Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp ở nhiều vùng miền với nhiều loại hình trường học với số lượng học sinh ngày càng tăng: Năm học 2004-2005, cả nước có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học tại 37000 cơ sở giáo dục – đào tạo. Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cao. Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, các dự án ODA trong giáo dục và đào tạo cũng góp phần cho giáo dục cơ bản phát triển , nguồn vốn được triển khai hàng năm lên tới hàng trăm triệu USD. Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt “Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn” với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Dự án đã được triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40 tỉnh trong cả nước với gần 15000 trường học. Đồng thời với mục tiêu trọng tâm là dạy nghề cho lực lượng lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống các trường đào tạo nghề sẽ được đàu tư nâng cấp dần lên ngang tầm với khu vực và quốc tế. Dự kiến sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10 trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn này.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cho nguồn lao động Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an điểm của em, em chia nguồn nhân lực thành 3 thành phần: nguồn nhân lực sơ cấp, nguồn nhân lực trung cấp và nguồn nhân lực cao cấp và đánh giá trên 2 khía cạnh: số lượng, chất lượng, về chất lượng thì chủ yếu xem xét về mặt: trình độ chuyên môn và kỹ năng của người lao động.
3.1. Nguồn lao động sơ cấp dồi dào nhưng chất lượng thấp.
Nguồn lao động sơ cấp (lao động phổ thông) là nguồn lao động chưa qua đào tạo hay đào tạo ở các trường trung học dạy nghề, các trường trung cấp.
Nguồn lao động này khá đông đảo, chiếm khoảng 4/5 nguồn lao động trong cả nước và tập trung chủ yếu ở nông thôn. Tính đến ngày 1/7/2005 thì có khoảng 33,289 triệu người chiếm khoảng 75% tổng số lao động trong cả nước và ở tất cả các vùng lãnh thổ đều cao
Biểu 3: Số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế chia theo vùng lãnh thổ
Đơn vị: người
Vùng lãnh thổ
Chung
Trong đó : % ở nông thôn
Số lượng
%
1. Đồng bằng sông Hồng
9947755
22,41
78,27
2. Đông bắc
5232632
11,79
82,45
3. Tây bắc
1406963
3,17
88,22
4. Bắc trung bộ
5339331
12,03
44,37
5. Duyên hải Nam trung bộ
3670258
8,27
71,43
6. Tây nguyên
2485712
5,60
73,24
7. Đông nam bộ
6783882
15,28
47,68
8. Đồng bằng sông Cửu long
9518499
21,44
80,41
Cả nước
44385032
100
75
Nguồn: Tính toán từ ”Báo cáo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2005 ”
Về trình độ chuyên môn, nguồn lao động sơ cấp được đánh giá có trình độ chuyên môn thấp. Nguồn lao động này khi lên thành phố chủ yếu làm trong các ngành xây dựng, dệt may, giầy da, chế biến v..v… Theo tính toán từ ”Báo cáo kết quả lao động- việc làm 1/7/2005” thì ở nước ta chỉ có 15,22% có chứng chỉ và có bằng công nhân kĩ thuật, 4,3% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Trong khi nguồn lao động sơ cấp chiếm hơn 80% thì tỷ lệ lao động được qua đào tạo như trên là quá thấp. Phần lớn những lao động này tự học nghề qua sự chỉ bảo của một người lao động khác, do đó trình độ tay nghề thường không cao, không được đào tạo bài bản nên dễ mắc sai lầm và ít có những sáng tạo trong công việc.
