MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I.SỰ CẦN THIẾT PHẢI DẠY NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG 2
1.KHÁI NIỆM VỀ DẠY NGHỀ VÀ HỌC NGHỀ 2
2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC DẠY NGHỀ. 2
3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DẠY NGHỀ. 5
4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI DẠY NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG 7
II. THỰC TRẠNG DẠY NGHỀ TỈNH HẢI DƯƠNG 10
1. THỰC TRẠNG MẠNG LƯỚI DẠY NGHỀ 10
1.1. PHÂN BỐ CƠ SỞ DẠY NGHỀ (VỀ KHÔNG GIAN) 11
1.2. CƠ SỞ ĐÀO TẠO DẠY NGHỀ (VỀ CẤP ĐỘ) 13
1.2.1 HỆ ĐÀO TẠO CHUYÊN NGHIỆP 13
1.2.2 HỆ DẠY NGHỀ 13
1.3KẾT QUẢ DẠY NGHỀ NÓI CHUNG 13
1.3.1. KẾT QUẢ DẠY NGHỀ VÀ TRUYỀN NGHỀ 14
1.3.2. CHẤT LƯỢNG HỌC VIÊN TỐT NGHIỆP 15
1.3.3. KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 16
2.CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ DẠY NGHỀ 16
2.1. CHẤT LƯỢNG GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ 16
2.2 CƠ SỞ VẬT CHẤT, TRANG THIẾT BỊ VÀ TÀI CHÍNH DÀNH CHO DẠY NGHỀ 18
2.3 QUY MÔ VÀ CƠ CẤU DẠY NGHỀ 19
III. GIẢI PHÁP DẠY NGHỀ TỈNH HẢI DƯƠNG. 21
1.GIẢI PHÁP TỔNG THỂ. 21
1.1. GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH, CƠ CHẾ DẠY NGHỀ. 21
1.1.1. KHẢO SÁT VÀ NẮM VỮNG THÔNG TIN VỀ NHU CẦU HỌC NGHỀ - VIỆC LÀM. 21
1.1.2. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO NGHỀ, TẠO VIỆC LÀM PHÙ HỢP 22
1.2 GIẢI PHÁP VỚI CƠ SỞ DẠY NGHỀ 22
2.GIẢI PHÁP CỤ THỂ 23
2.1 GIẢI PHÁP VỀ VỐN 23
2.1.1. CƠ SỞ TÍNH TOÁN 23
2.1.2 CÁC GIẢI PHÁP VỀ VỐN 24
2.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC ĐÀO TẠO CƠ SỞ DẠY NGHỀ 25
2.2.1. CHUẨN HOÁ VÀ ĐẦU TƯ CƠ SỞ VẬT CHẤT 25
2.2.2. PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH 25
2.2.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN. 26
2.2.4. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI HỌC NGHỀ. 26
III. KẾT LUẬN: 27
IV. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2372 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp dạy nghề tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu ở mức rất thấp, với nền kinh tế kiệt quệ do chiến tranh, nguồn vốn tích luỹ hầu như không có và tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, duy nhất chỉ có côn người là nguồn lực dồi dào. Vai trò của nguồn nhân lực đã được khẳng định và chứng minh. Hơn nữa nguồn nhân lực còn góp phần nâng cao năng suất, tăng thu nhập, giảm đói nghèo và bất bình đẳng, cam kết phát triển nguồn nhân lực liên tục tạo ra tăng trưởng kinh tế dài hạn. Lợi ích có được từ đầu tư vào nhân lực mang một đặc trưng khác hẳn với các loại đầu tư khác. Thứ nhất, đàu tư vào nguồn nhân lực không hề bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng mà ngược lại càng được sử dụng nhiều, khả năng tại thu nhập và do vậy thu hồi vốn càng cao. Thứ hai, đầu tư vào nguồn vốn nhân lực có chi phí tương đối không cao trong khi đố khoảng thời gian sử dụng lại lớn, thường là khoảng thời gian làm việc của một đời người. Thứ ba, các hiệu ứng gián tiếp, và hiệu ứng lan toả của của đầu tư vào nguồn vốn nhân lực là rất lớn. Trình độ nhân lực ở một nước cao cho phép tăng trưởng kinh tế tốt hơn và điều chỉnh tốt hơn với các vấn đề dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác. Thứ tư, đầu tư vào con người không chỉ là mục tiêu đạt được thu nhập mà còn là mục tiêu của xã hội, giúp con người thưởng thức cuộc sống đầy đủ hơn.
