hạn tức là không chắc chắn. Ở đây chúng ta lại thấy sự cần thiết của
một cấu trúc khuếch tán và sự tự tổ chức. Sự tự tổ chức trong hệ thống tạo ra các
định chế, các tổ chức, các nhóm lợi ích cạnh tranh lẫn nhau. “Kinh tế thị trường” là
một kết quả của sự cạnh tranh đó, nơi mà các lực thị trường thúc đẩy các tổ chức
14
nhỏ trong lòng hệ thống kinh tế buộc phải đổi mới để tồn tại. Sự tự tổ chức này đưa
tới cấu trúc khuếch tán nhờ vậy mà chúng ta có một sự đa dạng hóa “danh mục
khám phá công nghệ mới”. Nói theo một cách khác là chọn lọc tự nhiên chỉ là lựa
chọn hạng hai mà kết quả từ việc lựa chọn đó đến từ một sự đa dạng các cơ hội để
chọn lựa, cái mà trong vật lý gọi là tính không đẳng hướng (anisotropy). Bây giờ ta
có thể kết luận sự phức tạp của hệ thống kinh tế chính là kết quả của sự sáng tạo ra
những kiến thức và hiểu biết mới trong mối tương tác của các lực thị trường từ các
tổ chức bên trong nó với yêu cầu là sự đa dạng hóa các hướng phát triển công nghệ,
từ đó phá vỡ các giới hạn chứa đựng năng lượng của hệ thống kinh tế.
15
Chương 3. Việt Nam và con đường phía trước:
3.1. Xu hướng sắp tới có thể là gì?
Có thể những lập luận trong phần trên của chúng tôi đã được nhiều người nói
từ trước, tuy nhiên đó không phải là việc quan trọng nhất. Chúng tôi nghĩ các bạn
đều biết về việc cải tiến kỹ thuật, tuy nhiên cái mà chúng ta cần sắp tới là một cú sốc
về mặt công nghệ, đó chính là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chúng tôi xin phép sử
dụng một kết quả nghiên cứu từ giáo sư John Behzad về tính chu kỳ trong mối quan
tâm của các kinh tế gia:
Giai đoạn Tên gọi Hoạt động chính
1900 – 1920 Bigness: Business expansion
Mở rộng: bành trướng kinh
doanh
Các quốc gia tư bản phương
Tây mở rộng và tranh giành
thuộc địa lẫn nhau do sản xuất
hàng hóa thừa mứa, kết quả
dẫn đến cuộc chiến tranh thế
giới thứ I. Tom Friedman gọi
đây là giai đoạn Toàn cầu hóa
2.0; Karl Marx dự báo trước đó
về sự san bằng các khoảng
cách biên giới vùng miền của
Chủ nghĩa tư bản.
Thập niên 1930 Survival: Maintenance
Tồn tại: duy trì kinh tế
Trong khoảng thời gian từ năm
1920 – 1940 xảy ra 5 cuộc
khủng hoảng trong đó có Đại
suy thoái, các lý thuyết của
Keynes và của nhiều học giả
khác.
16
Thập niên 1940 Efficiency: efficient use of
resources
Hiệu quả: sử dụng hiệu quả các
nguồn lực
Chiến tranh thế giới và 2 cuộc
suy thoái năm 1945 và 1949 đã
làm suy yếu kinh tế thế giới, kể
cả Mỹ. Các cảnh báo đầu tiên
về nguồn tài nguyên giới hạn
đã thúc đẩy con người đi tìm
kiếm sự hiệu quả hơn trong sử
dùng nguồn tài nguyên. Cuộc
cách mạng khoa học – công
nghệ lần II đã thúc đẩy quá
trình này. Lý thuyết thị trường
hiệu quả được người ta đề cập
trở lại, là nền tảng cho nhiều lý
thuyết tài chính giai đoạn sau.
