Đề tài Giải pháp cho việc tạo, huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

 

Lời mở đầu 1

Chương I: Những vấn đề lý lụân chung về đầu tư và đầu tư phát triển 2

I- Các khái niệm và bản chất của đầu tư và vốn đầu tư. 2

1. Các khái niệm và bản chất của đầu tư 2

1.1. Khái niệm. 2

1.2. Bản chất đầu tư. 2

2. Nguồn vốn đầu tư 2

2.1. Khái niệm 2

2.2. Bản chất nguồn vốn đầu tư 2

II. Một số lý thuyết chính về đầu tư 4

1. Lý thuyết về đầu tư và tăng trưởng kinh tế 4

2. Lý thuyết của Keynes về đầu tư 6

3. Các lý thuyết khác về đầu tư. 7

3.1. Lí Thuyết gia tốc đầu tư ( the accelerator theory of investment) 7

3.2. Lí thuyết đầu tư nội bộ (the internal funds theory of investment) 8

3.3. Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư (the neoclassical theory of investment) 9

3.4. Lý thuyết q về đầu tư . 9

Chương II - Ý nghĩa vận dụng các lý thuyết này trong việc tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta 10

I - Thực trạng tạo huy động và sử dụng vốn đầu tư 10

1. Vốn đầu tư xã hội - nhu cầu nguồn vốn , huy động và sử dụng 10

1.1 . Vốn đầu tư xã hội. 10

1.2. Nhu cầu vốn lớn 10

1.3. Nguồn ,huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển 11

2. Tình hình tạo, huy động và sử dụng vốn ở nước ta. 11

2.1. Đối với nguồn vốn trong nước Error! Bookmark not defined.

2.2 Đối với nguồn vốn từ nước ngoài. 17

II- Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển ở nước ta. 24

1. Nguồn vốn trong nước. 24

1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. 24

1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. 27

1.3. Thị trường vốn. 28

2. Nguồn vốn nước ngoài. 29

2.1. Nguồn vốn ODA. 29

2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. 30

2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). 30

2.4. Thị trường vốn quốc tế. 31

Phần III: Giải pháp cho việc tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta . 33

1. Điều kiện tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả. 33

1.1. Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế: 33

1.2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: 34

1.3. Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả 36

2. Giải pháp cho việc tạo , huy động sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả . 37

2.1. Đối với nguồn vốn trong nước 37

2.2. Đối với nguồn vốn nước ngoài 40

3. Chiến lược phát triển kinh tế những năm tới 42

 