Nguồn nhân lực cho sản xuất của một nước có thể sơ bộ chia thành 6 thành tố như sau:
- Các nhà phát minh và đổi mới công nghệ - Công nhân lành nghề.
- Các nhà quản lý. - Công nhân 1/2 lành nghề
- Các nhà kỹ thuật và công nghệ. - Lao động giản đơn.
Nhiệm vụ đối với một nước trong quá trình phát triển nguồn nhân lực của họ là tạo ra sự cân bằng giữa các thành tố nguồn nhân lực để đáp ứng theo sự thay đổi của nền sản xuất. Điều này có nghĩa là tạo ra một tỷ lệ phù hợp với trình độ phát triển công nghệ. Theo ILO, một số nước phát triển thường có đội ngũ công nhân 1/2 lành nghề vào khoảng 10% tổng số đội ngũ lao động, công nhân lành nghề vào khoảng 18%. Phần lớn các công nghệ đều đã được tự động hoá, các nhà kỹ thuật và công nghệ gia chiếm một tỷ lệ lớn khoảng 36% còn các nhà quản lý khoảng 22% nhà nghiên cứu phát minh khoảng 14%. Trong khi ở các nước đang phát triển thì ngược lại đội ngũ lao động giản đơn và 1/2 lành nghề chiếm đến khoảng 60%, tiếp đến là công nhân lành nghề 22%, các kỹ thuật và công nghệ gia chỉ khoản 9%, các nhà quản lý 6,5%, còn các nhà nghiên cứư phát minh chỉ khoản 2,5%. Tình trạng này là do thiếu đầu tư thích đáng cho việc giáo dục ở các nước đang phát triển, dẫn đến thiếu lực lượng lao động có trình độ, hơn nữa các nước đang phát triển thường thiếu vốn đầu tư cho phát triển công nghệ, dẫn đến lực lượng lao động có trình độ cao không có điều kiện phát huy hết năng lực và trình độ của mình, vì vậy một số lớn đã chuyển sang làm việc cho các nước phát triển.
Đến năm 2005, tỉnh Hải Dương có dân số trung bình là 1711,5 nghìn người, mật độ dân số là 1037 người/km2. Qua các năm, lực lượng lao động tăng dần, nguồn lao động dồi dào, đến năm 2005, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động lên đến 62,5% dân số. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thay đổi tỷ trọng lao động trong khu vực nông thôn làm việc theo nhóm ngành của của loại công việc chính: nông, lâm, thuỷ sản,công nghiệp, xây dựng-dịch vụ từ 79,7%-8,19%-12,11% năm 2000 và tỷ lệ này là 75,85%-10,15%-14% tại năm 2005. Sở dĩ có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy, một phần là do đào tạo dạy nghề tạo ra bởi nếu không có đào tạo dạy nghề thì sẽ không có nguồn nhân lực có tay nghề cao, mà dễ thấy, với ngành nông nghiệp, nguời lao động có thể không cần qua đào tạo cũng có thể làm được nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ thì không như vậy, nhưng cũng không có nghĩa ngành nông nghiệp không cần đào tạo mà chúng ta vẫn phải tăng cường hỗ trợ về mặt kỹ thuật để đưa cơ giới hoá, hiện đại hoá vào trong nông nghiệp. Trong khi các khu công nghiệp đang được xây dựng và được mở rộng, thiếu công nhân có trình độ cao cộng với sức ép về giải quyết việc làm thì đào tạo và dạy nghề là con đường hợp lý. Đào tạo, dạy nghề không những góp phần giải quyết việc làm mà còn góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế của tỉnh Hải Dương nói riêng và đất nước nói chung.
Thất nghiệp phân theo trình độ CMKT đơn vị : %
Nguồn: Số liệu thống kê lao động việc làm 2005, Bộ LĐTB&XH.
Như vậy, với lao động có trình độ cao đẳng, đại học có tỷ lệ thất nghiệp cao thứ hai sau lao động chưa qua đào tạo trong khi tỷ lệ thất nghiệp của công nhân kỹ thuật lại rất thấp càng khẳng định đào tạo dạy nghề là rất cần thiết.