Thập niên 1950 Productivity: Managing assets
Năng suất : quản lý các tài sản
Tiếp bước giai đoạn trước, các
nhà kinh tế nêu cao tầm quan
trọng của việc nâng cao sản
lượng dựa vào những tiến bộ
khoa học đầu thập niên. Họ bắt
đầu chú tâm vào việc làm sao
doanh nghiệp sử dụng tài sản
hiệu quả, các hệ thống đo
lường chất lượng như ISO,
TQC, Kaizen, EFQM được
phát triển rộng khắp. Trong
lĩnh vực tài chính Harry
Markowitz nêu ra lý thuyết
quản lý danh mục tài sản. Các
17
lý thuyết kinh tế phát triển hiện
đại ra đời trong giai đoạn này
như của Lewis, Rostow,
Robert Solow đề cập với vấn
đề quản lý hiệu quả các tài sản
kinh tế vĩ mô phục vụ cho phát
triển.
Thập niên 1960 Leverage: Managing liabilities
Đòn bẩy: quản lý các nghĩa vụ
nợ
Các nhà kinh tế cho rằng biết
dùng nợ là một điều tốt, ai biết
dùng nợ mới là cao thủ. Lý
thuyết tài chính nổi bật trong
giai đoạn này là lý thuyết MM
về ảnh hưởng của nợ trong giá
trị doanh nghiệp, CAPM về
việc đi vay hay cho vay để
đem lại hiệu quả cao hơn cho
đầu tư. Ngoài ra còn có mô
hình Gordon đối lập với MM
khi xem xét giá trị doanh
nghiệp.
Thập niên 1970 Portfolio: Risk return balance
Danh mục đầu tư: cân bằng giữa
rủi ro và lợi nhuận
Thế giới bị ảnh hưởng bởi
chiến tranh Việt Nam cùng với
sự sụp đổ của Bretton Woods,
giá dầu và vàng lên cao 1973
làm các nhà tài chính suy nghĩ
về việc cân đối giữa rủi ro và
lợi nhuận trong đầu tư. Vì thế
cần phải có sự định lượng
18
chính xác về 2 đại lượng này.
Các lý thuyết tài chính nổi bật
trong giai đoạn này có là APT,
sự phát triển của C-CAPM và
I-CAPM từ CAPM; mô hình
Black –Scholes về định giá
quyền chọn và nợ doanh
nghiệp nối tiếp ảnh hưởng của
giai đoạn trước và hỗ trợ thêm
cho việc mở rộng hiệu quả của
danh mục, phương trình
Hamanda nối tiếp MM về tác
động của cấu trúc nợ đối với
rủi ro hệ thống của cổ phiếu
thường. Bên cạnh đó là sự
thắng thế của phe kinh tế trọng
tiền – chống Keynes.
Thập niên 1980 Growth: Merge and acquisitions
Tăng trưởng: Sáp nhập và thâu
tóm
Thập niên này xảy ra 2 lần suy
giảm kinh tế 1980 và 1981-
1982, cuối thập niên là sự kiện
ngày thứ 2 đen tối 1987. Làn
sóng M&A thứ ba từ năm 1965
được đẩy mạnh tới cuối thập
niên này vì các công ty muốn
mở rộng qui mô trong ngành
và hoạt động đa ngành, nhất là
sự kết thúc của chiến tranh
lạnh, các bất ổn chính trị thế
19
giới và sự thần kì Nhật Bản
buộc các công ty phương Tây
phải không ngừng sáp nhập để
nâng cao năng lực.
Thập niên 1990 Value: Valuation
Giá trị: định giá
Sau sự kiện ngày thứ hai đen
tối, sự suy giảm đột ngột của
kinh tế Nhật, sự sụp đổ của
đồng bảng Anh, sự sụp đổ của
ngân hàng Barrings, Solomon
Brothers và cơn bạo bệnh của
kinh tế châu Á cuối thập niên
đặt các nhà kinh tế vào câu hỏi
“Giá trị thực” của doanh
nghiệp và nền kinh tế. Những
sự sụp đổ kể trên được lý giải
do tình trạng đầu cơ giá trị ảo,
những mô hình định giá và lý
thuyết thị trường hiệu quả
được phát triển từ lâu bị đặt
dấu hỏi. Lĩnh vực marketing
đưa ra vấn đề về thương hiệu
doanh nghiệp và thương hiệu
quốc gia vào định giá tài sản.
Cuối cùng, trong giai đoạn này
các tác phẩm về kinh doanh tập
trung vào xây dựng giá trị
trường tồn như của Jim
Collins, Tom Peters phát triển
20
ồ ạt, lấn át các lý thuyết chính
thống.
