MỤC LỤC
Lời mở đầu . 4
1. Tính cấp thiết của đề tài . 4
2. Phạm vi nghiên cứu . 5
3. Mục tiêu nghiên cứu . 5
4. Phương pháp nghiên cứu . 5
5. Phạm vi nghiên cứu . 5
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến . 5
7. Kết cấu của đề tài . 5
Chương 1: Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử . 6
1. Khái niệm về mạng lưới sản xuất toàn cầu: . 6
2. Đặc điểm của mạng lưới sản xuất toàn cầu: . 7
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lưới sản xuất điện tử
toàn cầu ở Đông Nam Á: . 8
3.1. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:. 9
3.2. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á: . 11
3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á . 16
3.4. Vị thế của Việt Nam . 19
4. Kinh nghiệm của một số nước có nền công nghiệp điện tử phát triển . 20
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan . 20
4.2. Kinh nghiệm của Malaysia . 23
Chương 2: Thực trạng công nghiệp điện tử Việt Nam trước và sau khi gia
nhập WTO . 26
1. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam (giai đoạn 2002 – đầu 2009) . 26
1.1.Giai đoạn tiền WTO . 26
1.2.Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay) . 37
2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam . 47
2.1.Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam . 47
2.2.Những khó khăn và hạn chế đối với ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam . 53
Chương 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới . 60
1. Quan điểm và định hướng phát triển . 60
1.1. Quan điểm phát triển . 60
1.2. Mục tiêu phát triển . 61
1.3. Định hướng phát triển . 62
2. Giải pháp phát triển . 64
2.1. Phát triển nguồn nhân lực . 64
2.2. Giải pháp về công nghệ . 66
2.3. Giải pháp phát triển nghành công nghiệp phụ trợ. . 68
2.4. Giai pháp về chính sách . 72
Kết luận . 7
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
160000
180000
200000
Năm
tỉ
đ
ồ
n
g
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Gi
á
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
30
Bảng 2.2. Tổng giá trị sản phẩm nghành công nghiệp điện tử
(Đơn vị : Tỉ đồng)
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Sản xuất máy móc, thiết bị 2098.5 2941.0 3651.2 4171.2 5523.9 6293.6 8795.8 12820.5 13802.1 15961.4
Sản xuất TB văn phòng, máy
tính
43.7 1044.3 3000.6 1736.5 2989.0 4006.6 6721.4 7945.0 14466.5 17680.4
Sản xuất thiết bị điện 2005.1 2978.1 4177.4 7699.3 11287.0 13777.7 17205.7 24154.8 33208.7 44519.7
Sản xuất radio, tivi và TB
truyền thông
4377.4 5339.6 5230.3 7370.1 8411.8 11063.6 14089.3 17652.5 20385.8 23309.1
Sản xuất dụng cụ y tế, chính
xác, dụng cụ quang học và
đồng hồ các loại
304.8 812.2 590.2 1075.3 1237.3 1344.2 1824.9 2553.5 2473.9 2975.9
Sản xuất, sửa chữa xe có động
cơ
2773.9 2659.9 3254.3 5877.6 9582.7 15730.9 22602.7 26911.2 28501.8 30277.1
Sản xuất, sửa chữa phương
tiện vận tải khác
2340.9 7589.3 8236.5 13385.5 21095.9 19981.1 25103.3 38596.6 44313.9 52362.9
31
Tổng 13944.3 23364.4 28140.5 41315.5 60127.6 72197.7 96343.1 130634.1 157152.7 187086.5
Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam
32
Bảng 2.3. Tỉ trọng nghành công nghiệp điện tỉ trong nền knh tế quốc gia
19
97
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Sản xuất máy móc, thiết bị 1.2 1.4 1.5 1.2 1.4 1.3 1.4 1.6 1.4 1.3
Sản xuất TB văn phòng, máy tính 0.0 0.5 1.2 0.5 0.8 0.8 1.1 1.0 1.5 1.5
Sản xuất thiết bị điện 1.1 1.4 1.7 2.3 2.9 2.9 2.8 3.0 3.4 3.7
Sản xuất radio, tivi và TB truyền thông 2.4 2.6 2.1 2.2 2.1 2.3 2.3 2.2 2.1 1.9
Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang
học và đồng hồ các loại 0.2 0.4 0.2 0.3 0.3 0.3 0.3 0.3 0.2 0.2
Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ 1.5 1.3 1.3 1.7 2.4 3.3 3.6 3.3 2.9 2.5
Sản xuất, sửa chữa phương tiện VT khác 1.3 3.6 3.4 4.0 5.3 4.2 4.0 4.8 4.5 4.3
Tổng 7.7 11.2 11.5 12.2 15.2 15.1 15.5 16.2 16.0 15.4
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
33
b. Tình hình xuất nhập khẩu
Bảng 2.4. Giá trị xuất khẩu ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam
2,290,719
1,543,365
1,307,298
941,602
679,822
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
1
năm
ng
hìn
đô
la
2006
2005
2004
2003
2002
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Xuất khẩu của VN tăng từ 0$ năm 1994 lên tới 782tr $, 1.5 tỷ, và 2 tỷ
năm 2000, 2005 và 2006 tương ứng. Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm 80% sản phẩm điện tử dân dụng. Cũng như vậy, các
dự án có vốn đầu tư nước ngoài – như Fujutsu, Canon và Orion hanel,
chiếm tới 95% xuất khẩu VN trong năm 2006. Ngoài ra các số liệu từ PC-
TAS còn cho thấy kim ngạch xuất khẩu của nước ta còn thua xa so vói các
nước trên thế giới và trong khu vực. (Consumer Electronics Market in
Vietnam). Tính đến năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đồ linh kiện điện tử
của ta chỉ chiếm 4 % tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, chiếm 0.13% thị
phần thế giới đứng thứ 44 trong tổng xếp hạng 197 nước. Trong khi đó,
Singapore chỉ riêng xuất khẩu linh kiện điện tử đã chiếm 31% tổng kim
ngạch xuất khẩu, chiếm 9% thị trường thế giới, là nước đứng thứ 5. Thái
Lan, Malaysia cũng có thứ hạng cao trong tổng sắp xếp thế giới; Thái Lan
đứng thứ 15 với 1.85% thị trường thế giới, Malaysia đứng thứ 8 với 3.76 %
thị trường thế giới. (The Personal Computer Trade Analysis System)
34
Bảng 2.5. Tỉ trọng kim nghạch xuất khẩu điện tử gia dụng và điện tử -
CNTT trong tổng kim nghạch xuất khẩu quốc gia (%)
9%
26%
19%
17%
19%
11%
16%
2%
0% 5% 10
%
15
%
20
%
25
%
30
%
Japan
Malaysia
Philippines
Republic of Korea
Singapore
Taiwan, Province of China
Thailand
Viet Nam
Share in national exports
(%)
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Bảng 2.6. Thị phần linh kiện điện tử trên thế giới
9.58%
3.76%
2.33%
5.32%
9.00%
7.13%
1.85%
0.13%
0.00
%
2.00
%
4.00
%
6.00
%
8.00
%
10.0
0%
12.0
0%
Japan
Malaysia
Republic of Korea
Singapore
Thailand
Viet Nam
Share in world market (%)
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Tình trạng tương tự cũng xảy ra với hàng điện tử gia dụng và điện tủ -
công nghệ thông tin khi mà tổng kim ngạch xuất khẩu của mật hàng này chỉ
chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, chiếm 0.08% thị phần thế
giới đứng thứ 39/ 197. Theo báo cáo của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện
tử Việt Nam (VEIA), việc xuất khẩu ngành hàng điện tử–CNTT của Việt
Nam mới chỉ bắt đầu từ năm 1996, với giá trị 90 triệu USD. Năm 2000
được coi là năm đỉnh cao của XK ngành hàng này với kim ngạch đạt 782
35
triệu USD, các sản phẩm điện tử–CNTT năm đó được xuất đi 35 nước. Sau
năm 2000, do khủng hoảng kinh tế thế giới, kim ngạch XK hàng điện tử–
CNTT bị giảm sút nghiêm trọng: năm 2001 xuất được 595 triệu USD, năm
2002 giảm còn 492 triệu USD. Tuy nhiên, đến năm 2003, do tình hình kinh
tế thế giới đã bắt đầu ổn định, giá trị XK lại tăng lên 672 triệu USD, riêng
sáu tháng đầu năm 2004 đã đạt 405 triệu USD. Kết quả này đã nâng kim
ngạch xuất khẩu hàng điện tử–CNTT đứng thứ sáu trong số các ngành hàng
xuất khẩu ở nước ta.
