Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM

I. VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM

1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam

2. Lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam

3. Vai trò của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam

4. Vị trí của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU

II. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM

1. Đặc điểm

2. Nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU

CHƯƠNGII: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜN EU

I. THỊ TRƯỜNG EU VÀ HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM

1. Đặc điểm của thị trường EU

2. Phương thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN QUA

1. Về kim ngạch xuất khẩu

2. Về quản lý và thực hiện hạn ngạch dệt may vào EU

3. Cơ cấu thị trường

III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU

1. Thuận lợi:

2. Khó khăn, tồn tại

3. Một số thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới

 

doc28 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 864 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
FOB: Đây là kiểu tổ chức sản xuất chỉ bao gồm chủ đặt hàng và người sản xuất. Theo phương thức này, giá trị gia tăng tạo ra cao hơn phương thức gia công trong tam giác sản xuất. Giá trị gia tăng bao gồm chi phí nhân công và chi phí nguyên phụ liệu. Các nhà sản xuất Việt nam có thể thoả thuận với chủ đặt hàng về việc sử dụng nguyên phụ liệu trong nước có thể sản xuất ra. Hiện nay, tỷ lệ xuất khẩu hàng dệt may vào EU theo hình thức này còn quá nhỏ bé, chỉ chiếm từ 20%-30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường này. Tăng lượng xuất khẩu theo giá FOB là mục tiêu của ngành bởi bán hàng theo hình thức này đem lại lợi nhuận cao. Thị trường EU nổi tiếng là khó tính và đòi hỏi hàm lượng chất xám cao trong sản phẩm, phần lợi nhuận lớn nằm trong các công đoạn đòi hỏi chất xám đó. Bên cạnh đó xuất khẩu theo hình thức này giúp cho các nhà sản xuất có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường, nắm được nhu cầu thị hiếu và các xu hướng, tránh được tính mùa vụ và những bị động mà hình thức gia công gặp phải. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp và người tiêu dùng bắt đầu biết được hàng dệt may VN. Tuy nhiên, muốn xuất khẩu hàng dệt may theo phương thức này các doanh nghiệp VN phải nắm chắc các thông tin về thị trường, về các nhà cung cấp nguyên phụ liệu, thông tin khách hàng...Chính sự yếu kém trong công tác thông tin hiện nay là nguyên nhân dẫn đến thực trạng tỷ lệ hàng dệt may xuất khẩu trọn gói theo giá FOB thấp. Trong thời gian tới khắc phục sự yếu kém này. II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU trong thời gian qua: Liên minh châu Âu, cũng như từng quốc gia thành viên đã có mối quan hệ thương mại với VN ở từng mức độ khác nhau. Nhưng phải đến mấy năm gần đây, quan hệ này mới được củng cố mà điểm đột phá là hiệp định về hàng dệt may được ký kết vào năm 1992 và có hiệu lực chính thức vào ngày 1/1/1993. Quan hệ thương mại VN-EU không ngừng phát triển với tiến trình hợp tác của EU và đã lớn mạnh của nền kinh tế VN do chinhs sách đổi mới mang lại. Hiệp định VN-EU năm 1993 đã mở ra thị trường lớn cho hàng dệt may VN. Cho đến VN và EU đã ba lần ký hiệp định bổ xung tăng thêm hạn ngạch vào tháng 8/1995, 