Đầu thế kỷ 21 Bigness: Globalization
Mở rộng: Toàn cầu hóa
Khi Windows 95 được tung ra,
đó là bước báo hiệu đầu tiên
cho quá trình toàn cầu hóa 3.0
theo cách gọi của Tom
Friedman. Thế giới xích lại
gần nhau hơn và đồng thời là
sự sụp đổ của bong bóng
dotcom.
2008 - ? Survival: Maintenance
(Sinh tồn: duy trì kinh tế)
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Vấn đề mà mọi người đang
quan tâm hiện nay là làm sao
để đưa kinh tế trở về quĩ đạo
phát triển. Rất nhiều kịch bản
được đề ra như mô hình V, W,
L…
Có thể bạn sẽ đưa ra rất nhiều phản biện với nghiên cứu này, tuy nhiên vấn đề
là chúng tôi không phủ nhận trong từng giai đoạn luôn có những lý thuyết được phát
triển với nội dung và ứng dụng khác hẳn tên gọi của giai đoạn đó. Vấn đề mà chúng
tôi muốn chỉ ra là mối quan tâm lớn nhất, xu hướng lớn nhất của mỗi giai đoạn.
Toàn cầu hóa đã từng được đưa ra từ rất lâu, ngay từ những năm 80 nhưng đó chưa
hình thành một xu hướng lớn, vào lúc đó người ta cho đó là một ảo tưởng, là một
trào lưu nhất thời nhưng kết quả là nó đang là xu hướng lớn nhất và mạnh mẽ nhất
hiện nay. Kết quả chúng tôi đưa ra sẽ có sự sai lệch về mặt thời điểm bởi vì chúng ta
đều biết trong vòng nửa thế kỷ qua, công nghệ của chúng ta đã phát triển vượt bậc,
gần như mỗi ngày có một phát minh mới ra đời, chính điều đó là một lực đẩy lớn
21
(nhưng không phải là duy nhất) thúc đẩy chu kì này diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn.
Điều quan trọng là chúng tôi muốn chỉ cho bạn thấy, đại xu hướng sắp tới sau cuộc
khủng hoảng này rất có thể là một cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ III,
hay nói một cách khác đi là xu hướng sắp tới đặt ra cho chúng ta câu hỏi phải làm
sao để tăng khả năng sử dụng nguồn lực hiệu quả vượt bậc hơn hiện nay.
Chúng ta biết rằng khủng khoảng tài nguyên đã được đề cập tới từ cuối thế kỷ
20, và bước sang thế kỷ này tài nguyên trở thành mục đích chính của tất cả các cuộc
chiến tranh theo cách chính thức hay không chính thức. Trung Quốc với công cuộc
phát triển kinh tế đã biến quốc gia này trở thành nơi tiêu ngốn tài nguyên và ô nhiễm
nhất thế giới. Mỗi năm hàng ngàn tỷ tấn quặng và tài nguyên được chuyên chở về
Trung Quốc để bôi trơn cho cỗ máy kinh tế của nó. Các chiến lược gần đây của
Trung Quốc tại châu Phi cũng chỉ nhằm đảm bảo cho quốc gia này có một vị thế tài
nguyên vững chắc tại lục địa đen – nơi mà tài nguyên thiên nhiên chưa bị khai thác
nhiều.