Tuy nhiên, theo đánh giá của VEIA, giá trị xuất khẩu hàng điện tử–
CNTT của ta còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. So với kim ngạch
XK ngành hàng này của các nước ASEAN năm 2001, Singapore đã đạt 70
tỷ USD, Malaysia 52,6 tỷ USD, Thái Lan 22,8 tỷ USD, Indonesia 10 tỷ
USD và ít nhất là Philippines cũng đạt 7 tỷ USD. Như vậy, rõ là doanh số
XK của Việt Nam là quá khiêm tốn.
Bên cạnh đó, mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhưng không đủ
để bù đắp cho nhập khẩu. Sở dĩ như vậy là do đặc điểm ngành ở Việt Nam
có tỉ lệ nội địa hóa thấp, cộng thêm đa số phân đoạn thị trường điện tử gia
dụng ở nước ta thường được lấp đầy bởi các sản phẩm nước ngoài, trong
khi đó các công ty nội địa kể cả công ty 100% vốn nước ngoài hay một
phần vốn nước ngoài đều không có chỗ đứng. Cầu hàng điện tử gia dụng
của nước ta chủ yếu được đáp ứng bởi các hàng hóa 100% nhập khẩu từ
TQ, HQ, NB, các nước ASEAN khác và Mỹ. Năm 2002, kim ngạch nhập
khẩu của nước ta đạt 1.4 tỉ USD thì đến năm 2005 và 2006 con số này đã
lên đến 3 tỉ và 3.6 tỉ USD. Điều này dẫn đến tình trạng xuất khẩu ròng của
ngành luôn thâp hụt trong suôt giai đoạn 2002 – 2006. Bảng dưới đây, cho
thấy năm 2002 chúng ta thâm hụt với thế giới -738411 nghìn USD, năm
2003, 2004, 2005 và 2006 con số này lần lượt là -1245983; -1309616; -
1336850; -1451811 nghìn USD. (Theo Consumer Electronics Market in
36
Vietnam - Market Research Report of International Business Strategies và
PC- TAS)
Bảng 2.7. Giá trị nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam
3,627,569
2,995,176
2,616,914
2,187,585
1,418,233
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
3,000,000
3,500,000
4,000,000
năm
ng
hì
n
đô
la
2006
2005
2004
2003
2002
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Về các đối tác chính: Từ những năm 90 Nhật Bản luôn là đối tác số
một của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta
sang Nhật Bản luôn chiếm một tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
ngành, con số này giao động trên dưới 50 %, điển hình như năm 2004
chiếm 54.785 %. Tuy nhiên nhập khẩu của nước ta từ Nhật Bản cũng rất
cao, năm 2002 kim ngạch nhập khẩu từ Nhật bản chiếm gần 30% tổng kim
ngạch nhập khẩu ngành. Trong suốt những năm 90s đầu những năm 2000
điện tử nước ta luôn thâm hụt thương mại với Nhật Bản, chỉ sau năm 2004
xuất khẩu ròng mới thực sự đổi chiều. Sau Nhật là các nước trong khu vực
như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Hong Kong. Chỉ đến
năm 2005 Mỹ mới lọt vào 5 đối tác lớn nhất của Việt Nam sau khi có các
dự án điện tử tại đây. Tuy nhiên từ đó đến nay Mỹ luôn là đối tác lớn chỉ
đứng sau Nhật Bản.
37
1.2. Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay)
a. Tình hình đầu tư và sản xuất:
Nhờ quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, ngành công nghiệp điện tử
đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tính đến hết năm
2003, FDI rót vào phát triển các dự án về công nghiệp điện tử gần 2 tỷ
USD. Đặc biệt, việc gia nhập WTO đã đánh dấu một làn sóng đầu tư mới
vào ngành công nghiệp điện tử nước ta. Theo Hiệp hội DN Điện tử Việt
Nam, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) đến nay đã có nhiều dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực điện tử
với tổng số vốn khoảng 3 tỷ USD.
