Đề tài Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP

 KINH TẾ QUỐC TẾ 3

1. KháI niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 3

2. Những đặc trưng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 9

CHƯƠNG II. TIẾN TRÌNH THỰC TRẠNG HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 15

1. Tiến trình hội nhập (trong thời gian vừa qua) của Việt Nam 15

2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay 19

3. Những khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập hiện nay 25

4. Những thuận lợi của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 28

CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ 31

1. Xác định quan điểm chủ động quốc tế 31

2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay 34

KẾT LUẬN 38

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34

 

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhật mới hoàn thành quá trình tự do hóa thị trường vốn, và cũng mới gần đây Nhật mới mở cửa thị trường gạo. Vào những nửa năm 1974 tỷ lệ nhập khẩu hàng chế tạo so với GDP của Nhật là 2%. So với mức 15% của các nước TB phát triển khác. Sự tách rời giữa tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của giai đoạn quốc tế hóa trước đây. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế gắn liền với việc tự do hóa kinh tế các thể chế, thị trường kinh tế... Không thể hội nhập kinh tế quốc tế nếu không tự do hóa kinh tế. Đây là đặc điểm mới của xu thế quốc tế hóa hiện nay. Đương nhiên hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ nó gắn liền với mức độ của tự do hóa. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hội nhập kinh tế càng sâu thì tự do hóa càng mạnh. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hóa chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Với cơ chế thị trường thống nhất các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế làm cho các nền kinh tế có sự gắn kết với nhau. Mỗi nền kinh tế là một bộ phận của chính thể toàn cầu. Chỉ có hội nhập mới là cách thức để phát huy những thế mạnh những lợithês so sánh trong phân công lao động quốc tế. Bổ sung những điểm yếu của các nền kinh tế có thể. Như vậy vấn đề còn lại chỉ là ở chỗ xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hóa như thế nào cho phù hợp với trình độ nền kinh tế. Đây là điều cần tính toán, cần nhắc với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan nhưng đang chịu tác động lớn từ Mỹ. Và một số nước TB phát triển. Hiển nhiên là quá trình toàn cầu hóa gắn liền với sự phát triển của CNTB. CNTB lợi dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Và chínhtrong sự phát triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh với nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên manh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế. Chúng cấu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy khó có thể thay thế ngay thời kỳ đầu quá trình quốc tế hóa đã chịu sự chi phối của CNTB. Chương II. tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Người đã nói: "Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Người lại viết "Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây": 1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền. 2) Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: Một là nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Hai là, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế. Ba là, nước Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nước ta chỉ giới hạn trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là nước ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết. Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ thần thánh chống Pháp và chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức người, sức của đểu được tập trung tối đa cho chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại. Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước ta lại tập trung khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong Hợp đồng tương trợ kinh tế (SEV)? Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nước ta thì việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEU). Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trước thực tế của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trường chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi". Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đưa ra nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài. Hai là, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực AFTA. Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phương châm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "... nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội Đảng lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta lần lượt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 12 - 1987, Quốc hội nước ta thông qua Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam và cho đến nay vẫn liên tục được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế từng giai đoạn. Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này. Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên minh Châu Âu EU), đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM). Tháng 11/1998, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết và sau bao nhiêu nỗ lực, Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 mà không kèm theo cái gọi là Đạo luật nhân quyền nghị viện và tổng thống Mỹ đưa ra. Đây là bước tiến thuận lợi trong quá trình gia nhập WTO của nước ta. Mà trước đó, cuối năm 1994, Nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập vào tổ chức này, hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp. Tháng 9 /2001, tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước á - Âu lần thứ 3 (EMM - 3) và Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 33 và điều phối viện Châu á của EMM - 3 và đã hoàn thành một cách tốt đẹp bạn bè đã biết đến một Việt Nam đang cố gắng bứt lên, một Việt Nam có tiềm năng và nội lực dồi dào, đón nhận đầu tư của các nước trong khu vực và quốc tế, một Việt Nam sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay. Cho đến thời điểm hiện nay thì không thể nói rằng Việt Nam mới bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hình thức hội nhập, đặc biệt là ba hình thức cơ bản đã trình bày ở đây chỉ có thể xem như là một lát cắt ngang thực trạng quan hệ Việt Nam với các tổ chức các nước mà có tác động lớn tới nền kinh tế nước ta. * Việt Nam trong lộ trình AFTA. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được ký hiệp định thành lập năm 1992 giữa các nước ASEAN nhằm tạo ra bước ngoặt phát triển kinh tế của các nước 6 thành viên. Mục tiêu của AFTA là giảm dẫn thuế quan hầu hết các mặt hàng, trước hết là giảm dần hàng công nghiệp chế biến. Theo sự điều chỉnh được cam kết gần đây nhất, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các quy định AFTA vào năm 2006, trong khi đối với các thành viên khác, thời hạn đó là 2003. Ví dụ, đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thường thì: các loại sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 01/11/.2001 (nước khác là 1998) và sau đó xuống dưới 5% vào ngày 01/01/2006 (với các nước là 2003) còn các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dưới mức 20% sẽ được giảm xuống đến 0- 5% vào 1/1/2002 (nước khác là 2000). Quả thực nước ta định hướng vượt ưu đãi khi áp lực về thời gian được nới ra so với các nước khác đầu năm 1998, ta đã công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Tiếp đó, luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi nhằm tạo điều kiện để xây dựng hệ thống thuế nhập khẩu 3 cột (phổ thông, ưu đãi chung theo Quy chế trí tuệ quốc - MFN và ưu đãi đặc biệt) cũng như các quy định về thuế chống phá giá và thuế đối kháng, Việt Nam cũng đã cam kết tăng số dòng thuế sản phẩm có thuế suất dưới 5% vào năm 2006. Nhìn chung cho đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ trình của CFPT/AFTA. Hết năm 2001 tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được chuẩn bị và bước đầu đạt được những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên cũng có rất nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm, xử lý đó là: không ít các kết quả đã có chỉ mang tính thủ tục, tiến bộ giảm thuế suất xuống 5% và dưới 5% thực tế vẫn diễn ra chậm. Mặc dù đến 2006 Việt Nam mới thực hiện đầy đủ AFTA, song sự chậm chạp đó có nghĩa là việc cắt giảm thuế sẽ dồn vào những năm sau này. Đó là ngay bây giờ chúng ta phải xét đến tình hình hiện nay. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực, Trung Quốc đã gia nhập WTO.v.v... Cũng cần nhìn nhận rằng đối với Việt Nam, trong quan hệ so sánh với các thành viên ASEAN khác thực hiện đầy đủ AFTA chủ yếu có nghĩa là phải chấp nhạan cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đặc điểm bất lợi hơn. Việt Nam có khoảng thời gian ưu đãi hơn nhưng nó chỉ có giá trị với điều kiện là có sự nố lực rất lớn trong việc cải thiện sức cạnh tranh. Quãng thời gian 3 năm quả thực là quá ngắn nếu so quãng thời gian mà các nước ASEAN khác đã có để đạt tới sức cạnh tranh hiện tại. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa, năm 2006 đã gần kề tình hình kinh tế trong nước và khu vực luôn biến đổi. Do đó việc học tập rút kinh nghiệm từ các thành viên ASEAN là không thể bỏ qua. * Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Quan hệ Việt - Mỹ là một quan hệ đặc biệt so với các quá trình giữa Việt Nam và các nước khác không chỉ bởi vì Mỹ là cường quốc trên thế giới. Trước đây Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh. Mỹ cũng đã từng cấm vận Việt Nam gây ra một thời kỳ khó khăn vất vả cho cả nước. Bây giờ Mỹ là một bạn hàng to lớn, một thị trường rộng mở và càng đặc biệt khi Hiệp định - Thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực từ 10/12/2001. Đây là Hiệp định được đánh giá đồ sộ và có quy mô lớn nhất trong lịch sử đàm phán Việt Nam. Nó bao gồm các thoả thuận bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế - thương mại thế giới WTO. Tính đến ngày được ký kết (13/7/2001) Hiệp định đã trải qua 11 vòng đàm phán (vòng 1 bắt đầu vào 9/1996 tại Hà Nội). Như vậy để thấy rằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với nước ta. Đến nay tuy thời gian hiệp định có hiệu lực chưa dài song có người cũng đã nhận thấy sự khác nhau trong quan hệ hai nước so với trước đây. và quan trọng hơn đó là tác động của Hiệp định đối với kinh tế Việt Nam. Những số liệu sau đây có thể xem là những ví dụ cụ thể và những tác động đó là: Đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, xuất khẩu nước ta có thể tăng ngày 4% - 5% trong năm 2002, chủ yếu tập trung ngành dệt, may mặc, dày dép, gốm sữ, sơn mài, chế biến nông sản thực phẩn. Việc cắt giảm thuế quan song song với việc được hưởng mức thuế suất thương mại bình thường làm GDP tăng lên 0,23% trong ngắn hạn và 0,26% trong dài hạn. có thể thấy là việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ làm cho GDP nước ta tăng một cách bền vững trong tương quan dài hạn. tổng tiêu dùng xã hội cùng tăng 0,44% trong khi đó các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng lớn, ví dụ, ngành dầu thô giảm 0,34%, ngành thép giảm 0,29%... Đối với sổ thu ngân sách Nhà nước, qua các chỉ số cụ thể của từng ngành, trong ngắn hạn tăng khoảng 0,05% và 0,11% trong dài hạn. Trong đó chương trình cắt giảm thuế quan mở rộng xuất khẩu, về lâu dài số thu ngân sách tăng 0,1%. Nếu phân tích sâu sắc và rộng rài hơn, có khả năng kinh tế Việt Nam thu được lợi ích cao hơn và số thu ngân sách được đảm bảo ổn định. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ là chủ trương lớn trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Hiệp định không nước đáp ứng được lợi ích của cả hai nước, mà còn có tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam và Hoa Kỳ đối với ASEAN, khu vực và thế giới. Chính vì vậy tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng đối với toàn bộ nền kinh tế nước ta của các chương trình điều chỉnh chính sách thương mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cần được ưu tiên và đầu tư thích đáng. * Quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung. Trung Quốc là người bạn láng giềng "khổng lồ" của nước ta, không chỉ là một đất nước rộng lớn với 1,3 tỷ dân mà còn là một cường quốc về kinh tế. là hai nước láng giềng quá trình giao lưu buôn bán đã có từ rất lâu và rất sâu sắc. Thực tệ, người tiêu dùng Việt Nam đã quen thuộc với hàng hoá Trung Quốc với các đặc tính: rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng nhưng chất lượng chưa cao lắm (thực ra, đây không phải là do công nghệ kém mà là "chiến thuật" của Trung Quốc). Ngày 10/11/2001, Trung Quốc chính thưc là thành viên của WTO. Sự kiện này càng làm cho nền kinh tế Trung Quốc có cơ hội tăng mạnh tính cạnh tranh đồng thời có tác động mạnh mẽ đến thị trường hàng hoá thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặc biệt là phải đối mặt với những thách thức về khả năng giảm kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thách thức về xuất khẩu đối với Việt Nam xuất phát từ khả năng cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc được tăng cường do được hưởng những điều kiện thương mại bình đẳng và ưu đãi của WTO. Trước hết là cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước có tính tương đồng trùng lặp khá cao như: dệt may, giày dép, điện tử, linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ... mà chi phí lao động và chi phí sản xuất của họ thấp hơn nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng xuất khẩu của hàng hoá nước ta. Việt Nam và Trung Quốc lại có chung các đối tác lớn như Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN... Hơn nữa, gia nhập WTO, khả năng giảm giá của hàng hoá Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra khi họ từng bước điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ theo hướng giảm giá so với đô la Mỹ. Như vậy, có nghĩa là, trên thị trường thế giới sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc sẽ mạnh hơn. Một thách thức lớn nữa là về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) dù 10 năm qua tỷ lệ thu hút DTNN so với GDP của Việt Nam cao hơn Trung Quốc nhưng theo Ngân hàng Thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam còn thiếu yếu tố bền vững, hiệu quả và thực chất mới chỉ thể hiện về số lượng. Ngược lại thu hút đầu tư nước ngoài của Trung Quốc hướng được vào xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp. Tuy còn có một số trở ngại: lạm phát cao, nạn quan liêu tham nhũng nhưng Trung Quốc cũng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị, giảm tiền thuê đất, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xúc tiến mạnh mẽ hợp tác song phương và đa phương. Trong khi đó Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là tình trạng thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức thuyết phục... Như vậy có thể thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO đưa đến những nguy cơ và thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc đưa ra các giải pháp tính thuế cũng như lâu dài là hết sức cấp thiết. * Việt Nam với Liên minh Châu Âu đã có những bước khởi đầu từ năm 1975. Trải qua sự cố gắng, nố lực từ hai phía, đỉnh cao của sự phát triển quan hệ này được đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17/7/1995 khi "Hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu" được ký kết. ở đây tôi muốn đi sâu vào một số mặt hàng mà Việt Nam hiện đang có lợi thế trên thị trường EU và trong cả những năm tới. Trước hết là hàng dệt may. Từ 1/1993, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là một trong hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước ta. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang hơn 40 nước trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm từ 34% đến 38% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may cả nước. Thứ hai là hàng thuỷ sản. Theo tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hiệp quốc, đến nay hàng thuỷ sản Việt Nam có mặt trên 49 nước và khu vực, đặc biệt Việt Nam tiếp cận ngày càng sâu vào thị trường Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước không ngừng tăng lên từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng bình quân 17,7%/năm trong đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU là 75,2 triệu USD năm 1997; 93,4 triệu USD năm 1998 và 105,3 triệu năm 1999. Hiện EU là thị trường lớn thứ hai nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam, chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp. Mặt hàng thứ ba là giày dép và đồ da. EU hiện là thị trường nhập khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 70% tổng giá trị xuất khẩu giày dép cả nước. Việt Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được. Do kim ngạch xuất khẩu giày dép của nước ta vào EU tăng rất nhanh nên EU đã bắt đầu quan tâm đến tăng trưởng xuất khẩu giày dép Việt Nam. EU đã cử đoàn sang làm việc với Hiệp hội Da giày Việt Nam và khảo sát thực tế tại Việt Nam. Chắc chắn rằng, thời gian tới, với mặt hàng giày da Việt Nam, EU sẽ có những chính sách phù hợp. Đây là cơ hội quý giá cho kinh tế Việt Nam nói chung và hàng giày da nói riêng. Như vậy, với thị trường rộng lớn EU, Việt Nam đã có vị thế ở một số mặt hàng. Đó là nền tảng thuận lợi cho những bước tiến tham gia và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vấn đề quan trọng là Việt Nam có nắm lấy được cơ hội này hay không? * Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới WTO. Tổ chức thương mại thế giới được coi là tổ chức rộng rãi nhất, cao nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia vào WTO và được hưởng những ưu đãi, quyền lợi mà tổ chức dành