Như đã nói ở trên, chúng tôi có một niềm tin vào chu kỳ của các mối quan
tâm của các nhà kinh tế. Sau khi giai đoạn suy thoái này qua đi, thế giới sẽ đối mặt
với một hiện trạng là tài nguyên còn lại trên thế giới sẽ không còn đủ để đáp ứng
nhu cầu phát triển của con người. Sản lượng đang và sẽ trượt dốc, các bất ổn kinh tế
mới sẽ xuất hiện vì vấn đề tài nguyên thiên nhiên. Do đó các nhà kinh tế sau mối lo
về suy thoái qua đi sẽ phải tập trung vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên
và tìm ra các nguồn tài nguyên thay thế, hoặc thậm chí là cả hai mối quan tâm này sẽ
chồng chéo lên nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Lý thuyết về “đường
cong Hubbert” sẽ quay trở lại. Khi lý thuyết này được đưa ra cách đây nửa thể kỷ,
nhiều người đã cười nhạo Hubbert, nhưng khi mà sản lượng dầu thô tại Mỹ sụt giảm
và không thể phục hồi trở lại từ sau năm 1975, những lời chỉ trích đó đành phải lặng
im. Theo những nghiên cứu mới đây của Jean Laherrere, dựa theo những phân tích
lý thuyết từ Hubbert cho thấy sản lượng dầu thô đã sụt giảm từ đầu thập kỷ này. Sản
lượng của các tài nguyên khác như than đá, kim loại quí, nước sạch cũng dự báo sẽ
đạt đỉnh vào khoảng năm 2020. Tất nhiên các dự báo này chỉ mang tính tham khảo
22
vì chúng ta biết rằng tương lai là bất định. Các dự báo của Hubbert cũng được chứng
minh là sẽ bị sai lệch khi có sự tác động của chính sách từ chính phủ hoặc từ các vấn
đề kinh tế hoặc là sự khám phá ra một mỏ dự trữ mới. Mặc dù đường cong Hubbert
không luôn đúng cho tất cả các khu vực nhưng xét về tổng thể nó cho kết quả chính
xác nhất và đúng ở đa số các khu vực, và do đó giá trị dự báo của nó là không thể
phủ nhận. Do vậy trước khi chúng ta trông chờ rằng những yếu tố mới từ tương lai
có thể gây ảnh hưởng và làm kéo dài thời gian đạt đỉnh điểm của sản lượng thì tốt
hơn hết là nên có sự chuẩn bị thay thế.
Căn cứ theo những báo cáo mới gần đây của các tổ chức trên thế giới, rất có
thể chúng ta đã đạt đỉnh sản lượng dầu mỏ ở đâu trong thập kỷ vừa qua hoặc thập kỷ
tới. Các nước Opec mặc dù vẫn còn khả năng gia tăng sản lượng nhưng điểm tới hạn
là đang rất gần. Bahrain những năm gần đây đã giảm dần việc xuất khẩu dầu thô một
phần vì nguồn trữ lượng của họ không dồi dào như trước nữa. Quốc gia vùng vịnh
này đang tiến hành khá nhiều cải cách để thoát dần khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu
dầu mỏ. Cũng như dầu mỏ, các nguồn tài nguyên năng lượng khác như than đá, khí
đốt cũng đang cạn kiệt dần và lại nằm trong những khu vực đầy bất ổn và tranh chấp
đẫm máu như châu Phi, và Trung Đông.
Chúng tôi xin lấy một ví dụ khá đơn giản cho tình trạng thiếu hụt tài nguyên
hiện nay liên quan tới sản xuất điện. Nơi nào duy trì được điện liên tục thì nơi đó
kinh tế có khả năng bứt phá tốt hơn, hãy thử tưởng tượng có 3 tỷ người trên hành
tinh, tức là ½ dân số thế giới cùng bật 1 bóng đèn compact loại tiết kiệm điện của
Philips có công suất 9W, sẽ tiêu tốn bao nhiêu watt điện? Đáp án là 27 tỷ watt tương
đương với 27 gigawatt. Dự án điện nguyên tử có công suất lớn nhất trong tương lai
tính tới thời điểm hiện tại là 7276MW tưong đương 7,276 GW, như vậy chúng ta
cần xây ít nhất bốn nhà máy như vậy chỉ để phục vụ cho một lần bật đèn. Tình hình
tại Việt Nam cũng không khá hơn là mấy. Dù là nước có nguồn hàng xuất khẩu khá
đa dạng nhưng xuất khẩu dầu mỏ vẫn là nguồn tạo GDP lớn nhất cho đất nước. Bên
cạnh đó, trong kỳ họp quốc hội vừa qua, nhiều dự báo đáng báo động về việc Việt
Nam sẽ cạn kiệt than đá vào thập kỷ sau đang buộc chính phủ phải cân nhắc về
23
chính sách phát triển kinh tế của mình. Bên cạnh đó, nguồn điện chủ yếu của chúng
ta là thủy điện và nhiệt điện. Thủy điện làm thay đổi hệ sinh thái dọc theo các con
sông, tiêu tốn nhiều tiền của và vật liệu nhưng khi hạn hán thì đành chịu bó tay.