II. thực trạng dạy nghề tỉnh hải dương
1. thực trạng mạng lưới dạy nghề
Mặc dù chưa thành lập được các trung tâm dạy nghề thuộc các huyện, thành phố song tỉnh Hải Dương đã đạt được một số các thành tích đáng kể trong công tác đào tạo nghề. Tháng 4-2002, UBND tỉnh có quyết định cho phép thành lập các cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế, khôi phục và phát triển các làng nghề để tham dự dạy nghề, truyền nghề cho người lao động. Mạng lưới các cơ sở dạy nghề không ngừng được mở rộng và kiện toàn chất lượng. Thực hiện chủ trương đa dạng hoá dạy nghề, năm 2000 UBND tỉnh quyết định thành lập trường công nhân kỹ thuật để đào tạo công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề với quy mô đào tạo 500 học sinh hệ dài hạn/năm, 300 học sinh hệ ngắn hạn/năm. Đồng thời không ngừng đầu tư nâng cấp các trung tâm dịch vụ việc làm, củng cố khuyến nông từ tỉnh đến huyện, tháng 4/2002, thành lập quỹ khuyến nông tỉnh, cho phép thành lập các cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế, khô phục và phát triển làng nghề khi có đủ điều kiện truyền nghề cho người lao động trong đó chủ yếu là lao động khu vực nông nghịêp nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao năng lực dạy nghề truyền nghề tạo việc làm cho lao động khu vực nông nghiệp nông thôn. Năm 2000 toàn tỉnh có 13 cơ sở dạy nghề, trong đó có 7 trường tham gia dạy nghề ( 6 trường trực thuộc trung ương, 1 trường thuộc tỉnh mới thành lập tháng 6/2000 ). Năm 2005 số cơ sở dạy nghề đã lên đến 28 cơ sở trong đó có 7 trường trực thuộc trung ương, 4 trường trực thuộc tỉnh và đã cuất hiện các cơ sở dạy nghề ở nhiều huyện. Đến nay có khoảng 350 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tự tuyển lao động và đào tạo nghề. Hoạt động của các cơ sở dạy nghề cũng có nhiều hình thức đổi mới, hình thức ngày càng đa dạng. Điển hình là mô hình dạy nghề theo địa chỉ, gắn người học nghề với nơi sản xuất và dạy nghề tại nơi cư trú của người lao động.
Bảng . kết quả đào tạo nghề 5 năm(2001-2005)
TT
Trình độ đào tạo
LĐqua ĐT
đến 2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng
5 năm
Tổng cộng
164.306
177.508
193.407
211.368
231.573
252.798
1
Tổng số LĐ qua
đào tạo nghề
113.603
124.434
137.963
153.514
171.347
189.847
LĐ qua đào tạo nghề
10.831
13.529
15.551
17.833
18.500
76.241
1.1
CNKT có bằng
chứng chỉ nghề
85.037
6.38
8.699
10.551
13.133
13.397
137.19
+Bằng nghề
-
2.374
2.927
4.509
6.285
6.267
22.362
+Chứng chỉ
-
4.007
5.772
6.042
6.848
7.130
29.799
1.2
CNKTkhông có bằng
chứng chỉ
21.653
4.450
4.830
5.000
4.700
5.100
45.733
2
LĐ từ THCS trở lên
50.713
53.344
55.714
58.079
60.451
62.951
2.1
LĐ từ THCN trở lên
2.631
2.370
2.365
2.372
2.500
12.238
3
Tỷ lệ LĐ qua đào tạo%
18,71
19,98
21,25
22,55
24,45
26,62
Tỷ lệ LĐ qua ĐTN%
12,9
14
15,16
16,38
18,1
20,05
phân bố cơ sở dạy nghề (về không gian)
Xét theo địa bàn, các cơ sở dạy nghề tập trung ở thành phố Hải Dương (15 cơ sở) và huyện Chí Linh ( 8 cơ sỏ). Trong tổng số 12 huyện/thành phố, có đến 7 huyện với khoảng 1/2 dân số cũng như về diện tích không có cơ sở dạy nghề. Đây là một hạn chế khiến người lao động khó tiếp cận với các cơ sở dạy nghề để được đào tạo mới cũng như đào tạo nâng cao trình độ. điều này thể hiện rõ qua biểu thống kê cơ sở dạy nghề như sau:
Bảng . Cơ sở dạy nghề trong tỉnh phân theo huyện/TP
Tên huyện
Dân số (người)
Diện tích (km2)
Cơ sở dạy nghề (cơ sở)