Do những người lao động này thứ nhất là không có bằng cấp, trình độ chuyên môn thấp lại chủ yếu làm việc theo thời vụ nên tiền công của họ khá rẻ mạt và thường được tính lương theo lương khoán, theo ngày hay theo sản phẩm. Ví dụ ở công ty cổ phần xây dựng Vinaconex I mức lương ngày này nằm vào khoảng 50-60 nghìn/ ngày, còn về lương khoán thì tuỳ theo công việc: đào đất khoảng 30 nghìn/m3, xây gạch khoảng 100 nghìn/m2, trát là 10 nghìn/m2 v..v…Những người lao động này chỉ một phần rất nhỏ được ký hợp đồng lao động còn lại phần lớn là không có hợp đồng lao động hay chỉ kí trong 3 tháng. Có một người lao động đã nói: ” Có những năm chúng tôi kí tới 4 hợp đồng lao động có thời hạn 3 tháng “. Theo khảo sát tại một công ty xây dựng hiện có 914 công nhân thì chỉ có 11 người có hợp đồng lao động. Chính vì vậy mà phần lớn trong những người lao động này không được đóng bảo hiểm xã hội. Đây chính là thiệt thòi lớn nhất của họ, một khi có ốm đau bệnh tật, tai nạn lao động họ không có bảo hiểm để thanh toán các khoản chi phí hay có bất kì một hộ trợ nào. Thông thường, khi xảy ra tai nạn lao động ở các công trường xây dựng thì người chủ thầu sẽ cho công nhân một khoản tiền nhỏ gọi là hỗ trợ sau đó không có thêm bất cứ một trách nhiệm nào nữa. Trường hợp này đã xảy ra đối với một công nhân chuyển gạch người Thanh Hóa, khi bị gạch trên giàn giáo rơi vào người dẫn tới tử vong thì gia đình người công nhân này chỉ nhận được một khoản tiền là 3 triệu đồng từ chủ công trình bởi mặc dù đã làm cho công trình này được 6 tháng nhưng người lao động này vẫn không có hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, hầu như không có một công ty nào tổ chức được chổ ăn ở cho công nhân. Họ phải thuê ngoài với giá đắt đỏ, với những khu nhà trọ tồi tàn, ẩm thấp, môi trường nước ở những nơi này bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tiền lương ít ỏi, điều kiện sống không đảm bảo trong khi họ phải làm việc từ 10-12 tiếng một ngày, đặc biệt có những công nhân da giày có khi là từ 14-16 tiếng mà không biết đến bất kì một khái niệm nào là chế độ làm thêm giờ hay lương làm thêm giờ như quy định của nhà nước. Bên cạnh đó có những trường hợp người lao động Việt Nam làm việc cho công ty có vốn đầu tư nước ngoài bị xúc phạm đến thân thể và nhân cách. Cách đây vài năm có một công ty may tại Bình Dương đã xảy ra vụ bắt người lao động quỳ dưới nắng. Tình trạng trên không chỉ tồn tại ở các công ty tư nhân, ở các công ty liên doanh với nước ngoài mà thậm chí trong doanh nghiệp nhà nước cũng xảy ra. Liệu có thể khẳng định rằng: Nguồn lao động sơ cấp ở Việt Nam đang bị sử dụng theo kiểu ”Vắt chanh bỏ vỏ” hay không?
3.2. Nguồn lao động trung cấp vừa thiếu lại vừa thừa.
Nguồn lao động trung cấp là những người lao động đã được đào tạo cao đẳng, đại học và trên đại học nhưng chưa đạt đến trình độ ngành nghề và kĩ năng làm việc ở trình độ cao. Đây là nguồn nhân lực quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Tình đến năm 2005, tỷ lệ người lao động đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học ở nước ta là 5,27%. Đặc điểm của nguồn lao động này là có trình độ học vấn, có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo, dễ dàng tiếp thu khoa học công nghệ.