Nhiệt điện thì quá ô nhiễm và lãng phí tài nguyên quốc gia.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 và khủng hoảng nợ tại châu Âu đang tác
động tới chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Các nước mới nổi như Việt Nam,
Trung Quốc không thể duy trì mãi chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu được.
Các quốc gia này cần có một cú sốc về công nghệ để có thể tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng mà vẫn đảm bảo phúc lợi xã hội. Do đó chúng tôi đề xuất công nghệ sắp
tới mà Việt Nam nên hướng tới chính là công nghệ xanh, một cuộc cách mạng thực
sự. Những gì mà chúng ta đang làm hiện nay như tắt bớt bóng đèn, Earth hour chỉ là
những trò hoạt động phong trào vui là chính, chúng không đi vào thực chất. Chúng
ta về cơ bản vẫn đang dùng thứ năng lượng bẩn để sản xuất điện, các phong trào ngớ
ngẩn kia cũng thế. Chúng tôi đơn cử như Earth hour chẳng hạn, bạn sẽ tắt hết bóng
điện tại khu trung tâm vào thứ 7 trong 1 giờ. Nghe thì lý thú nhưng thử tính toán
xem, liệu 8h tối thứ 7 (giờ bắt đầu) có còn công sở nào mở điện không? Liệu lượng
điện tiết kiệm có bù đắp nổi lượng cây cối bị ngã xuống để sản xuất giấy cổ động
hay có bao nhiêu dầu mỏ cần được xử lý để sản xuất nến cho chúng ta đốt vào
những ngày đó. Các kết quả về phong trào chỉ nêu số lượng điện tiết kiệm được, tức
là chỉ phần tiết kiệm thuần (chúng tôi dùng chữ gross savings) chứ chưa tính tới các
chi phí của việc tiết kiệm (costs of savings) để có thể tính toán được tiết kiệm ròng
(net savings) và chúng tôi buộc phải nghi ngờ rằng tiết kiệm ròng là một số âm. Các
phong trào đó dẫu sao cũng có mặt tốt là giúp chúng ta duy trì thời gian mà năng
lượng còn có thể sản xuất được tiếp, chúng tôi gọi đó là sự câu giờ trước thời điểm
entropy đạt đỉnh trong các hệ thống kinh tế của chúng ta. Nếu muốn mở rộng các
giới hạn sử dụng năng lượng chúng ta cần một cuộc cách mạng thực sự, một sự thay
đổi thậm chí là rất khốc liệt bởi vì chúng ta sẽ phải từ bỏ việc sản xuất năng lượng
nói chung và điện nói riêng từ các nguồn bẩn như năng lượng hóa thạch và năng
lượng hạt nhân, những thứ đã gắn bó với chúng ta từ vài ngàn năm. Những vấn đề
24
khó khăn của chúng ta trong ngày hôm nay không chỉ đơn thuần là việc chúng ta đã
sản xuất ra năng lượng từ những nguồn bẩn trong một thời gian quá lâu và ngày
càng phụ thuộc hơn vào nó. Trước đây chúng ta có thể đổ lỗi cho trình độ khoa học
nhưng khi trình độ khoa học đã nâng cao và vấn đề năng lượng sạch đã được nhắc
đến và có thể sản xuất được thì chúng ta vẫn cứ sa lầy bởi vì một nhận thức khá sai
lầm trong một bộ phận của kinh tế học: “Tăng trưởng đi cùng với ô nhiễm”. Những
lí lẽ biện hộ sai lầm đã chiến thắng trong một thời gian dài và dẫn tới hậu quả như
ngày hôm nay. Những khó khăn là phải có, chúng tôi chưa từng thấy cuộc cách
mạng nào dễ dàng cả. Luôn sẽ có những thất bại trứơc khi chúng ta tới đích, vấn đề
là làm sao chúng ta có thể đạt được điều đó đầy cảm hứng như việc máy tính PC
chiếm lĩnh cuộc sống hằng ngày từ ba mươi năm trước.