TP Hải Dương
137.610
36,2
15
Chí Linh
148.722
281,9
8
Nam Sách
140.228
132,8
2
Kinh Môn
166.489
163,5
0
Kim Thành
126.125
113,6
0
Thanh Hà
163.307
159,1
0
Cảm Giàng
121.473
109,3
2
Bình Giang
106.293
104,7
0
Gia Lộc
151.978
122,2
0
Tứ Kỳ
168.464
170,8
1
Ninh Giang
149.252
135,4
0
Thanh Miện
131.581
122,3
0
Nguồn: Tổng cục dạy nghề
Dễ thấy sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng trong toàn tỉnh. Các vùng có trường dạy nghề là những vùng phát triển hay nói cách khác các vùng này đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, qúa trình CNH-HĐH. Số đông người lao động chưa được qua đào tạo, đây sẽ là một nguồn lực phong phú, dồi dào khi làm tốt công tác đào tạo sẽ cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Bên cạnh đó các cơ sở dạy nghề của Hải Dương hầu hết mới thành lập. Ngoài trường Công nhân cơ gới Xây dựng ( thuộc Tổng công ty XD&PTHT) thành lập năm 1974, trường đào tạo nghề Thương mại ( thuộc Bộ Thương Mại) thành lập năm 1993, các trường, trung tâm khác đều mới thành lập từ năm 1997 trở lại đay. Trong đó các cơ sở dạy nghề ngoài công lập hầu hết thành lập sau năm 2003 như doanh nghiệp tư nhân Đại Hoàng Gia tại huyện Chí Linh thành lập năm 2004 dạy nghề may công nghiệp, công ty TNHH kỹ thuật thương mại Alpha thành lập năm 2004 dạy nghề tin hoc…Các trường được thành lập hầu hết do yêu cầu của thị trường, đây cũng là hướng đi đúng đắn cho các cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên, vì các trường này đều mới thành lập nên kinh nghiệm đào tạo, giáo viên, trang thiết bị, chương trình đào tạo còn tồn tại nhiều bất cập, chưa đồng bộ.
1.2 Cơ sở đào tạo dạy nghề (về cấp độ)
1.2.1 hệ đào tạo chuyên nghiệp
Hệ đào tạo chuyên nghiệp gồm có các trường cao đẳng và các trường trung học chuyên nghiệp. Tính đến năm 2005 toàn tỉnh có 13 trường, khối trực thuộc trung ương có 7 trường ( 6 trường công lập, 1 trường nghệp vụ và một trường dân lập). Từ năm 2000 đến nay đã nâng cấp 2 trường trung học lên cao đẳng, nâng cấp trường nghiệp vụ Y tế thành trường trung học Y tế, thành lập mới trường Trung học kỹ thuật và Công nghệ Hải Dương và trường trung học Nông nghiệp.
1.2.2 hệ dạy nghề
Các cơ sở dạy nghề được mở rộng nhiều so với năm 2000. Đến năm 2006 toàn tỉnh có 28 cơ sở( tăng 14 cơ sở), trong đó có 14 cơ sở dân lập, tư nhân. Khối trực thuộc trung ương có 7 trường chủ yếu là các trường dài hạn.
1.3kết quả dạy nghề nói chung
Các cơ sở đào tạo dạy nghề đã chủ động đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, mở thêm nhiều nghề đào tạo, dễ tìm việc làm phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh như : may công nghiệp, sửa chữa cơ khí nhỏ, điện dân dụng, quản lý điện nông thôn, thêu móc, mây giang xiên xuất khẩu… Chủ yếu là các nghề ngắn hạn, việc làm tại chỗ, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong các ngành nông lâm nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Hiện nay việc tuyển sinh học nghề dài hạn cung ứng cho các cụm công nghiệp, khu công nghiệp dang gặp nhiều khó khăn. Số học sinh hệ dài hạn hiện đạt khoảng 4000 học sinh/năm tăng 1700 so với năm 2000. các cơ sở đào tạo, dạy nghề đã có nhiều giả pháp tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ cho các cum công nghiệp, khu công nghiệp nhưng số lượng tuyển hàng năm không nhiều, lao động ở nông thôn, cụm công nghiệp ít tham gia học nghề vì khó khăn về tài chính.