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO thì Tập đoàn Intel
(Mỹ) đã nâng vốn đầu tư từ 600 triệu USD lên 1 tỷ USD để xây dựng nhà
máy lắp ráp và kiểm định chíp bán dẫn của Intel, trở thành nhà máy lớn
nhất thế giới của Intel(1) . Năm 2009, khi dự án Intel chính thức vận hành,
ngành
(1) T. Thương, Intel đầu tư đột phá vào VN- vietbao.vn
công nghiệp điện tử của Việt Nam hứa hẹn sẽ tăng mạnh về doanh thu xuất
khẩu và hy vọng sẽ đạt 10 tỷ USD mỗi năm. Tiếp đến là Tập đoàn Nidec
(Nhật Bản) cũng đầu tư 1 dự án tại Bình Dương với số vốn 1 tỷ USD sản
xuất đầu đọc quang học dùng cho đầu DVD, VCD và môtơ siêu nhỏ dùng
trong máy ảnh, máy in... Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư vào Việt
Nam tổng vốn 5 tỷ USD, trong đó riêng sản xuất linh kiện điện tử khoảng 1
tỷ USD. Dự kiến sau 3 năm sẽ xuất khẩu lớn với doanh số trên 3,5 tỷ
USD
(1)
. Ngoài ra còn Tập đoàn Meikom (Nhật Bản) đầu tư 300 triệu USD
sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Tây...
Tháng 4-2008, tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) cũng tuyên bố đầu tư
vào Khu công nghiệp huyện Yên Phong (Bắc Ninh) cho nhà máy sản xuất
38
điện thoại di dộng với tổng số vốn đầu tư 670 triệu USD nhưng sẽ thu hút
các nhà cung cấp phụ kiện cho nhà máy với tổng đầu tư có thể lên đến 300
triệu USD. Như vậy, dự án nhà máy sản xuất điện thoại của Samsung và
nhà cung cấp liên quan ở Việt Nam trong năm nay có thể thu hút tổng số
khoảng 1 tỷ USD. Samsung đặt mục tiêu bắt đầu hoạt động nhà máy giai
đoạn một với công suất 30 triệu sản phẩm/năm hoặc vào cuối năm nay hoặc
đầu năm sau. Sau đó, công ty sẽ mở rộng dần công suất nhà máy lên đến
100 triệu sản phẩm/năm. Đây là nhà máy có công nghệ hiện đại, sản xuất
điện thoại di động thế hệ mới 3G, 4G, thậm chí cả 5G. Theo kế hoạch, nhà
máy sẽ hoạt động vào năm 2009. Cũng trong năm 2008 này, Sanyo công
bố đầu tư 95 triệu đô-la Mỹ vào nhà máy liên doanh giữa Sanyo và Công ty
cổ phần Khu Công nghiệp Sài Gòn-Bắc Giang thuộc Tập đoàn Đầu tư Sài
Gòn (SGI) để
(1)
Lê Minh, vienamnet.vn
sản xuất các linh kiện quang truyền dẫn điện tử. Nhà máy đã được khởi
công trong năm nay và giai đoạn đầu đầu tư 40 triệu đô-la Mỹ(1)
Cùng với đó, Tập đoàn sản xuất bán dẫn và vi mạch thứ ba thế giới
Renasas (Nhật Bản) cũng đã xây dựng trung tâm nghiên cứu, thiết kế vi
mạch tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai nhà sản xuất máy tính hàng đầu thế
giới là HP và NEC đã quyết định lắp ráp máy tính mang thương hiệu của
họ tại Việt Nam. Hãng sản xuất máy tính lớn Acer cũng đang chuẩn bị lắp
ráp máy tính tại Việt Nam.