Hàng năm, chỉ tính riêng ở Hà Nội cũng có khoảng 25 nghìn sinh viên ra trường bổ sung vào lượng lực lao động của đất nước. Thế nhưng sinh viên ra trường có đến 40% làm trái ngành, trái nghề. Tỷ lệ thất nghiệp chung trong cả nước là 2,09%, riêng khu vực thành thị là 5,31%. Tại sao lại có hiện tượng này? Có nhiều ý kiến cho rằng, lực lượng lao động của nước ta hàng năm có tăng về số lượng nhưng chất lượng lại không tăng nên xảy ra hiện tượng nguồn nhân lực dồi dào, nhiều người thất nghiệp trong khi các doanh nghiệp vẫn kêu thiếu.Theo anh Lữ Thành Long- Giám đốc công ty cổ phần Misa, các bạn sinh viên mới ra trường kinh nghiệm đã ít mà trình độ chuyên môn lại quá yếu không đáp ứng được yêu cầu của công việc, có những bạn ra trường với tấm bằng khá, giỏi trong tay như khi bảo đánh một thông báo mà các bạn còn sai về quy cách, kĩ năng giao tiếp lại kém mà chúng tôi lại không muốn nhận “những chú gà công nghiệp”. Việc người lao động không đáp ứng được yêu cầu của công việc theo anh Long là do: Hiện giờ đang có hiện tượng chạy theo bằng cấp mà chưa chú trọng học cho mình lấy một cái nghề cho giỏi, cho tốt. Đúng là khi mà nhìn vào hồ sơ của các ứng viên khi tuyển dụng các nhà tuyển dụng đều thấy hồ sơ của ai cũng chứng chỉ tiếng anh loại A, B chứng chỉ tin học loại khá giỏi nhưng khi kiểm tra thì không giao tiếp được, Word Excel thì không thành thạo. Nhiều nhà tuyển dụng từng nói rằng: mất lòng tin vào ứng viên của mình. Có một câu chuyện do anh Phùng Thanh Giang hiện là Giám đốc trung tâm marketing sáng tạo của Công ty cổ phần phát triển trí tuệ Việt Nam kể: Khi tham gia phỏng vấn để vào chức vụ này anh cùng với một ứng viên nữa đã lọt được vào vòng trong. Trong hố sơ của anh trình độ tiếng anh, anh để trống còn của ứng viên kia ghi là trình độ B. Giám đốc công ty đã trực tiếp phỏng vấn, anh đã được chọn. Sau này ông có nói: ” Tôi chọn anh bởi vì tôi cần một nhân viên trung thực, dám chấp nhận điểm yếu của mình để mà khắc phục ”. Đây cũng là bài học cho những bạn sinh viên sắp ra trường nhưng cũng phải thấy rằng hiện nay sinh viên- những chủ nhân kinh tế thời kì hội nhập, thời đại công nghệ thông tin mà những kiến thức tối thiểu về ngoại ngữ và tin học đều yếu.
Có một thực tế là các bạn sinh viên sau 4-5 năm học ra trường với mức lương khởi điểm có hệ số bằng 2,14 lương tối thiểu cộng với một số các khoản khác nữa thì được trong khoảng 900.000 vnd - 1.000.000 vnđ, tại một số công tư tư nhân hay cổ phần thì trong khoảng 1.200.000 vnđ - 1.500.000 vnđ cộng với thời gian thử việc từ 3-6 tháng và thường được thưởng 75% - 85% lương trong thời gian này thì chỉ cần tình toán một chút sẽ thấy ngay rằng sinh viên ra trường đi làm còn nghèo hơn cả khi còn sinh viên. Nhiều sinh viên giỏi ra trường không làm việc cho nhà nước hay các công ty trong nước mà làm việc cho các công ty liên doanh với nước ngoài lí do rất đơn giản là nhìn mặt bằng chung lương của các công ty trong nước thấp hơn so với các công ty nước ngoài từ 30%-50%. Còn đối với lực lượng lao động có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư, lại là lực lượng xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám” nhiều nhất. Rất nhiều nghiên cứu sinh sau khi được cử ra nước ngoài học tập, nghiên cứu khi hết thời hạn đã không về nước mà chấp nhận một khoản đền bù không nhỏ. Đi tìm lời giải cho vấn đề này ta thấy:
- Khi về nước họ không có đủ những điều kiện để phát huy hết khả năng.
Nhìn chung tiền lương và chế độ đãi ngộ người tài ở Việt Nam thấp hơn các nước phát triển.
Với những nguyên nhân trên đã làm nản lòng không ít những nhân tài người Việt. Có một giáo sư đang làm việc và sinh sống bên Anh cho biết: Không phải tôi không yêu nước, không muốn về Việt Nam làm việc. Nhưng ở Việt Nam không có đủ những điều kiện để tôi có thể phát huy hết những gì đã được học.
Ta nhận thấy rằng, tổng nhu cầu việc làm trong nền kinh tế quốc dân và trong từng khu vực không ngừng tăng lên, kèm theo đó là những thay đổi tiến bộ trong cơ cấu việc làm cũng như phân bổ lao động theo ngành. Cung về việc làm cho lao động Việt Nam là rất lớn, liệu người lao động có đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu đó hay không?