11/1997 và 3/2000. Hiệp định về hàng dệt may cùng với ưu đãi thuế quan phổ cập GSP ( mức thuế bằng 75% mức thuế tối huệ quốc MFN) mà EU dành cho VN đã mở ra cơ hội phát triển lớn ngành dệt may VN. Chúng ta cùng xem xét thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may VN vào thị trường EU dưới một số khía cạnh sau: 1. Về kim ngạch xuất khẩu: Từ khi hiệp định VN-EU về hàng dệt may chính thức có hiệu lực (1/1/1993), gía trị sản phẩm công nghiệp dệt may tăng nhanh rõ dệt làm thay đổi bộ mặt ngành dệt may nước ta. Kim ngạch xuất khẩu có sự gia tăng nhanh chóng, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1993- 1998 là 42,65%,(riêng năm 1992 chỉ đạt 161tr USD thì đến năm 1993 là 250tr, tức là tăng55,3%/năm), cao hơn 2 lần tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân cả nước cùng thời kỳ, tỷ trọng kim nhạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU thường chiếm khoảng 34%-38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm 39%, tăng 3% so với cùng kỳ năm 1998, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU chiếm 80% thị trường hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN vào EU vẫn có sự tăng trưởng qua các năm: năm1994 là 298trUSD, năm 1995 là 350trUSD, năm 1996 khi hiệp định được chính thức ký kết, số mặt hàng dệt may bị quản lý đã giảm từ 106 Cat xuống còn 54 Cat, kim ngạch xuất khẩu tăng 1,68 lần so với năm 1993(kim ngạch năm 1996 là 420trUSD). Hiệp định buôn bán hàng dệt may VN-EU giai đoạn 1998-2000 được ký kết tháng 11/1997 cho phép nâng hạn ngạch từ VN sang EU tăng 40% so với giai đoạn 1993-1997 với mức tăng trưởng từ 3-6%/ năm, số mặt hàng quản lý giảm xuống còn 29 Cat, kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng và đạt khoảng 602 trUSD thị trường EU chiếm 41,52% trong năm 1998. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước đạt 1,7 tỷ USD thì riêng EU đã chiếm khoảng 620trUSD, chiếm 35,5%, tăng gần 3% so với năm 1998. Năm 2000, theo số liệu hải quan, thì toàn ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu là 1.892,3trUSD tăng 8% so với năm 1999, trong khi thị trường hạn ngạch (chủ yếu là EUchiếm 96%) đạt trên 700trUSD, tăng 9,74% so với năm 1999. Bảng1: Xuất khẩu hàng dệt may việt nam vào EU so với kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước : Năm KNXK vào EU KNXK cả nước Tỷ trong (%) 1993 250 350 71,43 1994 298 550 54,18 1995 350 750 46,67 1996 420 1100 38,18 1997 450 1300 34,62 1998 602 1450 41,52 1999 620 1747 35,49 2000 700 1892 36,99 (Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu- Bộ Thương Mại) Năm 2000, ta đã điều chỉnh hạn ngạch với EU ở mức tăng theo trọng lượng là 26% và trị giá ước khoảng 20%, mặc dù đã khai thác hầu hết phần hạn ngạch được tăng, đặc biệt là mặt hàng Jacket, nhưng kim ngạch vẫn không tăng tương ứng, VD như : T.Shirt tăng 47% so với lượng hạn ngạch được tăng là 40% Sơ mi nam tăng 19,4% so với lượng hạn ngạch được tăng là 27% Jacket tăng 14,5% so với lượng hạn ngạch được tăng là 14%. .... Sở dĩ như vậy là do một số lý do khách quan và chủ quan như đồng EURO bị mất giá, có lúc tới 30%;một số mặt hàng nhạy cảm lượng hạn ngạch ít không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là sau khủng hoảng khu vực 1997-1998, Trung Quốc phục hồi và thu hút đầu tư, khuyến khích xuất khẩu , tăng sức cạnh tranh cho mình nên hàng của ta vấp phải sự cạnh tranh gay gắt hơn... Tháng 3/2000, VN đã ký kết với EU hiệp định song phương về hàng dệt may và giày dép, theo đó EU sẽ tăng hạn ngạch dệt may cho VN lên 27%. Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực từ 05/06/2000 và sẽ kéo dài hết năm 2002. Và nếu đến thời điểm đó hai bên không có ý kiến gì thì hiệp định được nghiễm nhiên gia hạn thêm một năm. Những ưu ái mà EU dành cho VN đã cho thấy EU đánh giá cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của VN. Đay chính là cơ hội để ngành dệt may VN tăng kim ngạch xuất khẩu trong các năm tới. 2. Về quản lý và thực hiện hạn ngạch dệt may vào EU: 2.1.Các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào EU chịu sự quản lý bằng hạn ngạch: Theo hiệp định buôn bán hàng dệt may VN-EU, trong giai đoạn đầu (1993-1995), số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch là 106Cat. Hai năm tiếp theo giảm xuống còn còn 54Cat và giai đoạn 1998-2000 chỉ còn 29Cat. Cụ thể: Bảng2: Danh mục các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào EU chịu sự quản lý bằng hạn ngạch: STT Tên chủng loại hàng Cat STT Tên chủng loại hàng Cat 1 T.Shirt 4 16 áo khoác nam 14 2 áo len,áo nỉ, pullovers.. 5 17 Bộ quần áo ngủ 18 3 Quần 6 18 Ga trải gường 20 4 Sơ mi nữ 7 19 Jacket 21 5 Sơ mi nam 8 20 váy dài nữ 26 6 áo khoác nữ 15 21 Quần dệt kim 28 7 Bộ quần áo nữ 29 22 Vải tổng hợp 35 8 áo lót nhỏ 31 23 Khăn trải bàn 39 9 Quần áo thể thao 73 24 Sợi tổng hợp 41 10 Quần áo khác 78 25 Quần áo trẻ em 68 11 Quùan áo dệt kim 83 26 Quần áo BHLĐ 76 12 Khăn bông 9 27 Lưới các loại 97 13 Găng tay 10 28 Ga trải gường lanh 118 14 Bít tất 12 29 Quần áo vải thô 161 15 Quần lót 13 2.2.Việc phân bổ hạn ngạch và quản lý hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may hằng năm: (Do liên bộ: Thương Mại – Kế Hoạch Đầu Tư- Công nghiệp thực hiện ) Căn cứ trên số lượng hạn ngạch được quy định cho hằng năm theo hiệp định, các doanh nghiệp dệt may trong cả nước được thông báo để tiến hành đăng ký hạn ngạch sử dụng. Sau mỗi năm, tuy tình hình thực hiện cụ thể và diễn biến mới trên thị trường EU, quy định về việc quản lý và sử dụng hạn hạn ngạch có sự thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp trong cả nước có nhu cầu sử dụng hạn ngạch phải gửi về vụ xuất nhập khẩu Bộ Thương Mại. Việc giao hạn ngạch có thu phí được tiến hành theo nguyên tắc công khai, bình đẳng, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm có sử dụng nguyên liệu trong nước. Đối tượng được giao hạn ngạch là các daonh nghiệp sản xuất hàng dệt may đủ kỹ thuật làm hàng xuâts khẩu, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư nước ngoài tại VN. Đối với thị trường EU, 30% hạn ngạch từng chủng loại hàng được dành cho các doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng là nhà công nghiệp Châu Âu do Uỷ ban Châu Âu giới thiệu. Ngoài ra, một tỷ lệ hạn ngạch khoảng 5% để ưu tiên và thưởng khuyến khích cho các daonh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước, mức ưu tiên không quá 10% số hạn ngạch cùng chủng loại doanh nghiệp đã thực hiện năm trước. Các doanh nghiệp được giao hạn ngạch, nếu không có khả năng thực hiện phỉa hoàn trả cho Bộ Thương Mại để liên bộ điều chỉnh cho daonh nghiệp khác, không được mua bán hạn ngạch. Sự phối hợp của liên bộ trong việc phân bổ và quản lý hạn ngạch dệt may vào EU thời gian qua đã có tác động