Không chỉ hấp dẫn với các tập đoàn sản xuất phần cứng, ngay sau khi
Việt Nam chính thức là thành viên WTO, khá nhiều các nhà cung cấp dịch
vụ công nghệ thông tin lớn của nước ngoài đã đến Việt Nam. Năm 2007,
nhà cung cấp dịch vụ của Mỹ là Yahoo đã tiếp tục thâm nhập vào thị
trường Việt Nam với việc cho ra mắt một loạt quán cà phê internet tại
39
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt là việc tung ra dịch vụ Yahoo
hỏi và đáp cho cộng đồng internet Việt Nam. Cũng đón lõng thị trường
internet đang phát triển mạnh, hệ thống đấu giá trực tuyến hàng đầu thế
giới eBay cũng đã có mặt tại Việt Nam với việc khai trang web eBay tiếng
Việt vào tháng 6/2007 (1)
Có thể nói Việt Nam đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư
nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử. Rất nhiều các tập đoàn lớn với
những dự án quan trọng, vốn đầu tư lớn đã đổ vào Việt Nam. Hiện các
doanh nhân trong lĩnh vực điện tử của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn
đang đổ về Việt Nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư và thời gian tới sẽ còn
nhiều dự án lớn được cấp phép trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, theo ông Trần Quang Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội DN
(1) Trần Dũng, Sản xuất điện tử “đổ bộ” vào Việt Nam sau WTO –
thongtincongnghe.com
Điện tử Việt Nam, đang có xu hướng chuyển các nhà máy sản xuất linh
kiện điện tử từ Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam Á sang
Việt Nam. Chẳng hạn như Tập đoàn Meikom đang cân nhắc việc chuyển
nhà máy đang sản xuất tại Trung Quốc về Việt Nam. Một số tập đoàn của
Nhật Bản, Đài Loan đang có ý định chuyển các nhà máy đang sản xuất linh
kiện điện tử của họ tại Trung Quốc, Malaysia về Việt Nam trong thời gian
tới.
Về mặt sản lượng: Sau khi gia nhập WTO , nhìn chung sản lượng các
mặt hàng điện tử gia dụng tăng lên đáng kể hàng năm. Năm 2007 ước tính
sản xuất được 203100 chiếc máy điều hòa nhiệt độ, tăng trưởng 51.9% so
với năm 2008
40
Các mặt hàng truyền thống như máy giặt, tủ lạnh, quạt điện đều có
mức tắng trưởng trên dưới 20% cũng vào năm này. Hầu hết các nặt hàng
chủ chốt đều có mức tăng trưởng trên 10%.
Năm 2008, tình hình sản xuất vẫn duy trì được nhịp đô tăng trưởng
đều đặn, mặc dù tốc độ tăng trưởng ở các mặt hàng có giảm đi do tác dộng
của khủng hoảng kinh tế trong đó điều hòa nhiệt độ chỉ tẳng trưởng hơn 4
% nhưng máy giặt lại có mức tăng trưởng đạt 28%. Ti vi luôn là mặt hàng
truyền thống có mức tăng trưởng tương đối ổn định ở mức 15%.
Bảng 2.8. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện
tử tháng 12 và năm 2007
Sản phẩm
Đơn vị
tính
Thực hiện Tháng 12
năm
2007 so
với
tháng 12
năm
2006 (%)
Năm 2007
so với
năm 2006
(%)
11
tháng
năm
2007
Ước tính
tháng 12
năm
2007
Cộng
dồn
cả năm
2007
Động cơ điện
Nghìn
cái 129.4 20.8 150.2 100.2 124.3
Máy biến thế " 23.3 3.5 26.8 100.7 117.0
Điều hoà
nhiệt độ " 184.8 18.4 203.1 120.3 151.9
Tủ lạnh, tủ đá " 873.9 82.1 956.0 104.4 113.1
Máy giặt " 375.5 36.6 412.1 101.6 121.3
Quạt điện " 1450.0 126.2 1576.2 104.3 118.6
Ti vi
Nghìn
cái 1902.8 252.7 2155.5 100.9 110.5
Bảng 2.9. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử
tháng 12 và năm 2008
41
Sản phẩm
Đơn vị
tính
Thực hiện Tháng
12 năm
2008 so
với
tháng 12
năm
2007
(%)
Năm 2008
so với
năm 2007
(%)
Chính
thức
11
tháng
năm
2008
Ước
tính
tháng
12
năm
2008
Cộng
dồn
12
tháng
năm
2008
Điều hoà
nhiệt độ Nghìn cái 109,7 9,6 119,3 134,4 104,6
Tủ lạnh, tủ
đá " 981,8 86,0 1067,8 105,0 122,2
Máy giặt " 479,5 51,1 530,6 108,1 128,0
Biến thế
điện
Nghìn
chiếc 14,1 1,0 15,1 132,1 122,6
Tivi Nghìn cái 2420,7 212,7 2633,3 87,4 115,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Sáu tháng đầu năm 2009, mặc dù phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới nhưng nhìn chung sản lượng của các mặt hàng điện tử
chính yếu không bị ảnh hưởng đáng kể. Máy điều hòa nhiệt độ đạt tẳng
trưởng cao 44.7% so với 6 tháng cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, ti vi và
máy giặt chỉ đạt mức tăng trưởng 4.8% và 3.5 %. Điều này thể hiện xu
hướng tiêu dùng của người dân đã dần dần chuyển sang dùng những mặt
hàng TV LCD màn hình phẳng thay vì các sản phẩm CRT trước kia. Đặc
biệt chỉ tính riêng tháng 6 năm 2009 dự kiến sẽ sản xuất 76100 mấy điều
hòa tức là bằng 246.4% so với tháng 6 năm 2008 do thời tiết năgs nóng
của mùa hè năm nay cao hơn năm trước.