3.3. Nguồn lao động cao cấp rất kham hiếm.
Nguồn lao động cao cấp là những người lao động có bằng đại học trở lên, có trình độ ngành nghề cao, chuyên môn giỏi, kĩ năng tốt có khả năng đảm nhiệm được những chức vụ quan trọng trong công ty: giám đốc, chuyên gia tài chính, ngân hàng, kinh doanh marketing, kỹ thuật…
Các chuyên gia tài chính và giám đốc các doanh nghiệp khi tham gia hội thảo ”Thực trạng và giải pháp về nguồn nhân lực cao cấp cho doanh nghiệp Việt Nam” được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh vào tháng 10 năm 2005 đều nhận định: Lao động chất xám ở Việt Nam đang khan hiếm một cách trầm trọng.
Trong quá trình hội nhập hiện nay, các công ty không tìm kiến những người lao động chung chung, mà đi tìm những người lao động với trình độ ngành nghề và kĩ năng làm việc hiệu quả. Một Chủ tịch Hội đồng quản trị của một công ty đa quốc gia cho biết: “Khó khăn lớn nhất khiến cộng đồng doanh nghiệp lên tiếng hiện nay là doanh nghiệp không thể tuyển được người giỏi, không thể tuyển được lao động có chất xám vì… không có để mà tuyển. Nhiều doanh nghiệp đã đưa đến mức lương sau thuế từ 1.500 USD/tháng trở lên, thậm chí đạt đến mức 5.000 USD – 10.000 USD/tháng cùng hàng loạt ưu đãi, phúc lợi để chiêu dụ nhân tài song cũng chưa hẳn tìm được người. Thị trường lao động đang khan hiếm tất cả các loại giám đốc, chuyên gia trên mọi lĩnh vực. Thậm chí, những người giỏi nhất về marketing trên thị trường hiện nay “cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay””. Để khắc phục sự thiếu thụt này, nhiều công ty nước ngoài đã phải chọn một giải pháp tốn kém là đưa người từ nước sang đảm nhiệm những vị trí cao này. Một ví dụ điểm hình là tại Nhà máy xi măng Nghi Sơn – Thanh Hóa, do không tìm được người bản xứ có khả năng đáp ứng được yêu cầu nên những vị trí chủ chốt này đều do người Nhật nắm giữ, mà tổng quỹ tiền lương của 20 người Nhật tại đây bằng tổng quỹ tiền lương của gần 2.000 người Việt Nam làm việc trong công ty. Có thể nói: những vị trí cao như vậy, nhiều công ty phải giành giật nhau để có được người tốt nhất. Để đáp ứng nhu cầu này của các doanh nghiệp, một dạng trung tâm tư vấn việc làm mới đang nổi lên đó là: các công ty “Săn đầu người”. Đây là một dịch vụ mà khi người sử dụng lao động cần một ứng viên có trình độ cao cho công ty của mình (người đó có thể đã “nhắm” được một ai đó), họ nhờ các công ty “Săn đầu người” này tìm kiếm, thuyết phục cho họ. Một “thợ săn” cho biết: Để có được những ứng viên sáng giá họ phải đeo bám có khi cả năm mới có thể thuyết phục được.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó vụ trưởng Vụ quan hệ quốc tế (Bộ lao động- Thương binh- Xã hội) trả lời phỏng vấn của tạp chí “Thời bào kinh tế”: Mặc dù, không có điều khoản nào của WTO yêu cầu chúng ta phải mở cửa thị trường lao động, song sẽ có một dòng chảy lớn lao động nước ngoài vào thị trường nước ta từ các gói dịch vụ cho nước ngoài cung cấp. Đấy cũng là một thách thức đối với lao động trong nước.
Tóm lại, nguồn lao động Việt Nam có quy mô lớn và tốc độ tăng hàng năm khá cao nhưng chất lượng thay đổi chậm theo hướng tăng lên. Trong đó, số lượng lớn lao động sơ cấp đang đẩy tiền công có xu hướng ngày càng thấp và đặt gánh nặng giải quyết việc làm lên các cơ quan chức năng. Nguồn lao động trung cấp vừa thừa lại vừa thiếu. Còn nguồn lao động cao cấp lại quá khan hiếm.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng của nguồn nhân lực.