Kết luận 43

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cho việc tạo, huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan điểm sản lượng đầu ra ảnh hưởng đến đầu tư của lí thuyết này có điểm giống với lí thuyết p về đầu tư + Về giá cả dịch vụ vốn đầu tư nếu xét ở khía cạnh nguồn vốn ODA (Không xét đến khía cạnh vốn nội bộ ) như là lãi xuất hay chính sách thuế thu nhập của doanh nghiệp nó ảnh hưởng đến đầu tư như sau : nếu thuế thu nhập cao sẽ ảnh hưởng đến phần thu được của doanh nghiệp như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanhvà đánh giá năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp như vậy sẽ làm mất lòng tin trong các nhà đầu tư. ở Việt nam tuỳ vào loại hình doanh nghiệp mà có mức thuế xuất thuế thu nhập phù hợp khác nhau , như vậy tạo được cơ sở tốt để huy động vốn ODA. *) Lí thuyết của KEYNES về đầu tư đề cập đến hiệu quả cận biên của vốn đầu tư , nó phụ thuộc vào tỷ xuất thu lợi dự kiến của số tiền đầu tư mới. Tăng đầu tư thì hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn giảm sút , mà vốn đầu tư phụ thuộc vào lãi xuất vì vậy các nhà đầu tư vẫn cứ tăng vốn đầu tư đến khi nào hiệu quả vốn đầu tư ≤ lãi xuất .Như vậy để khích thích đầu tư từ nguồn vốn ODA ta thực hiện các biện pháp nhằm tăng dược hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn. ) Khía cạnh sử dụng vốn ODA *) Lí thuyết đầu tư và tăng trưởng kinh tế - ADAM SMITH cho rằng vốn đầu tư quiết định “số lao động hữu dụng và hiệu quả ”.Việc tích tụ vốn đồu tư tạo nên sự gia tăng lực lượng lao động ,sự phân công lao động rộng rãi và làm tăng tổng sản lượng - NURKSE cho rằng vốn đầu tư tác động đến tình trạng nghào đói + Phía cung : thu nhập thấp tạo ra khả năng tích luỹ thấp nên thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất thấp và lại tạo nên thu nhập thấp + Phía cầu : thu nhập thấp tạo ra sức mua thấp dẫn đến động lực tăng vốn đầu tư không có ,động lực tăng vốn đầu tư không có lại tạo ra thu nhập thấp - HARROD_DOMAR cho rằng tích tụ vốn đầu tư là chìa khoá cho tăng trưởng. - ARTHULEWIS cho rằng tăng tư bản vốn dẫn tới tăng lợi nhuận và tăng tích luỹ . *) Lí thuyết của KEYNES về đầu tư cho rằng vốn đầu tư gia tăng dẫn tới tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và tăng tư liệu sản xuất . Thông qua số nhân đầu tư , vốn đầu tư tăng tạo ra thu nhập tăng dẫn tới đầu tư mới tăng. Hầu hết các lí thuyết đều thể hiện một mối quan hệ chặt chẽ và ro ràng giữa sự gia tăng của đầu tư và thu nhập của nền kinh tế. Thực trạng cho thấy tình trạng thiếu việc làm, sức mua nhỏ, thu nhập thấp , nhu cầu bổ sung về nhân công nhỏ, trang bị tư liệu sản xuất kém ,công nghệ lạc hậu…một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đángcó hiệu quả hoặc tỉ lệ tích luỹ trênnền kinh tế thấp . Cái vòng luẩn quẩn sẽ luôn tồn tại nếu như không có những biện pháp phá vỡ nó .Một trong những biện pháp xuất phát từ khía cạnh đầu tư .Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến tăng mức tích luỹ từ thấp lên trung bìnhvà tới mức cao dể tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là tăng thu nhập. Việt nam đã , đang và tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng về nguồn vốn ODA nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế – xã hội , góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói ,giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững. Chính phử Việt nam dự kiến sử dụng các loại hình ODA theo các định hướng sau: - Vốn ODA không hoàn lại : Được ưu tiên sử dụng cho các trương trình , dự án thuộc các lĩnh vực : xoá đói giảm nghèo trức hết tại các vùng nông thôn , vùng sâu .vùng xa , vùng đồng bào dân tộc thiểu số ; ytế , đân số phát triển; giáo dục , phát triển nguồn nhân lực ;các vấn đề xã hội(tạo việc làm,cấp nước sinh hoạt ,phòng chống dịch bệnh,phồng chống các tệ nạn xã hội); bảo vệ môI trường , bảo vệ và phát triển các nguồn tàI nguyên thiên nhiên;nghiên cứu khao học và công nghệ ,nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai ;nghiên cứu cơ bản để chuẩn bị trương trình, dự án đầu tư phát triển(quy hoạch , điều tra cơ bản, tổng quan nghiên cứu khả thi);cảI cách hành chính ;tư pháp, tăng cường năng lưc của cơ quan quản lí Nhà nước ở TRung ương,địa phương và phát triển thể chế… -ODA vốn vay: Được ưu tiên sử dụng cho các chương trình ,dự án thuộc các lĩnh vực : xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn ;giao thông vận tảI , thông tin liên lạc; năng lượng ; cơ sở hạ tầng xã hội(các công trình phúc lợi xã hội,phúc