Bảng 2.10. Một số sản phẩm chủ yếu của
42
ngành công nghiệp điện tử tháng 6 / 2009
Sản phẩm Đơn vị
Thực
hiện
tháng 5
năm
2009
Ước tính
tháng 6
năm
2009
Cộng
dồn
6 tháng
năm
2009
Tháng
6 năm
2009
so với
tháng 6
năm
2008
6 tháng
năm
2009
so với
6 tháng
cùng
kỳ năm
2008
Điều hoà nhiệt
độ
Nghìn
cái
214,2 76,1 290,4 246,4 144,7
Tủ lạnh, tủ đá " 512,2 153,2 665,4 133,6 116,1
Máy giặt " 234,0 61,4 295,4 128,8 103,5
Tivi " 1045,7 225,3 1271,0 105,2 104,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tăng cường sự hôi nhập kinh tế quốc tế bên cạnh việc thu hút đầu tư
còn có nghĩa là thu hẹp sự bảo hộ trong nước. Hiện tại, ngành điện tử Việt
Nam có khoảng 300 DN, trong đó khoảng 30% là các DN nước ngoài. Thế
nhưng các DN nước ngoài này lại đang chiếm giữ vị trí chủ chốt khi chiếm
tới 90% vốn đầu tư, trên 90% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 80% thị
phần nội địa. Ngoài ra, điều này còn dẫn đến sự ra đi của một số công ty đã
hoạt động trước đó. Hiện nay, một số ít DN thường là có 100% vốn nước
ngoài có công nghệ hiện đại, sử dụng hầu hết các nguyên vật liệu, phụ tùng,
linh kiện nhập ngoại và xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra như: Fujitsu,
Canon; số khác quy mô nhỏ hơn, thường hoạt động dưới hình thức liên
doanh với các DN trong nước theo định hướng sản xuất, lắp ráp điện tử tiêu
dùng ở mức giản đơn, tận dụng hàng rào thuế quan nhằm bảo hộ cho sản
xuất trong nước, thay thế hàng nhập khẩu phục vụ nội địa như: Sony,
43
Panasonic, JVC, Toshiba, SamSung… Tuy nhiên, khi hàng rào thuế quan
bị dỡ bỏ theo xu hướng hội nhập thì sự ra đi của các Công ty này là điều
khó tránh khỏi – Điển hình như trường hợp của SONY Vietnam đóng cửa
nhà máy sản suất tại Việt Nam và chuyển sang nhập khẩu hàng nguyên
chiếc sản xuất từ nước ngoài. Mặt khác chính vì sự chi phối của các công
ty nước ngoài cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cơ cấu sản
phẩm của ngành điện tử Việt Nam mất cân đối khá nghiêm trọng. Tỉ lệ nội
địa hoá sản phẩm cũng chỉ đạt khoảng 20% - 30%, chủ yếu là bao bì, chi
tiết nhựa và cơ khí. Doanh thu xuất khẩu đồ điện tử của Việt Nam khoảng
2,5 tỷ USD năm 2008, nhưng thực chất 95% - 98%(1) doanh thu thuộc về
các doanh nghiệp FDI. So với giai đoạn tiền WTO thì dường như tình trạng
mất cân xứng và tỉ lệ nội địa hóa thấp vẫn chưa được cải thiện. Mặc dù các
dự án đầu tư lớn trong giai đoạn này đều hướng vào xây dựng ngành công
nghiệp phụ trợ nhằm nâng
(1)
linh-kien-lap-rap-va-gan-thuong-hieu-noi/602201074/50397184/0.html
cao tỉ lệ nội địa hóa, nâng giá trị gia tăng nhưng hầu hết các nhà máy đều
phải đến năm 2009 mới bắt đầu đi vào hoạt động(1).