4.1. Giáo dục và đào tạo.
Việt Nam được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đánh giá là nước có những thành tựa đáng kể về giáo dục và đào tạo so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương với hoàn toàn có khả năng đạt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015.
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp ở nhiều vùng miền với nhiều loại hình trường học với số lượng học sinh ngày càng tăng: Năm học 2004-2005, cả nước có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học tại 37000 cơ sở giáo dục – đào tạo. Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cao. Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, các dự án ODA trong giáo dục và đào tạo cũng góp phần cho giáo dục cơ bản phát triển , nguồn vốn được triển khai hàng năm lên tới hàng trăm triệu USD. Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt “Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn” với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Dự án đã được triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40 tỉnh trong cả nước với gần 15000 trường học. Đồng thời với mục tiêu trọng tâm là dạy nghề cho lực lượng lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống các trường đào tạo nghề sẽ được đàu tư nâng cấp dần lên ngang tầm với khu vực và quốc tế. Dự kiến sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10 trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn này.
Bên cạnh đó, nhà nước đã thực hiện nhiều chình sách công bằng trong giáo dục đặc biệt là với trẻ em miền núi để ngày càng giảm khoảng cách về trình độ dân trí giữa đồng bằng và miền núi, đồng thời nâng cao trình độ dân trí trong cả nước. Nhiều vùng sâu vùng xa được xây dựng trường lớp kiên cố, hệ thống các trường đan tộc nội trú, bán trú được củng cố mở rộng với 13 trường trung ương, 50 trường tỉnh, 266 trường huyện và 519 trường bán trú cụm xã. Đến năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ. Năm 2005, tỉ lệ mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 17,1 %, tốt nghiệp tiểu học là 29,09%, tốt nghiệp trung học cơ sở là 32,58%, tốt nghiệp phổ thông trung học là 21,22%. Theo số liêụ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, các chỉ tiêu tương ứng là 18,56%, 28,33%, 35,82%, 15,28%.
Đối với giáo dục và đào tạo nghề, quy mô và mạng lưới đào tạo nghề ngày càng phát triển. Năm 1998, cả nước có khoảng 129 trường dạy nghề thì đến nay đã lên tới 233 trường. Ngoài ra trong cả nước còn có 404 trung tâm dạy nghề, 212 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề và 839 cơ sở dạy nghề khác. Mạng lưới dạy nghề ở nước ta khá đa dạng bao gồm: các trường các bộ, nghành, quân đội, doanh nghiệp, công lập, dân lập, tư thục. Cùng với đó là só lượng học viên học ghề cũng tăng nhanh. Năm 1998 là 525600 học viên thì đến năm 2004 lên đến trên 1,1 triệu. Học viên học nghề sau khi ra trường đang từng bước đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tỷ lệ học viên sau khi ra trường có việc làm chiếm trên 70%. Một số nghành ký thuật cao như điện tử, bưu chính - viễn thông, dầu khí, trình độ học viên sau khi ra trường tương đương với khu vực và có thể dần thay thế được lao động nước ngoài.
Tuy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng công tác đào tạo nghề vẫn còn nhiều khó khăn bất cập. Đó là sự phân bố không đều các trường dạy nghề ở các vùng miền. Tỷ lệ học viên theo học nghề dài hạn còn thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn quá thấp so với yêu cầu của thị trường.
Ngoài ra trong hoạt động giáo dục đại học cũng còn nhiều hạn chế. Cơ cấu trình độ ngành nghề chưa theo kịp với xã hội. Các ngành nghề trong các lĩnh vực kinh tế, luật thì chiếm tỷ trọng lớn hơn các ngành kĩ thuật, công nghệ và xã hội nhân văn. Các ngành công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, môi trường và các ngành mũi nhọn khác chưa được đào tạo cơ bản. Mặt khác, ngành nghề đào tạo còn mang tính tự phát của người học hơn là định hướng cơ cấu đào tạo. Chỉ tiêu đào tạo của các trường chủ yếu là theo kinh nghiệm, chưa xuất phát từ nguồn lực của các cơ sở đào tạo và dự báo tương lai về nhu cầu và cơ cấu thị trường. Do không dự báo được nhu cầu và cơ cấu thị trường lao động nên việc đào tạo chưa sát với nhu cầu thực tế. Ví như: trong những năm gần đây thị trường chứng khoán diễn ra rất mạnh mẽ ở nước ta nhưng nguồn nhân lực được đào tạo về thị trường chứng khoán ở Việt Nam không đủ để đáp ứng. Hiện nay nước ta chưa có một trường đại học nào đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là nỗi lo của toàn xã hội trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu. Chất lượng đào tạo đại học của nước ta chưa theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới nên khoảng cách tụt hậu của ta ngày càng lớn.