Nên nhớ rằng vấn đề của một cuộc cải cách sẽ bắt đầu từ nơi nó có nhiều mâu
thuẫn nhất. Trung Quốc hiện là nước tiêu tốn tài nguyên nhất và khi mà sản lượng
tương lai đạt đỉnh điểm, chính Trung Quốc sẽ phải cực kì nỗ lực trong việc tìm kiếm
các nguồn tài nguyên mới. Tuy nhiên nếu các quốc gia khác ngay từ bây giờ đầu tư
cho các nguồn năng lượng mới như năng lượng mặt trời, gió thì sẽ có cơ hội đạt
được vị trí dẫn đầu thế giới. Tại sao nước Mỹ trở thành thủ lĩnh kinh tế thế giới và
kế đó là Nga. Câu trả lời là nhờ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần II từ những
năm 1940. Trước đó Anh, Mỹ và Nga gần như cân bằng về mặt kinh tế nếu không
muốn nói là Nga lép vế hơn Anh-Mỹ trong khi sự khác biệt giữa Anh Mỹ là không
đáng kể.
Có thể bạn nói do Anh bị chiến tranh thế giới làm ảnh hưởng, nhưng thật ra
họ có eo biển Manche và thiệt hại vì thế không quá nặng như Nga; hơn nữa vị thế
của Anh lúc đó đang là siêu cường số một, còn Mỹ thì đang loay hoay khắc phục
hậu quả của Đại suy thoái. Điểm khác biệt là từ sau năm 1940 hầu như những phát
minh khoa học mới nhất đều đến từ Mỹ và Nga, một cuộc chạy đua thực sự và Mỹ
có phần chiếm ưu thế nhờ ít bị chiến tranh tàn phá hơn, con người tài giỏi cũng hội
tụ về nhiều hơn và nguồn vốn thì khá lớn. Sau này Nhật Bản cũng tạo được điều
thần kỳ tương tự nhưng Mỹ vẫn là số một khi họ kịp thời tạo ra một cú sốc về công
25
nghệ thông tin – điều đang làm thay đổi thế giới này tính theo giây và kết quả của cú
sốc này là bong bóng dotcom. Những kết quả từ nghiên cứu của G. Hansen sẽ cho
chúng ta thấy rõ hơn tác động của một cú sốc về công nghệ đối với kinh tế thế giới
Kết quả trên có được dựa trên bài viết của G. Hansen: “Indivisible Labor
and the Business Cycle”, Journal of Monetary Economics, 16 (1985), 281-308 và đã
được giáo sư Harald Uhlig sử dụng Matlab để mô phỏng. Lưu ý rằng các con số ở
đây tính bằng % (không phải số tuyệt đối) nên việc các yếu tố nội sinh như đầu tư,
sản lưởng, vốn và yếu tố ngoại sinh là công nghệ đều giảm dần theo thời gian là dễ
hiểu.
Lý do cuối cùng mà chúng tôi đưa ra để chúng ta cần có một cuộc cách mạng
về công nghệ xanh đó chính là toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa rất tốt, nó làm cho thế
giới xích lại gần nhau hơn, cùng với công nghệ thông tin và sự cởi mở của các quốc
gia mà toàn cầu hóa mang lại những lợi ích to lớn cho hệ thống kinh tế thế giới. Tuy
26
nhiên mặt trái của nó là không thể phủ nhận. Bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo
và phúc lợi xã hội cũng bị kéo dãn do các lực toàn cầu hóa không chỉ tác động ở cấp
độ cá nhân với nhau mà còn lên các quốc gia với nhau. Chỉ những nước có tiềm lực
và luôn đảm bảo được năng lượng mà cụ thể là điện được duy trì thường xuyên thì
mới có thể hưởng lợi được. Đó là lý do cho sự khác biệt giữa Hàn Quốc và Nam Phi,
cả hai có cùng xuất phát điểm nghèo đói nhưng Hàn Quốc có thể đảm bảo điện cho
phát triển còn Nam Phi thì không dù rằng họ nhiều tài nguyên hơn Hàn Quốc. Nói
về vấn đề này, Tom Friedman đã tóm gọn trong một cụm từ đó chính là “sự nghèo
đói năng lượng”. Hãy nhìn nhận kỹ hơn, nước cũng là năng lượng cho cơ thể nhưng
các quốc gia châu Phi luôn thiếu nước và điện cũng trong tình trạng tương tự. Trong
cái thế giới toàn cầu hóa này, chúng ta chỉ có thể hưởng lợi khi được đảm bảo có
điện. Tại sao? Vì chỉ có điện thì chúng ta mới có máy tính để truy cập internet và hội
nhập cùng thế giới, nếu không chúng ta sẽ thành kẻ ngoài cuộc. Nếu năng lượng
được đảm bảo chúng ta sẽ có điều kiện để tái sản xuất sức lao động tốt hơn. Khi bạn
mệt mỏi chỉ cần bật máy lạnh và uống một ly nước mát thì đã có thể tái tạo một
phần sức lao động của mình. Các quốc gia châu Phi không may mắn như vậy.