1.3.1. Kết quả dạy nghề và truyền nghề
a) Kết quả dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề:
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Cộng
5 năm
So với kế hoạch 5 năm
Dài hạn
2.374
2.927
4.509
6.285
6.267
22.362
Ngắn hạn
8.457
10.602
53.879
Tổng cộng
10.831
13.529
15.551
17.833
18.500
76.241
286,6%
Qua 5 năm chúng ta đã dạy nghề cho 76.241 người, đạt 286,6% kế hoạch 5 năm Đề án đề ra là 40.850 người. Đặc biệt là đã thực hiện thành công và có hiệu quả đề án thí điểm dạy nghề cho nông dân năm 2004, 2005, thực hiện tốt công tác dạy nghề và truyền nghề cho lao động khu vực nông từ quỹ khuyến công khôi phục và phát triển các làng nghề. Đào tạo dạy nghề đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 12,8% năm 2000 lên 26,6% năm 2005. Như vậy, đến năm 2005 các cơ sở dạy nghề đã đào tạo cho 76.241 người vượt 186,6% so với kế hoạch 5năm của đề án tương đương với tăng 35.359 người ( = 42.158 người – 40.850 người)
b) Củng cố hệ thống khuyến nông
Hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến huyện được củng cố, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng từng bước hoạt động hiệu quả. Sau 5 năm đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể mở 6.650 lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 530.000 lượt nông dân, tập trung vào các nhóm nghề như trồng trọt, chăn nuôi gia ssúc, gia cầm, bảo vệ động thực vật, xử lý các chất thải nông nghiệp, bảo quản nông sản sau thu hoạch…
Quỹ khuyến nông được thành lập từ tháng 4/2002, sau 5 năm đi vào hoạt động đã hỗ trợ các cơ sở sản xuất, các HTX, khôi phục và phát triển làng nghề. Hơn thế nữa, bằng các đề án khuyến nông đã hỗ trợ 1.151,6 triệu đồng tổ chức dạy nghề, tạo việc làm cho hơn 3.578 lao động nông thôn.
1.3.2. chất lượng học viên tốt nghiệp
Theo báo cáo của sở LĐTB&XH Hải Dương, trong năm 2005, 28 cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã đào tạo được cho 21.600 lao động, trong đó số lao động địa phương chiếm tỷ lệ 69,6%. Số bằng nghề đã cấp là 6944, chiếm tỷ lệ 32,1% và số chứng chỉ nghề cấp là 7868, chiếm tỷ lệ 36,4% tổng số lượt đào tạo. Số lao động tìm được việc làm sau khi được đào tạo chiếm tỷ lệ trên 80% điều này cho thấy đào tạo dạy nghề chính là con đường giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân cũng như đẩy mạnh kinh tế toàn tỉnh.
Tỉnh đã tổ chức Hội thi học sinh giỏi nghề cấp tỉnh và đã đưa học sinh tham dự kỳ thi học sinh giỏi nghề cấp quốc gia, kết quả đạt 4 giải khuyến khích.
Bảng Học sinh học nghề năm 2005 Đơn vị: lượt người
Tổng số
Dài hạn
Ngắn hạn
Số lượt
Được cấp
bằng nghề
Số lượt
Đượccấp
CC nghề
Tổng số
21.600
6.771
6.944
14.829
7.868
Cơ sở trực thuộc địa phương
12.049
580
408
11.469
5.259
Cơ sở trực thuộc trung ương
9.551
6.191
6.536
3.360
2.609
Học sinh người Hải Dương
15.039
2.693
1.736
13.346
7.081
Nguồn: Sở Lao Động Thương binh và Xã hội Hải Dương
Các cơ sở đào tạo dạy nghề của tỉnh không chỉ thu hút học viên trong tỉnh mà còn thu hút được khá nhiều lao động từ nơi khác. Với số lượng học viên ngày một đông chứng tỏ các cơ sở công lập chưa thể đáp ứng nổi yêu cầu học nghề, các cơ sở tư nhân còn hạn chế. Các doanh nghiệp đánh giá chất lượng lao động đã qua đào tạo có trình độ đạt mức trung bình nhất là về kỹ năng thực hành. Trong tương lai cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất, có thế mới tăng trình độ thực hành của học viên, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và sát với hoạt động sản xuất thực tế. Ngoài đào tạo nghề, các cơ sở đào tạo cũng cần phải chú ý đến rèn luyện tác phong kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức đạo đức cho học viên. Mặt khác, các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng đầu tư mạnh mẽ, thị trường lao động nước ngoài cũng dang thiếu công nhân kỹ thuật có trình độ cao. Vì thế, công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động ngày càng trở nên cần thiết, đó cũng là cách giúp người lao động có cơ hội tự nghiên cứu tài liệu nước ngoài hoặc tìm được công việc với mức lương hấp dẫn.