4.2. Y tế.
Những năm qua, sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế, trong đó có y tế cơ sở ngày càng được quan tâm đầu tư, củng cố và phát triển, đến nay hơn 65% số xã trong cả nước có bác sĩ công tác.
Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng đa dạng, các kỹ thuật tiên tiến ngày càng được ứng dụng vào điều trị nên số người được chữa khỏi các bệnh hiểm nghèo ngày càng tăng. Các ca phẩu thuật yêu cầu kỹ thuật cao như ghép thuận, ghép giác mạc, ghép tim, ghép gan đã thành công ở nhiều bệnh viện. Ngành y tế đã có rất nhiều các chính sách biện pháp để “giảm tỷ lệ các bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực”, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng thời từ trung ương đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân. Vì vậy, tuổi thọ trung bình của người dân nước ta đạt tới 71 tuổi. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Chúng ta đã khống chế được các dịch bệnh mới nguy hiển như: Sars và cùm A.H5N1 trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên tình trạng quá tải đang còn xảy ra ở nhiều bệnh viện như: Bạch Mai, bệnh viên C, Chợ Rẫy…
4.3. Tác phong công nghiệp và tính kỷ luật của người lao động.
Đại bộ phận người lao động hiện nay của nước ta còn chưa được đào tạo về kĩ thuật lao động công nghiệp. Phần lớn trong só họ là lao động xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn, còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền kinh tế tiểu nông, tùy tiện về hành vi và giờ giấc và tình ì rất lớn. Người lao động ở nước ta chưa được trang bị các kiến thức, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác, gánh chịu rủi ro và khả năng sáng tạo trong công việc ở người Việt không cao. Thực tế là ở trong các khu công nghiệp đặc biệt là các khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì người lao động của ta bị phạt rất nhiều do vi phạm kỷ luật lao động. Khi làm việc với những ông chủ người nước ngoài mà nhất là những ông chủ người Nhật thì người lao động của ta phải chịu áp lực rất lớn về thời gian, về cường độ làm việc.Tuy nhiên, phải nói rằng xét về ý thức công dân, ý thức chấp hành luật pháp thì đang có những chuyển biến rõ rệt. Người lao động Việt Nam có ý thức phấn đấu vươn lên trong lao động ham học hỏi, phát huy sáng kiến trong lao động, biết làm giàu cho mình và làm giàu cho xã hội đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Bên cạnh đó, người lao động Việt Nam còn khá nhạy bén với những thay đổi, họ tiếp thu những văn minh, văn hóa của các nước phát triển của nhân loại. Từ đó, người lao động của nước ta đang hình thành một nhân cách mới.
4.4. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực.
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ trương lấy phát triển nguồn nhân lực, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ là ba khâu đột phá đua đát nước vào thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, nhà nước ta đã có chiến lược dân số năm 2001 – 2010 nhằm nâng cao chất lượng dân số. Ngày 9/1/2003 chủ tịch nước đã kí lệnh công bố pháp lệnh dân số. Nội dung của pháp lệnh này là quy định cụ thể phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc công tác dân số, trách nhiệm, quyền lợi của cá nhân, của các cặp vợ chồng, đoàn thể trong vấn đề dân số. Pháp lệnh dân số được coi là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa các hoạt động trong lĩnh vực dân số. Nhờ có những chủ trương, chính sách, đường lối đúng đắn trong hoạt động dân số mà đã có nhưng tác động tích cực đến dân số nói chung và phát triển nguồn nhân lực nói riêng.