44
b. Tình hình xuất nhập khẩu
Nói chung trong mấy năm gần đây, hàng máy tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện là một trong 8 mặt hàng xuất khẩu trọng điểm nằm trong top
các mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỉ USD.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục thống kê Việt Nam, năm 2007 kim
ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện ước tính đạt 2178 triệu
USD, tăng trưởng 27.5 % so với năm 2006 chiếm 56% tổng kim ngạch xuất
khẩu nền kinh tế. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất
khẩu hàng điện tử, máy tính sang các thị trường chính đã đạt được những
thành tựu nhất định như xuất khẩu sang Trung Quốc đạt hơn 200 triệu
USD, tiếp theo đó là Nhật Bản và Thái Lan đạt gần 125 triệu USD và 164
triệu USD, Singapore, Đài Loan và Ấn Độ lấn lượt đạt 62 triệu USD, 73
triệu USD và 3. 5 triệu USD. Tuy nhiên, số liệu 6 tháng đầu năm cũng cho
thấy tình trạng nhập siêu của ngành. Kim ngạch nhập khẩu của từ Nhật
Bản đạt 242 triệu USD, Trung Quốc là 460 triệu USD, Hàn Quốc là 47
triệu USD (Tổng hợp từ Thông tin thị trường – VCCI). Đến cuối năm 2007,
kim ngạch nhập khẩu ngành lên tới 2944 triệu USD, bằng 143.7% kim
ngạch nhập năm trước đó và chiếm 7.07% tổng kim ngạch nhập khẩu quốc
gia. Điều này khiến xuất khẩu ròng hàng điện tử, máy tính, linh kiện âm
766 triệu USD cả năm (tổng
(1)
Công nghiệp điện tử VN: Cú “knock-out” đầu tiên, Lao Động số 351
Hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam sang khối
EU cũng đạt cao, với 456 triệu USD trong năm 2008, tăng 10% so với năm
2007 và chiếm 17,3% tỉ trọng kim ngạch. Trong đó, xuất khẩu sang Hà Lan
45
đạt cao nhất với 206,34 triệu USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái,
tiếp đến là Phần Lan đạt 44,7 triệu USD, tăng 10%, sang Slovakia đạt 40,7
triệu USD, tăng 90,85%. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu sang Braxin đang
tăng đột biến, với 189%, đạt 30,9 triệu USD. Và kim ngạch xuất khẩu sang
một số thị trường châu Phi cũng tăng mạnh như UAE, Nam Phi…Như vậy,
hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam có thể nói đã
cạnh tranh được với hàng điện tử của các nước khác trên thị trường quốc tế
và đứng vững được tại các thị trường lớn và có những tiêu chuẩn khắt khe
như EU, Mỹ hay Nhật Bản.
Mỹ cũng là một nhà nhập khẩu lớn hàng máy tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện của nước ta với kim ngạch xuất khẩu đạt 301 triệu USD, tăng
9,3% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng khá thấp so với mặt bằng
chung là 22%. Xuất khẩu hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
sang thị trường này trong năm 2008 đang bị chậm lại và có xu hướng giảm.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường khác cũng bị sụt
giảm như Đài Loan, Thuỵ Sĩ, Italy…
Bảng 2.11. Kim ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và
linh kiện 5 tháng đầu năm 2009
147
124
182
205
218
0
50
100
150
200
250
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5
Tr
iệu
U
SD
Điện tử, máy tính và linh
kiện
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử, máy tính và linh
kiện tháng một đạt 147 triệu USD bằng 4/5 kim ngạch xuất khẩu tháng 1
46
năm 2008. Sang tháng 2, xuất khẩu cũng giảm xuống chỉ còn 124 triệu
USD, giảm 15.65% so với tháng trước đó (Tổng cục thống kê). Kể từ tháng
3 kim ngạch xuất khẩu bắt đầu tăng lên đến tháng 5 đạt 218 triệu USD,
ước tính tháng 6/2009 sẽ đạt 220 triệu USD (Tổng cục thống kê). Kim
ngạch 6 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt 1138 triệu USD, tức là giảm 5.4
% so với cùng kỳ năm 2008.