1.3.3. kết quả giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động
Trung tâm Giới thiệu việc làm Hải Dương đã tổ chức dạy nghề cho 3.939 người. Trung tâm đã tư vấn việc làm cho 10.500 người, giới thiệu việc làm cho 3.060 người, trong đó có 1.417 người đã có việc làm ổn định, khai thác thông tin về thị trường lao động đến 260 tổ chức, doanh nghiệp trong tỉnh. Theo số liệu khảo sát ở 12 huyện và thành phố, kết quả giải quyết việc làm trong năm năm từ 2001-2005, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 123.823 lao động đạt 125% so với kế hoạch 5 năm của “ Chương trình giải quyết việc làm tỉnh Hải Dương giai đoạn 2001-2005” đề ra. Số lao động được thu hút vào các lĩnh vực kinh tế như công nghiệp - xây dựng là 557.695 lao động, nông lâm ngư nghiệp 27.416 lao động, dịch vụ và các hoạt động khác 20.310 lao động, xuất khẩu 20.328 lao động. Tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của Hải Dương ở khu vực thành thị còn 5,7% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 79% trong năm 2005, vượt chỉ tiêu về xuất khẩu lao động là 338,8% tương ứng với 14.328 lao động.Qua 5 năm chúng ta đã đưa 20.328 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong đó 100% được dạy nghề hoặc được đào tạo giáo dục định hướng của tỉnh, đạt 338,8% kế hoạch tương ứng vượt 14.328 người.
2.các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả dạy nghề
2.1. chất lượng giáo viên dạy nghề
Do thực hiện tốt các chính sách sử dụng và thu hút nhân tài, trọng dụng nghệ nhân…của tỉnh nên nhiều người có trình độ và năng lực tích cực tham gia dạy nghề, truyền nghề tại các cơ sở dạy nghề, các làng nghề…tăng cường đội ngũ giáo viên dạy nghề trong các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh cả về số lượng lẫn chát lượng. Giáo viên dạy nghề tăng 479 người của năm 2005 so với năm 2000. Các cơ sở thựôc địa phương có số giáo viên ít hơn cả về chất lượng lẫn số lượng so với các cơ sở dạy nghề trực thuộc trung ương. Trong đó, tỷ lệ giáo viên trong biên chế và giáo viên dạy hợp đồng trên 1 năm là khá cao, chiếm 83,4% tổn số giáo viên, tỷ lệ này là 89,2% trong nhóm cơ sở công lập. Một số cơ sở tư nhân nhỏ,với số học viên ít khoảng 100 người một năm có số giáo viên khoảng từ 2-5 người .
Bảng cán bộ nhân viên, giáo viên dạy nghềnăm 2005
Số cơ sở dạy nghề
Tổng sốCBGV
Số GV trung bình
Tổng số
28
1.482
52,93
Cơ sở trực thuộc ĐP
+Công lập
+Ngoài công lập
21
11
10
597
398
199
28,43
36,18
19,90
Cơ sở trực thuộc TW
7
885
126,43
Nguồn: Sở Lao Động Thương binh và Xã hội Hải Dương Đơn vị: người
76% giáo viên đã được đào tạo ở trình đọ đại học, cao đẳng, còn lại là các trình độ khác như công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề… Từ năm 2001-2004 tỉnh đã phối hợp với trường Đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và cấp chứng chỉ sư phạm bậc 1, bậc 2 cho 256 cán bộ giáo viên dạy nghề.
Bảng: Tỷ lệ trình độ giáo viên dạy nghề 2005 Đơn vị: %
Tổng số
Sau đại học
Đại học, Cao đẳng
Trình độ khác
Tổng số
100
9,96
76,04
14,00
Cơ sở trực thuộc ĐP
100
5,07
74,33
20,60
Công lập
100
5,19
82,08
10,85
Ngoài công lập
100
4,88
60,98
37,40
Cơ sở trực thuộc TW
100
12,56
76,95
10,49
Nguồn: Sở Lao Động Thương binh và Xã hội Hải Dương
Hầu hết giáo viên có trình độ chuyên môn phù hợp với giảng dạy, tất cả đều có trình độ nghiệp vụ sư phạm từ bậc 1 trở lên. Nhưng các cơ sở cũng cần phải chủ động đào tạo, nâng cao trình độ của giáo viên , tăng số lượng giáo viên có như vậy các cơ sở mới nâng cao được chất lượng học viên hay chất lượng đào tạo và mở rộng quy mô đào tạo, dạy nghề.