Chúng ta không thể cung cấp điện cho các khu vực nghèo đói này vì chi phí xây một
nhà máy điện và đường dây tải điện là rất lớn và gây ô nhiễm. Năng lượng xanh như
gió, mặt trời là một giải pháp khả thi và hợp lý cho những khu vực đói nghèo này.
Báo cáo thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc đã đề cập tới khoảng cách giàu nghèo, y
tế, xung đột, môi trường nhưng vẫn chưa có ai đề cập tới “sự nghèo đói năng
lượng”. Nếu như công nghệ thông tin, các công ty đa quốc gia và sự cởi mở của các
quốc gia là những yếu tố thúc đẩy toàn cầu hóa tốt đẹp thì “sự nghèo đói năng
lượng” và sự vô trách nhiệm các cá nhân thụ hưởng lợi ích toàn cầu hóa chính là
những nhân tố làm cho tiến trình này bị chậm lại. Trách nhiệm là luôn cần thiết,
trong mọi giai đoạn, vấn đề bây giờ là khắc phục “sự nghèo đói năng lượng”. Trung
Quốc xa xưa có nhiều nước chư hầu vì kỹ nghệ sản xuất đồ sắt (một sự tận dụng
năng lượng sẵn có) đã vượt xa kỹ nghệ sản xuất đồ đồng lạc hậu của những nước
chư hầu. Hiện nay cũng thế, chúng ta cần năng lượng xanh để có thể giải quyết bài
27
toán khó này, bài toán mà câu đố năng lượng bẩn cần được giải đã theo suốt chiều
dài hàng ngàn năm lịch sử của xã hội loài người. Hãy nhớ một điều rằng thời kỳ đồ
đá kết thúc không phải vì chúng ta hết đá mà vì chúng ta đã biết sử dụng đồng và
chúng ta vẫn sẽ kịp nếu bắt đầu ngay từ bây giờ.
3.2. Những giải pháp dành cho Việt Nam:
Trong phần trên chúng tôi đã nói về việc Việt Nam cần thay đổi chiến lược
phát triển của mình. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng nợ châu Âu đã và sẽ lấy
đi rất nhiều thu nhập của chúng ta từ xuất khẩu. Nguyên nhân vì các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam là thực phẩm, giày dép và dầu mỏ; ngoài dầu mỏ có nhu
cầu vô tận nhưng sẽ sớm cạn kiệt, các mặt hàng còn lại chủ yếu là đơn giản và
không có lợi thế cạnh tranh nào khác ngoài giá rẻ. Ưu thế cạnh tranh chủ yếu của
chúng ta hiện nay là giá rẻ và các nước mới nổi khác cũng thế, do vậy ưu thế này sẽ
sớm bị cân bằng. David Mayer và Foulkes trong bài viết: “Long-term fundamentals
of 2008 economic crisis” đã nói tới một cú sốc về nguồn cung lao động giá rẻ do
toàn cầu hóa đã giúp các nước mới nổi phát triển hơn, tuy nhiên đó chỉ là một mặt
của vấn đề. Chúng ta thử nhìn xem mặt còn lại là cú đánh gục nền kinh tế mới nổi từ
nguồn cung lao động chất lượng cao. Hàng giá rẻ lúc nào cũng dễ làm và tràn lan,
hàng chất lượng cao thì luôn đắt đỏ và không ngừng tăng giá. Lao động cũng thế, tri
thức của lao động chính là bí quyết khác biệt giữa các nước phát triển và đang phát
triển. Người Mỹ có thể ngưng nhập hàng từ Trung Quốc vì khủng hoảng nhưng
Trung Quốc thì không thể ngưng sản xuất Iphone để người Mỹ bán cho cả thế giới
cùng sử dụng. Chúng ta đều biết tới mô hình kim cương của Michael Porter trong