Mỹ vẫn dẫn đầu trong số các thị trường xuất khẩu sản phẩm máy
tính, điện tử và linh kiện của Việt Nam. Cụ thể, trong 4 tháng đầu năm
nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 122 triệu USD, tăng
63,8% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm gần 18% tổng kim ngạch nhập
khẩu.
Ngoài ra, trong khu vực EU, xuất khẩu máy tính, điện tử và linh
kiện tới thị trường Đức có tốc độ tăng trưởng ấn tượng tới 278,5% trong 4
tháng đầu năm nay. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tới thị trường dẫn
đầu trong khối là Hà Lan lại giảm 37,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bản 2.12. Kim ngạch nhập khẩu hàng điện tử, máy
tính và linh kiện
170
216
268 284
310
0
50
100
150
200
250
300
350
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5
Tr
iệu
U
SD
Điện tử, máy tính và linh
kiện
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Năm 2009, nhập khẩu cũng có xu hướng giảm so với năm 2008, tháng
1 đầu năm kim ngạch nhập khẩu linh kiện điện tử, mấy tính đạt 170 triểu
47
USD chưa bằng ½ tháng 1 năm 2008. Mặc dù các tháng tiếp theo nhập
khẩu có xu hướng tăng lên, tháng 2 (216 triệu USD), tháng 3 (268 triệu
USD), tháng 4 (284 triệu USD) và tháng 5 (310 triệu USD) ( Tổng cục
thống kê) tuy nhiên ước tính kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2009
giảm xuống còn 1600 triệu USD, chỉ bằng 88.7 % cùng kỳ năm ngoái. (
Tổng cục thống kê).
2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam
2.1. Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
1.1. Vị trí địa lý tốt
Việt Nam nằm ở phía đông nam bán đảo Trung Ấn, thuộc khu vực
Đông Nam châu Á, thuộc ranh giới trung gian tiếp giáp giữa hai lục địa
Âu-Á và châu Đại Dương theo chiều dọc, giữa hai đại dương là Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương theo chiều ngang. Tính chất giao tiếp giữa các hệ
thống tự nhiên khác nhau đã góp phần tạo cho Việt Nam có bề mặt tự nhiên
cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và phức tạp.
Việt Nam nằm trên con đường giao thông hàng hải quốc tế nhộn nhịp
từ Tây sang Đông, với điểm giữa đường vận tải Hong Kong-Singapore sát
với khu vực có điều kiện tự nhiên để xây dựng những cảng nước sâu tầm
cỡ thế giới, có thể trở thành những trung tâm trung chuyển lớn có tính chất
quốc gia và quốc tế, là hành lang hướng ra biển để giao lưu kinh tế giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới.
Với vị trí như vậy, Việt Nam luôn là chốt chiến lược trong quá trình
phát triển của lịch sử cũng như là điểm hội tụ nhìn từ tiềm năng phát triển
và trao đổi kinh tế-văn hoá quy mô khu vực và thế giới.
48
1. 2. Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, trẻ và có trình độ học vấn ngày
càng cao
1.2.1 Nguồn nhân lực dồi dào
Việt Nam là nước có dân số đông và mật độ dân số thuộc loại cao trên
thế giới. Năm 2007, với dân số vào khoảng 85,2 triệu người trong đó tổng
số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân đạt số lượng 44,17
triệu người, chiếm 51,85% tổng dân số. Về cơ cấu theo ngành kinh tế, hiện
54,6% làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, 19,6%
trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng và 25,9% thuộc các ngành
dịch vụ.
Lực lượng lao động trẻ.
Một đặc điểm nổi bật của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam.pdf