tích cực trong việc đẩy mạnh hàng dệt may VN vào thị trường EU. 2.3.Quy chế đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may vào EU: Để khai thác có hiệu quả nguồn hạn ngạch sử dụng, Bộ Thương Mại đã ra Quyết định số 1405/1998/QĐ/BTM ngày 17/11/1998 về ban hành quy chế đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu với các thị trường hạn ngạch ( Canađa, Thổ Nhĩ Kỳ và EU). Quy chế đấu thầu thực hiện hạn ngạch dệt may vào thị trường có quy định hạn ngạch bắt đầu được thực hiện từ đầu năm 1999.Đợt đấu thầu thí điểm này được thực hiện với các doanh nghiệp ở Hà Nội và TP HCM. Hạn ngạch đấu thầu chiếm khoảng 20-30% hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 2001, việc đấu thầu hạn ngạch được chia làm hai khu vực: Khu vực I: Các doanh nghiệp có trụ sở đóng trên địa bàn các tỉnh, TP từ Quảng Ngãi trở ra phía Bắc. Khu vực II: Các doạnh nghiệp có trụ sở đóng trên địa bàn các tỉnh, TP từ Bình Định trở vào phía Nam. Đấu thầu hạnngạch được duy trì ở mức 25% hạn ngạch thương mại với 8 mặt hàng bao gồm: T.Shirt, áo len, quần, sơ mi nam, nữ, áo khoác nữ , áo lót nhỏ, bộ quần áo thể thao. Tuy nhiên, xung quanh việc đấu thầu hạn ngạch ở thị trường EU hiện nay có rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp, do các doanh nghiệp vấp phải một số vấn đè lo ngại như: nếu không mua được hạn ngạch sẽ dẫn đến mất hết khách hàng thường xuyên hay đấu thầu hạn ngạch có thể là nguyên nhân đẩy gía thành sản phẩm lên cao , khách hàng không chấp nhận, hay có thể nảy sinh nhiều tiêu cực ... 2.4. Tình thực hiện hạn ngạch: Trong số các mặt hàng xuất khẩu vào EU, Jacket là chủng loại hàng chiếm tỷ trọng xấp xỉ 50% kim ngạch hàng dệt may vào EU hàng năm, song so với hạn ngạch được sử dụng thì ta vẫn chưa có khả năng khai thác hết( năm 1999 chỉ thực hiện được 89,1%). Một số mật hàng chúng ta đã sử dụng hết nguồn hạn ngạch gồm:T.Shirt, áo len, quần, sơ mi nam, nữ, áo khoác nữ, bộ quần áo nữ , áo lót, bộ quần áo thể thao, quần áo khác, quần áo dệt kim, lưới. Tình hình thực hiện hạn ngạch với từng mặt hàng có thể cụ thể như sau: Bảng3: Tình hình thực hiện hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang EU ( năm 1999-2000) S TT Tên hàng CAT Năm 1999 Năm 2000 Hạn Ngạch Thực hiện Tỷ lệ(%) Hạn ngạch Thực hiện quý I Tỷ lệ (%) 1 T.Shirt 4 6.798.000 7.346.920 108,07 9.800.000 3.051.345 31.14% 2 áo len 5 2.632.000 2.853.640 108,42 3.250.000 565.660 17,40 3 Quần 6 4.300.000 5.072.681 117,97 5.000.000 2.410.164 48,2 4 Sơ mi nữ 7 2.266.000 2.656.064 117,2 2.750.000 520.242 18,92 5 Sơ mi nam 8 9.888.000 10.789.803 109,12 13.000.000 2.430.535 18,7 6 Khăn bông 9 868.00 188.5 21,72 912 75 8,17 7 Bít tất 10 4.826.000 5.163.820 33,3 5.320.000 430.189 8,09 8 Găng tay 12 2.805.000 82.250 2,93 2.918.000 0 0 9 Quần lót 13 7.983.000 2.806.173 35,15 8.469.000 1.031.858 12,18 10 áo khoác nam 14 414.000 161.118 38,98 443.000 16.052 3,62 11 Aó khoác nữ 15 315.000 351.553 111,6 475.000 61.744 13 12 Pijama 18 834 379.92 44,95 885 134 15,15 13 Khăn trải giường 20 221 103.54 46,84 234 26 11,11 14 Jacket 21 17.950.901 15.993.678 89,1 21.960.000 1.925.078 8,77 15 áo dài nữ 26 733.000 738.197 95,5 1.150.000 168.529 14,65 16 Quần dệt kim 28 3.348.000 2.417.336 72,2 3.551.000 382.944 10,78 17 Bộ quần áo nữ 29 258.000 298.738 115,79 350.000 120.013 34,29 18 áo lót 31 2.781.000 3.063.243 110,15 4.000.000 