lợi công cộng,ytế gióa dục và đào tạo); hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giảI quyết các vấn đề xã hội(tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo , khắc phục tệ nạn xã hội);hỗ trợ cán cân thanh toán… *) Thành tựu đạt đươc từ việc huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ 1993 đến 2001 Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác phát triển với 25 nhà tài trợ song phương , 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ (NGO). Từ 1993 tới nay ,Viêtj nam đã hợp tác với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ(Hội nghị CG) và được cộng đồng tàI trợ cam kết hỗ trợ nguồn vốn ODA với trị giá là 20.006 tỷ$ .Riêng Hội nghị lần thứ 9 vừa qua vẫn được cam kết hỗ trợ 2356 triệu $. Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, trong thời gian từ 1993 đến tháng 10 năm 2001 , chính phủ Việt nam đã kí kết với các nhà tàI trợ các Điều ứơc Quốc tế cụ thê Về ODA trị giá 14.3 tỷ $ , đạt khoảng 81.5% tổng vốn ODAđã cam kết, trong đó , ODA vốn vay khoảng 12 tỷ $(83.9 %)và ODA vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 2.3 tỷ $ (16.1%) Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá , năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giả ngân hàng năm . Từ 1993 đến hết 2001 vốn ODA giảI ngân khoảng 9.728 tỷ $/17.54 tỷ$ Như vậy nguồn vốn ODA đã giảI ngân đạt khoảng 55.5% so với tổng nguồn vốn ODA dẫ cam kết.. Nguồn vốn ODA đã đươc tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế –xã hội đó là : năng lượng điện(24%); nghành giao thông(27%); phát triển nông nghiệp,nông thôn bao gồm cả thuỷ sản ,lâm nghiệp,thuỷ lợi(12.74%); cấp thoát nước (7.8%); các nghành y tế –xã hội,giáo dục đào tạo,khoa học công nghệ môI trường()11.87% Biểu: Cam kết và thực hiện ODA Thời kỳ 1993-2001 Đơn vị: triệu $ Năm Cam kết ODA Thực hiện ODA Tổng số 20.006 9.728 1993 1.810 413 1994 1.940 725 1995 2.260 737 1996 2.430 900 1997 2.400 1.000 1998 2.200* 1.242 1999 2.210** 1.350 2000 2.400 1.650 2001 2.356 1.711 Ghi chú : (*) chưa kể 0.5$ tỷ $ dự định hỗ trợ cảI cách kinh tế (*) chưa kể 0.7$ tỷ $ dự định hỗ trợ cảI cách kinh tế . 2.2.2 Vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Tỷ trọng nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng tăng dần. Nếu thời ky 1991-1995, tỷ trọng này mới chỉ đạt 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì thời kỳ 1996-1997 đạt gần 12,% bằng 3,4%GDP như vậy, nếu so với chỉ tiêu phấn đấu trong giai đoạn 1996 –2000 nguồn vốn tín dụng đạt 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và đến năm 2000 đạt 7% GDP, đòi hỏi phải có những biện pháp chính sách huy động vốn hợp lý và chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phù hợp mới có khả năng đảm bảo được nguồn vốn này. Vốn tín dụng bao gồm cả nguồn vốn ưu đãi (ODA) và tín dụng thương mại. Đối với nguồn vốn tín dụng ưu đãi, tình hình giải ngân hiện nay còn tương đối chậm. Đối với tín dụng thương mại, cần dỡ bỏ dần những trở ngại trong công tác huy động vốn, lựa chọn dự án đầu tư cho vay. Việc thống nhất quản lý các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để quản lý và cho vay có hiệu quả. 2.2.3 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kể từ khi Nhà nước ta ban hành luật ĐTNN (1987) đến nay, sau hơn 10 năm dòng ĐTNN vào Việt Nam đặc biệt sôi động. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (VĐTTTNN) thật sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần bổ sung vốn cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các tiềm lực trong nước. Nguồn vốn này trong giai đoạn vừa qua có xu hướng tăng nhanh từ 12,5% trong tổng VĐTXH thời kỳ 1986-1990 lên 29,1% thời kỳ 1991-1995 và 36,2% thời kỳ 1996-1997. Ngồn vốn này chủ yếu bao gồm tiền mặt (76,7%) phần còn lại bao gồm thiết bị (15,4%) và các dịch vụ khác. Tính từ năm 1988 cho đến hết năm 2000 trên phạm vi cả nước đã có 3251 dự án đước cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 44.587 triệu USD. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư. Nguồn vốn FDI thực sự là cứu cánh cho nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua. Nó góp phần đáng kể làm tăng trưởng kinh tế. VDT FDI đóng góp vào GDP qua các năm có xu hướng tang dần. Năm 1996 là 7,9% và đến năm 1999 là 10, 3% tào ra 25% giá trị sản lượng ngành công nghiệp, thu hút hơn 25vạn lao động trực tiếp và hoạt động trên nhiều lĩnh vựckinh tế khác nhau như khai thác dầu khí, sắt thép, xi măng, điện tử, ô tô xe máy, viễn thông khách sạn, công nghiệp. Đồng thời vốn FDI vào Việt Nam làm cho công nghệ Việt Nam dược cải thiện hơn 60% trong tổng số voón FDI vào Việt Nam những năm qua được dòng đầu tư cho máy móc thiết bị và bí quyết kĩ thuật. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí công nghệ của Nước ngoài chuyển giao qua các dự án được đánh giá là tiên tiến, tương đương với công nghệ đang áp dụng của nhiều nước trên thế giới. Loại trừ một số trường hợp cá biệt, công nghệ áp dụng trong nhiều dự án, các lĩnh vực khác cũng được các chuyên gia đánh giá là tiên tiến hơn công nghệ hiện ở Việt Nam, tương đương công nghệ trung bình ở các nước trong khu vực ĐTTT của nước ngoài cũng là một kênh chuyển giao nghiệp vụ quản lý và tác động tích cực đối với việc tạo ra một phong cách mới trong quản lý sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam. Những yếu tố đó đã góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và tổng sản lương trong nền kinh tế gia tăng. Làm cho tăng trưởng kinh tế tăng đáng kể. Mặt khác, hoạt động ĐTTTNN đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân như công nghiệp dầu khí, công nghiệp sản xuất ô tô, xe gắn máy… cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của ccs ngành công nghiệp, nhiều dự án ĐTTNNN đã tạo ra sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ví dụ như năm 1998 kim nghạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI đạt gần 2 tỷ USD ( không kể dầu khí) tăng 11,7% so với năm 1997. Trong khi đó mức tăng xuất khẩu của cả nước chỉ tăng chỉ tăng 98% so với năm 1997. Hơn nữa doanh thu của các dự án FDI năm 1998 đạt 3 tỷ USD, tăng 27,7% so với năm 1997. Mức đóng góp ngân sách của các dự án FDI cũng tăng 1,6% so với 1997. Đạt 320 triệu USD. Xuất khẩu tăng, NSNN tăng… làm cho tổng cầu tăng, sản lượng đầu ta tăng mà sản lượng đầu ta là yếu tố quyết định mức đầu tư. (theo lý thuyết gia tốc đầu tư). Bên cạnh những thành tựu đã đạt được. FDI còn một số mặt hạn chế còn phải vươt qua như là: sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà ĐTNN đối với sản xuất trong nước, như gian lận của một số nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng sản xuất kinh doanh, nhập khẩu máy móc thiết bị, những căng thẳng trong quan hệ lao động ở các xí nghiệp có VĐTNN … Một số nhà ĐTNN vẫn chưa hết than phiền về tình trạng yếu kém của chính cơ sở hạ tâng- kinh tế xã hội, môi trường đầu tư kém dần tính cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực… Thiết nghĩ cần có một sự nhìn nhận khách quan về những nhận định cả về bên trong lẫn bên ngoài, để có những biện pháp hữu hiệu. Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã có những cải thiện đáng kể trong việc cải thiện môi trương đầu tư như sửa đổi NĐ hướng dẫn thực hiện luật ĐTTNN vào Việt Nam, phân cấp quản lý và cấp giấy phép đầu tư theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và nhanh chóng, gia hạn, miễn thuế vật tư xây dung hình thành tài sản cố định của dự án, chính phủ trực tiếp gặp các nhà đầu tư… Tuy nhiên, cơ chế vận hành đòi hỏi phải linh hoạt, năng động hơn, đảm bảo lòng tin của nhà ĐTNN trong việc làm ăn lâu dài với chúng ta. Nguồn FDI là nguồn vốn rất năng động và dễ bị tổn thương. Nếu nền kinh tế chúng ta dựa hẳn vào nguồn vốn này thì sự phát triển kinh tế sẽ mang nhiều tính rủi ro, bấp bênh không chủ động do phải chịu ảnh hương rất lớn vào các điều kiện kinh tế bên ngoài. Do vậy, việc hướng trọng tâm vào việc huy động và phát huy hiệu quả nguồn vốn trong nước là hướng mục tiêu cơ bản đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. 2.2.4 Thị trường vốn quốc tế. Với xu hướng phát triển toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho những quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Tính từ đầu những năm 70 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Vốn đầu tư trực tiếp của các nước thuộc nhóm G7 chỉ tăng 30 lần trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỉ 90, khối lượng cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng ngàn tỉ USD. Ngay tại nhiều nước đang phát triển dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ mặc dù vào nửa cuối những năm 90 có sự xuất hiện một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối những năm 99 khối lượngười giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể. Riêng năm 99, dòng vôn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào châu á đã tăng gấp 3 lần năm 98 đạt 15 tỉ USD. Việt Nam nên huy động nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam. Vì vây, trong những năm qua nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế chưa phải là nguồn đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần đáng kể làm tăng trưởng kinh tế. Nhưng để phát triển kinh tế thì chúng ta cần khơi thông và tạo điều kiện cho nguồn này đi vào hoạt động. II- Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển ở nước ta. 1. Nguồn vốn trong nước. 1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là một chỉ tiêu quan trọng, đóng vai trò quyết định, trong việc phát triển và tăng trưởng kinh tế đất nước: Nhất là đối với nước ta đang từ một nước có cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp với một nền kinh tế kém phát triển năng suất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa được nâng cao do lịch sử để lại. Nay chuyển sang cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, cả nước đang bước vào thời kỳ đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì việc tăng cường các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội lại càng có một vị trí hết sức then chốt. Vì thế mà Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thực hiện huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển ở trong nước cũng như nước ngoài. Nhờ đó, từ năm 1995 đến năm 2000, thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (tính theo giá so sánh năm 1994) ngày một tăng cao. Từ 60,75 ngàn tỷ đồng năm 1995 lên 67,49 ngàn tỷ đồng năm 1996, 79,20 ngàn tỷ đồng năm 1997, 75,58 ngàn tỷ đồng năm 1998, 80,90 ngàn tỷ đồng năm 1999 và ước tính 91,80 ngàn tỷ đồng năm 2000. Có thể nói, kết quả thực hiện huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 nhìn chung liên tục tăng với tốc độ cao, trừ năm 1998 có giảm chút ít so với năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực. Nếu so với 1995, năm 1996 tăng 11,1%, 1997 tăng 30,4%, 1998 tăng 24,4%; 1999 tăng 31,8% và năm 2000 ước tính tăng 48,1%. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện của cả giai đoạn 1996 - 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với cả giai đoạn 1991 - 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6%/năm. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 đã tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của đất nước như phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ v.v.. Nhờ tăng vốn đầu tư, mà số lượng công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cũng như năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đều được nâng lên, tạo ra một số năng lực sản xuất mới, là cơ sở thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn sau, giai đoạn 2001 - 2005. Thật vậy, 5 năm qua cả nước đã làm mới được 1.200 km và nâng cấp 3.790 km đường quốc lộ, làm mới 115.000 mét cầu đường bộ, nâng cấp 200 km đường sắt, mở rộng cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy nhơn v.v.. Nâng cấp các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng. Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển khá, tất cả các tỉnh, thành và các huyện đều có tổng đài điện tử và qua tuyến cáp quang, vi ba số, mật độ điện thoại đến nay đạt 3,6 máy/100 dân. Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước tăng thêm 82 vạn ha, tiêu úng tăng 43,3 vạn ha. Kết cấu hạ tầng ở các thành phố, đô thị và nông thôn được nâng cấp. Cơ sở vật chất ngành giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, du lịch, thể dục, thể thao và các ngành dịch vụ khác đều được tăng cường. Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thì nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Cụ thể tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn Nhà nước so với năm 1995 như sau: % Vốn Nhà nước Chia ra Vốn ngân sách tập trung Vốn của các DNNN Vốn tín dụng ưu đãi 1996 31 16,1 12,1 157 1997 64 38,8 29,4 279 1998 75 42,3 85,9 190 1999 114 71,5 72,2 428 2000 140 72,4 95,5 574 Trong khi các nguồn vốn thuộc vốn Nhà nước đều có tốc độ tăng nhanh (đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ưu đãi) thì nguồn vốn ngoài quốc doanh qua các năm 1996 - 2000 lại có chiều hướng ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với 1995. Nếu lấy năm 1995 làm gốc so sánh thì năm 1996 giảm 1,1%, năm 1997 giảm 8,4%, năm 1998 giảm 10,9%, năm 1999 giảm 10,5% và ước tính năm 2000 giảm 1,8%. Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong khu vực dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%. Cùng với tình trạng trên, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm sút (trừ năm 1997 so với 1995 tăng 26,1%). Cụ thể so với 1995 năm 1996 giảm 1,7%); 1998 giảm 3,9%; 1999 giảm 25,8%; và ước tính năm 2000 giảm 14,9%. Tuy nhiên, tính chung cho cả giai đoạn 1996 - 2000 so với giai đoạn 1991 - 1995, thì tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vẫn tăng lên 1,67 lần. Trong đó: vốn Nhà nước tăng lên 2,34 lần (vốn ngân sách tăng lên 1,85 lần; vốn tín dụng ưu đãi tăng lên 3,91 lần; vốn các doanh nghiệp Nhà nước tăng lên 2,37 lần); vốn ngoài quốc doanh tăng lên 1,51 lần. Về cơ cấu tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1996 - 2000, chỉ có nguồn vốn Nhà nước là ngày càng tăng, từ tỷ trọng 38,3% năm 1995 lên 61,9% năm 2000. Còn vốn ngoài quốc doanh từ tỷ trọng 29,4% đã giảm xuống còn 19,5%. Và tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm từ 32,3% xuống còn 18,6% trong thời gian tương ứng. Về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thủy sản chiếm trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có xu hướng tăng dần. Năm 1998 là 9,1%, 1999 là 15,6% và ước tính năm 2000 khoảng 15,8%. Điều này phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển liên tục, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 3 đến 4 triệu tấn. Tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp cũng khá lớn. Từ năm 1998 - 2000, bình quân mỗi năm chiếm từ 45% đến 46% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải, bưu điện cũng được chú trọng, giai đoạn 1996 - 2000 vốn đầu tư cho ngành này bình quân hàng năm ở mức 16% đến 17% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nhờ vậy mà kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển mạnh, nhất là hệ thống đường giao thông, cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo nâng cấp hàng chục vạn km đường, 95% số xã có đường ôtô vào đến trung tâm. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt. Những kết quả trên đây đã có tác dụng đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất văn hoá, tinh thần cho nhân dân, tạo môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với việc tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư vào các ngành giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế - xã hội, văn hoá - thể thao nhìn chung đều tăng lên. Cụ thể là: đầu tư cho giáo dục - đào tạo năm 1998 chiếm 2%, 1999: 2,3% và năm 2000 chiếm khoảng 2,5%. Tương ứng với thời gian trên đầu tư cho y tế - xã hội là 1,5%, 1,7% và khoảng 2%; đầu tư cho khoa học - công nghệ: 0,4%, 0,3%, và khoảng 1,4%. Xét theo vùng lãnh thổ, đầu tư giai đoạn 1996 - 2000 tương đối hợp lý, do đó góp phần từng bước khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa các vùng. Có thể nói thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 đã đem lại nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội, tạo đà cho đất nước tiến vào con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cần sớm được khắc phục đó là: - Tỷ lệ huy động vốn đầu tư còn thấp so với tiềm năng và khả năng về vốn của nền kinh tế. Đặc biệt là việc huy động vốn trong dân cư và vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) có xu hướng giảm dần, trong khi đó lại chỉ tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực và một số ít tỉnh, thành phố có cơ sở kết cấu hạ tầng phát triển nhằm nhanh chóng thu lợi nhuận. - Đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ cũng còn những bất hợp lý. Chẳng hạn như: đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, ytế - xã hội còn ở mức thấp so với nhu cầu và so với các nước trong khu vực. Đầu tư theo vùng và lãnh thổ vẫn còn mang tính dàn trải và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn cũng còn nhiều bất cập, biểu hiện ở chỗ chưa chú ý đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chưa đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, công nghệ sinh học, hệ thống giống cây, giống con, sơ chế bảo quản nông sản hàng hoá sau thu hoạch, vì vậy sản phẩm sản xuất ra giá thành cao, tiêu thụ khó... Đây là những vấn đề đòi hỏi phải sớm được nghiên cứu điều chỉnh sao coh hợp lý hơn để có thể tạo nên một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đời sống kinh tế - xã hội. 1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phân tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt... Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). - Tập quán tiêu dùng của dân cư - Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài Nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ. 1.3. Thị trường vốn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35440.doc
Tài liệu liên quan