cho các thành viên luôn là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới. Mặc dù rằng những quyền lợi đó luôn song sóng với những cam kết các nước phải thực hiện. Mà sự bất lợi, hay thách thức luôn nghiêng về các nước đang phát triển, hay kém phát triển hơn. Việt Nam cũng là một quốc gia đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Gia nhập WTO, song song với việc mở rộng thị trường, giảm bớt hàng ràp thuế quan và phi thuế quan, loại bỏ các hạn chế đầu tư ở các nước công nghiệp phát triển, Việt Nam cũng phải chấp nhận mở cửa thị trường, đón nhận sự cạnh tranh gay gắt của những đối thủ mạnh hơn rất nhiều ngay trên thị trường nội địa của mình. Thực chất Việt Nam chủ động trong tiến trình AFTA, trong quan hệ với các nước, khu vực trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, EU... cũng là để rút ngắn vòng đàm phán gia nhập WTO mà nước ta đã nộp đơn từ năm 1994. Việt Nam cũng xác định được rằng: WTO chỉ tạo ra cơ hội chứ không phải tự nó đem lại sự tăng trưởng kinh tế. Cho nên xây dựng nền tảng hạ tầng và hệ thống pháp lý thuận lợi cho đầu tư tư nhân, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển nhân lực đang là phương châm cho mọi đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước. Cho đến nay, khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, cùng với những bước tiến vững chắc trong quan hệ với các nước, khu vực, chúng ta đã tạo những bước thuận lợi cho tham gia tổ chức Thương mại thế giới. 3. Những khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập hiện nay. Qua thực trạng của Việt Nam trong lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực, trong quan hệ kinh tế với các quốc gia, các cộng đồng quốc tế, ta đã nhìn thấy những hạn chế của nền kinh tế, của hệ thống pháp lý quốc gia gây ra những khó khăn cho bước tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Thực ra, những hạn chế đó bắt nguồn từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta hiện nay. * Trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Việt Nam với hai đặc trưng nghèo nàn và lạc hậu. Lấy các nước Châu á và trong khu vực làm mức so sánh thì mặt hàng xuất phát kinh tế thực tế của nước ta còn thấp xa. Theo sự sắp xếp của các tổ chức thế giới, Việt Nam là một trong mười quốc gia nghèo nhất trên thế giới. GDP nước ta kém xấp xỉ 30 lần GDP so với GDP của Mỹ. Cần lưu ý thêm rằng, vì nghèo và tuy nghèo song tỷ lệ tiết kiệm nội địa (theo % GDP) của nước ta rất thấp, chỉ bằng 1/2 đến 2/3 so với nước khác, như Trung Quốc chẳng hạn. Điều này sẽ làm chậm khả năng tăng trưởng và cải tạo cơ cấu kinh tế chỉ dựa trên căn bản nguồn vốn nội địa. Ta cũng dễ dàng nhìn thấy thực tế quen thuộc là tình trạng thiếu vốn, công nghệ kém lạc hậu của các dự án, công trình hay các doanh nghiệp, Công ty. Ngoài ra trình độ cơ cấu kinh tế của ta hiện còn thấp. Phải đến 10 - 15 năm nữa, với nỗ lực thật cao may ra nước ta mới đạt được mức trung bình hiện tại của các nền kinh tế đang nổi ở Châu á, với trình độ đó, sự cạnh tranh theo nguyên tắc bình đẳng sẽ đặt Việt Nam vào thế bất lợi hầu như là tuyệt đối. Nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ mang tính hiện thực ngày càng cao nếu chúng ta không có những sự lựa chọn đúng theo hướng đi tắt để đuổi kịp. * Khó khăn thứ hai bắt nguồn từ đặc trưng Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Chỉ so sánh với các thành viên khác của AFTA thì các nước đã phát triển thị trường thành công trước hàng mấy chục năm. Qua 15 đổi mới, thể chế kinh tế thị trường của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải "chơi" theo "luật chơi" của thị trường thực sự thậm chí ở trình độ cao, gay gắt sâu sắc hơn. Dường như ảnh hưởng của nền kinh tế chỉ huy tập trung trước đây vẫn còn tác dụng. Là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế song các doanh nghiệp Nhà nước dường như vẫn trông chờ vào Nhà nước như một "cứu cánh" để tồn tại chứ không phải dựa vào năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình, trên cơ sở nâng cao sức cạnh tranh thực sự. Sức ỳ lớn, tiền trình đổi mới diễn ra chậm, thái độ sẵn sàng hội nhập cũng như năng lực cạnh tranh thấp. Khu vực doanh nghiệp tư nhân tuy phát triển nhanh hơn song tiềm lực và sức cạnh tranh còn yếu. Vì vậy hàng hoá Việt Nam phải đương đầu với sự xâm nhập ồ ạt, mạnh mẽ của hàng hoá nước ngoài. Cũng xuất phát từ một thể chế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0179.doc
Tài liệu liên quan