1.406.144 35,15 19 Vải tông hợp 35 525.000 322 61,34 579 291 50,17 20 Khăn trải bàn 39 211 143 67,6 224 40 17,86 21 Sợi 41 648 578 89,26 707 243 34,36 22 Quần áo trẻ em 68 311 306 98,33 425 23 5,29 23 Quần áo BHLĐ 73 562.000 665.838 118,48 1.000.000 98.569 9,86 24 Bộ quần áo thể thao 76 987 783 79,29 1.088 195 17,94 25 Quần áo khác 78 680 711 104,55 1.200 228 18,96 26 Quần áo dệt kim 83 206 229 111,2 400 41 10,33 27 Lưới 97 104 106 102,04 200 29 14,25 28 Khăn trải bàn lanh 118 82 59 71,75 250 18 7,28 29 Quần áo vải thô 161 212 76 36,01 226 68 29,91 Qua đó, ta nhận thấy rằng ngành dệt may VN chưa tận dụng hết nguồn hạn gạch mà EU giao cho. Hàng dệt may VN chủ yếu tập trung vào những chủng loại hàng dễ làm và các doanh nghiệp có tiềm lực sản xuất lớn, với những mặt hàng này hạn ngạch thường không đủ đẻ đáp ứng. Vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới là phải có biện pháp bố trí lại các nguồn lực để khai thác tối đa nguồn hạn ngạch được giao với tất cả các chủng loại hàng nhất là trong giai đoạn này khi hạn ngạch được tăng thêm khoảng 30% so với giai đoạn trước. 3.Cơ cấu thị trường EU: EU là thị trường lớn bao gồm 15 thị trường quốc gia. Với hàng dệt may VN xuất khẩu vào EU, Đức luôn là thị trường lớn nhất( chiếm khoảng 40-42%), tiếp thao là Pháp(13-15%), Hà Lan(10-13%)...Cùng với việc mở rộng mối quan hệ buôn bán của VN với các nước EU khác như Anh, Bỉ, Phần Lan, Thuỵ Điển...tỷ trọng hàng dệt may VN được nhập khẩu vào các nước này ngày càng có xu hướng tăng lên. Nếu như năm 1993 chỉ tập trung chủ yếu vào 3 thị trường lớn nhất là Đức, Hà Lan, Pháp thì đến năm 1998 hàng dệt may VN đã có mặt trên hầu hết các nước EU. Trong đó thị trường Đức vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất 46,9%, tiếp theo là Pháp(10,8%), Hà Lan(10,3%), Anh(9,4%), Bỉ(6,1%), Italia(4,4%), Đan Mạch (2%)...Điều này chứng tỏ VN đang đần được biết đến trên thj trường quốc tế. Đây có thể coi là thành công bước đầu trong việc thâm nhập thị trường EU. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may VN vào EU là mục tiêu chính của ngành trong giai đoạn tới. II. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may VN vào thị trường EU: 1.Thuận lợi: Hàng dệt may VN xuất khẩu vào thị trường EU có những thuận lợi cơ bản sau: Thứ nhất, EU là một thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, đây cũng là khu vực khá ổn định và có đồng tiền riêng tương đối ổn định.Với triển vọng phát triển kinh tế rất khả quan của EU và triển vọng mở rộng EU lên 28 thành viên trong những năm tới thì thị trường EU sẽ trở thành môi trường lý tưởng cho các nhà xuất khẩu VN noí chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng thể hiện sức mạnh của mình. Thứ hai, EU đang từng bước đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển với VN trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.Mở đầu cho quan hệ hợp tác giữa VN và EU là hiệp định về hàng dệt may được ký ngày 15/12/1992,có hiệu lực trong 5 năm, từ 1/1/1993. Tháng 11/1997 hai bên đã ký hiệp định buôn bán hàng dệt may cho giai đoạn 1998-2000. Nó đã tạo nên điều kiện thuận lợi và ổn định cho sự phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may của VN, đồng thời tạo cho VN cơ hội tiếp cận và hội nhập cách làm ăn hiện đại trên thế giới. Thứ ba, Thị trường EU có nhu cầu rất lớn và đa dạng về hàng dệt