chiến lược cạnh tranh của các quốc gia. Không giống như các nhà kinh tế, Porter
cho rằng sự thịnh vượng của một quốc gia là do chúng ta tạo ra từ việc cải tiến và
nâng cấp các ngành thay vì là đến từ các nguồn như tài nguyên, lao động, các vấn đề
tiền tệ và vốn. Như vậy sẽ không có một quốc gia nào là quá mạnh trong quá nhiều
ngành, chúng ta chỉ có thể làm tốt ở một vài ngành. Điểm quan trọng theo Porter
chính là sự khác biệt mà bản thân nội tại của các quốc gia tạo ra đáp ứng với các
điều kiện bên ngoài. Porter lập luận rằng việc tăng trưởng dựa trên xuất khẩu các
28
yếu tố giá rẻ thì kết quả là quốc gia đó chỉ thu lại nguồn thặng dư rẻ mạt và mãi loay
hoay với bài toán xuất khẩu những sản phẩm kém giá trị. Mô hình Kim cương có lẽ
là một ứng dụng tuyệt vời khi dùng cho Việt Nam. Có lẽ một sai lầm là chúng ta
đang quá chú trọng đến xuất khẩu dựa trên lao động giá rẻ và tỷ giá thấp thay vì là
từ những khác biệt của chúng ta. Nên nhớ rằng nếu so về giá cả, các lao động tại
châu Phi rẻ hơn rất nhiều và vấn đề tỷ giả thì Việt Nam chưa phải là một cao thủ
như Trung Quốc hiện nay hay Nhật Bản trước kia. Việc quá chú trọng vào xuất khẩu
giá rẻ như vậy rõ ràng là chỉ tạo ra những nguồn thu nhập thấp. Nhật xuất khẩu giá
rẻ nhưng bù lại họ có công nghệ tuyệt vời hàng đầu thế giới và nhiều công nghệ
trong số đó chỉ có duy nhất người Nhật là thực hiện được. Trung Quốc không mạnh
như Nhật nhưng bù lại họ là nhà máy gia công lớn nhất thế giới. Chúng ta cần những
sản phẩm công nghệ cao hơn,và con đường dễ thấy trước mắt chính là công nghệ
xanh. Krugman bổ sung cho mô hình phát triển của Porter bằng việc bổ sung yếu tố
“khả năng xử lý khối lượng công việc”. Ví dụ như Mỹ và Nhật đều có lợi thế mạnh
trong thị trường chứng khoán, nhưng phố Wall mới là trái tim của tài chính quốc tế
bởi vì ở đó xử lý được khối lượng chu chuyển vốn lớn nhất, nhanh nhất và nhiều cơ
hội nhất. Công nghệ xanh cũng vậy, khi mà thế giới này đang cạn dần các nguồn
năng lượng thì quốc gia nào có khả năng sản xuất năng lượng xanh nhanh nhất, tốt
nhất và rẻ nhất sẽ có cơ may giành được vị thế số một thế giới.
Chúng tôi chắc rằng vẫn còn vài người sẽ lập luận rằng trái đất đang tự nóng
dần lên, nguồn tài nguyên mới vẫn được tìm ra mỗi ngày, Afganistan vừa tìm ra mỏ
khoáng sản trị giá 1000 tỷ USD, vậy thì tại sao công nghệ xanh vẫn nên là định
hướng cho chúng ta. Chúng tôi xin dùng lý thuyết đánh cược của Pascal (Pascal’s
wager) để phản biện cho trường hợp này. Thuyết đánh cược Pascal nói rằng: “Nếu
tôi không dám chắc rằng Chúa có tồn tại hay không thì tốt nhất tôi nên tin vào điều
đó bởi vì nếu Chúa tồn tại thì tôi sẽ được che chở, còn nếu không thì tôi cũng chả
mất gì”. Khi áp dụng cho trường hợp này,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cong trinh nghien cuu - Entropy ung dung trong kinh te va loi di nao cho Viet Nam.pdf