4.5. Các chính sách về kế hoạch hóa gia đình, tăng cường chất lượng sinh sản.
Với chính sách “Mỗi gia đình chỉ có từ 1- 2 con để nuôi dạy cho tốt” mà nước ta mới có thể kiểm soát được mức tăng dân số và lao động hàng năm. Khi sinh ít con hơn sẽ giảm bớt gánh nặng cho cả gia đình, nhà trường và xã hội, đứa trẻ sẽ được chăm sóc tốt hơn về mọi mặt. Hiện nay, mặc dù là nước có dân số trẻ nhưng chúng ta đã đạt được mức sinh thay thế, ổn định nguồn lao động trong những năm gần đây. Việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em và chăm sóc sức khỏe cộng động được tiến hành ngày càng tốt. Thông qua các chương trình giáo dục giới tính, sức khỏe vị thành niên…đã trang bị những kiến thức cần thiết cho học sinh, sinh viên. Bên cạnh đó, những chương trình tuyên truyền và phổ cập kiến thức về các bệnh lây nhiễm, các bệnh xã hội, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường tình dục đã giúp sinh viên hiểu biết rất nhiều. Từ đó sức khỏe bà mẹ cũng được nâng cao. Tuy nhiên, việc tuyên truyên này mới chỉ được thực hiện trên quy mô nhỏ, cộng với hiểu biết của các bạn thanh niên còn hạn chế nên tình trạng nạo phá thai còn cao, các bệnh xã hội tốc độ lây nhiễm cao mà đặc biệt là nạn dịch HIV/AIDS. Điều nay sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.
4.6. Các yếu tố về thị trường lao động.
Trong thời gian qua lao động ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Nhờ những chính sách của Đảng và nhà nước mà việc tìm kiến việc làm cũng như thuê người lao động đã được diễn ra một cách thuận lợi hơn.
Cung về lao động ở ciệt Nam có xu hướng tăng nhanh. Hàng năm tăng khoảng 2%, bên cạnh đó Việt Nam có một nguồn lao động trẻ (15 – 35 tuổi chiếm tỷ lệ cao). Đây là một lợi thế của lao động nước ta, với nguồn lao động trẻ này, ta có thể dễ dàng đào tạo, nâng cao trình độ đáp ứng những đòi hỏi của thị trường lao động. Song lao động của nước ta lại tập trung chủ yếu ở nông thôn, nông thôn chiếm tới 75% gấp 3 lần lao động ở thành thị. Điều này có nghĩa là tạo việc làm để thu hút lao động nhàn rỗi ở nông thôn đang là vấn đề bức xúc của nước ta.
Cầu lao động ở nước ta tăng chậm, đặc biệt là cầu về lao động phổ thông. Tuy nhiên về lao động có chất xám cao lại có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Ngoài ra, trong các doanh nghiệp các tổ chức công đoàn đã góp phần quan trọng trong việc bảo về quyền lợi của người lao động và giải quyết tranh chấp giữa người lao động và chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, tổ chức công đoàn hoạt động chưa thực sự hiệu quả ở các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, đặc biệt là trong các doanh nghệp có vồn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy mà nhiều mâu thuẫn giữa chủ doanh nghiệp và người lao động chưa được giải quyết kịp thời, tình trạng lãm công, bãi công, đình công còn diễn ra ở nhiều nơi. Cùng với đó là các cuộc đình công không hợp pháp còn nhiều do không thỏa mãn những điều kiện của một cuộc đình công hợp pháp như quy đình của luật lao động. Điều này, vừa làm giảm nâng suất lao động, vừa làm mất hình ảnh đẹp về người lao động Việt Nam trong mắt những nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, những thiếu hụt của nguồn lao động hiện nay đang và sẽ là trở ngại lớn nhất trên con đường hội nhập, phát triển của Việt Nam. Nhân tố con người càng quan trọng bao nhiêu thì sự thiếu hụt của nó càng để lại hậu quả to lớn bất nhiêu. Nếu không khắc phục được những yếu kém này thì nền kinh tế chỉ phát triển rầm rộ lúc ban đầu, về sau không thể phát triển bền vững được. Một nguồn nhân lực yếu kém ban đầu sẽ là rào cản sự phát triển của các nguồn lực khác sau này và nền kinh tế sẽ không tránh khỏi tình trạng trì trệ.
Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết, đang được các cấp các ngành, các cơ quan liên quan thảo luận và thực hiện.
5. Một số kiến nghị về giải pháp cho nguồn lao động Việt Na
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31889.doc