may. đây cũng là thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, mẫu mốt, vì vậy tăng cường xuất khẩu sang thị trường này không những giúp các doanh nghiệp đảm bảo ổn định sản xuất mà còn nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, mặt khác còn góp phần thay đổi cơ chế kinh tế VN. Thứ tư, EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn, khá ổn định. Hơn nữa, lại là khu vực thị trường và có chính sách thương mại chung, có đồng tiền thanh toán chung (đồng EURO), khi đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Vn trong việc tính toán, ký kết hợp đồng, triển khai các chiến lược thâm nhập thị trường Châu Âu. Từ đó giúp giảm chi phí, trước hết là chi phí Marketing. Doanh nghiệp sẽ chỉ phải làm việc với một đồng tiền duy nhất và phải dự đoán được mức độ rủi ro của đồng tiền thanh toán duy nhất thay vì tính toán mức độ rủi ro của 11 đồng tiền như trước đây. Thứ năm, việc VN vẫn được EU cho hưởng chế độ yưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Thuận lợi với VN trong trường hợp này là trong khi Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Brunei đã có một số mặt hàng bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP thì VN vẫn được hưởng ưu đãi này. Với mặt hàng may mặc, mức thuế GSP áp dụng chỉ bằng 75% mức thuế tối huệ quốc(MFN). 2. Khó khăn, tồn tại: 2.1.Những khó khăn mang tính chất khách quan: Cơ hội cho hàng dệt may VN vào EU là rất lớn, nhưng để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này các doanh nghiệp xuất khẩu VN còn vấp phải những khó khăn chủ yếu sau: Một là, EU là thị trường thống nhất về kỹ thuật song thực tế không giống như một thị trường quốc gia, mỗi nước có một bản sắc và đặc trưng riêng khiến cho nhu cầu về hàng hoá rất đa dạng, phong phú, đặc biệt đối với mặt hàng dệt may nên việc nắm bắt nhu cầu này càng trở nên khó khăn. Hai là, thị trường EU đòi hỏi hàng hoá có tiêu chuẩn cao, hàng VnN muốn vào được EU phải vượt qua được rào cản của thị trường này.Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo hộ người tiêu dùng của EU. Trong khi đó hệ thống ISO 9000,ISO 14000 mới bước đầu được áp dụng và không phải doanh nghiệp dệt may nào cũng đáp ứng được. Ba là, hàng dệt may Vn đang phải đối mặt với vấn đề quan trọng là sự cạnh tranh khốc liệt với sản phẩm cùng lọai của nước khác trên thị trường EU, tiêu biểu là Trung Quốc và Singapore. Đặc biệt, khi Trung Quốc đã là thành viên chính thức của WTO, khả năng hàng hoá của họ thâm nhập vào EU lớn hơn do được ưu đãi hơn thì cạnh tranh sẽ này càng gay gắt. Bốn là, VN ký hiệp định dệt may muộn hơn nhiều so với các nước khác nên hạn ngạch EU dành cho VN rất thấp.Mặt khá, số lượng chủng loại bị quản lý hạn ngạch của Vn theo hiệp định giai đoạn 1998-2000 là 29Cat trong khi các nước ASEAN chỉ còn dưới 10Ca. Năm là, xuất khẩu sản phẩm dệt may vào EU thường chịu điều kiện ràng buộc về nhập khẩu nguyên phụ liệu từ thị trường này với giá cao hơn các sản phẩm tương đương của các nước khu vực. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh về giá của sản phẩm VN. Sáu là, các yêu cầu về xuất xứ hàng hoá được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập(GSP) của EU áp dụng với VN ráat khắt khe. 2.2.Những tồn tại của bản thân ngành dệt mayVN: Ngoài những khó khăn mang tính chất khách quan như trên thì bản thân ngành dệt may VN vẫn còn nhiều tồn tại cần đượcb giải quyết sau: Vấn đề bức xúc cho hầu hết các doanh nghiệp VN hiện nay là cơ sở vật chất phục vụ sản xuất bởi vì điều này liên quan trực tiếp đến khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm. Thiết bị công nghệ của ngành vừa thiếu đồng bộ vừa lạc hậu (2-3 thế hệ), đặc biệt là công nghệ dệt nên chưa phát huy hết năng lực sản xuất và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm dệt may. Ngoài ra, thiếu vốn đầu tư là nguyên nhân cơ bản, song đây là vấn đề của cả nền kinh tế.Đối với ngành dệt may, là một ngành mà VN có lợi thế so sánh, việc thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế khả năng phát huy lợi thế của mình. Trong thời gian gần đay, ngành dệt may VN đã bắt đàug chú ý đến việc tập trung vốn, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhưng sự đổi mới này tập trung chủ yếu vào ngành may tạo nên sự khập khiễng trong sự phân phối dệt và mayvà ngành may VN phục vụ chủ yếu cho gia công xuất khẩu. Trong khi khả năng sản xuất của ngành may lớn, có thể đáp ứng các đòi hỏi kỹ thuật cao thì khả năng cung cáp của ngành dệt chưa theo kịp, đặc biệt trong lĩnh vực may xuất khẩu . Hàng hoá tham gia vào thị trường quốc tế đòi hỏi phải đáp ứng được các quy định ngặt nghèo về chất lượng, thì chất lượng ngành dệt phần lớn chưa đáp ứng được. Nên trong những năm qua, nguyên liệu cho may chủ yếu nhập ngoại. Ngành may xuất khẩu VN vẫn chủ yếu là may gia công cho nước ngoài với giá trị gia tăng thấp. Sở dĩ như vậy là do các doanh nghiệp không có đơn đặt hàng, không tên tuổi, uy tín trên thị trường, gia công xuất khẩu ít rủi ro cả về sản xuất lẫn tiêu thụ, đòi hỏi vốn ít và do tác động tất yếu của phân công lao động quốc tế. Mặt khác, thông tin là yếu tố không thể thiếu đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đặc biệt với doanh nghiệp xuất khẩ. Để quản lý điều hành tốt quá trình xuất nhập khẩu, đòi hỏi thông tin phải cập nhật, chính xác như thông tin vè các thông số xuất nhập khẩu, về thị trường, về tiến độ sản xuất, tiềm năng của doanh nghiệp...nhưng việc nắm bắt thông tin lại là điểm yếu của ta. Hệ thống thông tin điều hành xuất khẩu hàng dệt may của VN còn bộc khá nhiều hạn chế như thông tin còn rời rạc, chưa thực sự có hệ thống từ TW đến địa phương, giữa các bộ phận quản lý và thực hiện; thông tin chưa đầy đủ, cập nhật...Đay có thể coi là nguyên nhân cơ bản hạn chế các doanh nghiệp dệt may trong việc xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB sang thị trường EU. Do thiếu thông tin về thị trường, các doanh nghiệp VN với vai trò là người bán không nắm bắt được chính xác đầy đủ nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng, chưa tạo được các mối quan hệ làm ăn với bạn hàng nên việc bán hàng trực tiếp theo giá FOB mang lại hiệu quả chưa cao. Để tiếp cận và xâm nhập thị trường này, đòi hỏi các doanh nghiệp VN phải có chiến lược kiểm soát thông tin và tổ chức được hệ thống thông tin thường xuyên. Điều này đòi hỏi phải có những khoảng tài chính không nhỏ và đọi ngũ chuyên viên có năng lực nên đay vẫn là vấn đè khó khăn, bức xúc với doanh nghiệp VN hiện nay. 3. Một số thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu VN sang thị trường EU trong thời gian tới: Trước hết phải kể đến đó là bất lợi của ngành dệt may khi VN nằm ngoài WTO. Như ta đã biết WTO là tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất hiện nay, chi phối trên 90% khối lượng buôn bán trên thế giới. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có cơ hội bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong khuôn khổ các cuộc đàm phán đa phương của WTO. Hiệp đinh về hàng dệt may ATC( Agreement on Textile and Clothing) là một trong những thành tựu chủ yếu của vào đàm phán Urugoay trong khuôn khổ WTO. theo ATC, sau 10 năm nhập khẩu hàng dệt may áp dụng hạn ngạch với các nước đang phát triển(1995-2005) hạn ngạch sẽ được cắt bỏ. Bắt đầu từ 2005 trở đi hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may sẽ không còn áp dụng với những nước thành viên của WTO . Như vậy, nếu như nằm ngoài WTO VN tiếp tục bị hạn chế về hạn ngạch theo các hiệp định song phương, kể cả sau năm 2004 và phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hưon ở một số thị trường quan trọng trong đó có thị trường EU. Hơn nữa, những thuận lợi mà các nước thành viên của WTO có được sẽ càng làm tăng những bất lợi của VN trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của quá trình ưu đãi thuế quan phổ cập và xoá bỏ hạn ngạch với hàng dệt của các nước là thành viên của WTO. Từ nay đến hết năm 2004, nếu VN chưa trở thành thành viên của WTO thì nhiều khả nhiều khả năng sẽ vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Trong khi các nước lại được tự do xuất khẩu. Thêm nữa, các nước phát triển sẽ tăng cường áp dụng các hàng rào phi thuế quan như các yêu cầu về nhãn mác, môi trường, điều kiện lao động, các yêu cầu về chống bán phá giá ... Như vậy sức cạnh và thâm nhập thị trường của hàng VN sẽ giảm một cách tương đối và tuyệt đối so với các nước khác. Tuy nhiên, trở thành thành viên của WTO chỉ tạo điều kiện thuận lợi chứ không có nghĩa là VN đã thực hiện hoá được những cơ hội kinh doanh trên thị trường quốc tế do tư cách là thành viên của WTO mang lại. Suy cho cùng, để tăng cường khả năng xuất khẩu sang thị trường EU thì nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may VN mới là điều quan trọng nhất. Ngoài ra, còn phải kể đến đó là hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký kết ngày14/07/2000 và đã được chính phủ hai bên phê chuẩn sẽ tạo điều kiện, mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại song phương, hanhg hoá xuất khẩu sang Mỹ sẽ được hưởng ưu đãi tối huệ quốc. Mỹ là thị trường tiêu dùng lớn trên thế giới, có nhu cầu đa dạng và phong phú về hàng hoá mà không đòi hỏi quá khắt khe như thị trường EU. Mỹ là xã hội phức tạp, sự phân hoá giai cấp đã tạo ra nhiều tầng lớp xã hội. Gắn với mỗi tầng lớp là những đặc trưng riêng về mức sống, phong cách sinh hoạt khác nhau, do đó tạo ra nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Vì vậy, tạo ra nhu cầu tiêu dùng đa dạng và phong phú về chủng loại, từ hàng hoá cao cấp đến bình dân. Trái với thị trường EU là chất lượng không đóng vai trò quyết định, giá cả là yếu tố quyết định tiêu dùng, chất lượng chỉ gĩ vai trò thứ yếu. Các doanh nghiệp Mỹ không quan tâm nhiều đến mẫu mã mà vấn đề họ đặt lên hàng đầu là giá thành. Do đó so với thị trường EU , việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ tỏ ra thích hợp hơn cho doanh nghiệp dệt may VN khi mẫu mốt và chất lượng vẫn đang là vấn đề khó khăn.Nếu được hưởng những ưu đãi về thuế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV054.doc
Tài liệu liên quan