2.2 cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính dành cho dạy nghề
Không chỉ có đội ngũ giảng dạy hơn về số lượng và chất lượng, các cơ sở công lập còn có diện tích mặt bằng rộng hơn hẳn. Trong khi các trường dạy nghề của trung ương có diện tích đát khoảng 300m2 đến hơn 100.000 m2, các cơ sở ngoài công lập có diện tích rất han chế, có cơ sở có diện tích rất nhỏ khoảng 200 m2 đến 600 m2. Các trường công lập còn hơn hẳn về trang thiết bị phục vụ học tập.
Tuy còn phải trang bị nhiều hơn nữa mới có thể đáp ứng được nhu cầu giảng day tuy nhiên về cơ bản, các thiết bị dạy nghề đã được đầu tư mới, hiện đại phù hợp với tình hình phát triển khoa học kỹ thuật. Đó cũng là do các cơ sở dạy nghề này mới được thành lập và nhà nước cũng như xã hội đã có một cái nhìn đúng đắn về học nghề. Máy móc thiết bị phục vụ cho việc đào tạo nghề đều được sản xuất sau năm 2000.
Nguồn kinh phí huy động cho dạy nghề toàn tỉnh đạt 33.360 triệu đồng trong năm 2005 trong đó có đến 60% chi cho công lập. Mức chi bình quân cho 1 năm học nghề một học sinh là 4,3 triệu đồng. Tuy nhiên chủ yếu nguồn này đều từ ngân sách nhà nước trong đó ngân sách trung ương là 7,9 tỷ và ngân sách địa phương là 17,7 tỷ. Nguồn ngân sách còn lại thu được từ học phí, tài trợ của các tổ chức nước ngoài… Phần tự đầu tư của các cơ sở day nghể chưa đến 10% trong tổng số vốn cơ bản của dạy nghề. Trong chương trình mục tiêu giáo dục quốc gia, dự án “ Tăng cường năng lực đào tạo nghề giai đoạn 2001-2005” riêng trong năm 2005 đã đầu tư hơn 5 tỷ đồng cho hỗ trợ nghề đào tạo ngắn hạn trong đó chủ yếu là dạy nghề cho lao động nông thôn khoảng 3,5 tỷ đồng, cho dân tộc thiểu số khoảng 1 tỷ đồng và cho người khuyết tật trên 600 triệu đồng. Ngoài ra dự án còn cung cấp 2,5 tỷ đồng để tăng cường cơ sở vật chất thiết bị cho trường Cao đẳng nghề Công nhân kỹ thuật Hải Dương và trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Liên đoàn lao động tỉnh.
Bảng thống kê nguồn tài chính giành cho dạy nghề thuộc các cơ sở dạy nghề do tỉnh quản lý.
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Tổng số
Ngân sách nhà nước
Người học
đóng góp
Tổng số
Ngân sách địa phương
Chi XDCB
Chi thường xuyên
2001
5.921,321
3.359,654
716,000
1.743,654
2.561,667
2002
9.557,421
7.036,921
1.385,921
3.501,000
2.520,500
2003
15.575,64
10.290,840
2.177,000
5.613,840
5.284,800
2004
18.654,5
14.389,000
2.000,000
5.939,000
4.265,500
2005
22.054
17.581,000
2.000,000
5.939,000
4.200,000
Cộng
71.762,882
52.657,415
8.278,923
22.761,494
18.832,467
Tóm lại, do làm tốt chính sách xã hội hoá trong lĩnh vực dạy nghề, chúng ta đã huy động được các cơ sở dạy nghề ngoài công lập tham gia dạy nghề. Sau 5 năm người học nghề các cơ sở cử lao động đi học nghề đóng góp được 18.832,467 tỷ đồng chiếm 26,24% tổng chi phí chi cho dạy nghề 5 năm 2001-2005.
2.3 quy mô và cơ cấu dạy nghề
Trong năm 2000 mới chỉ có 12 nghìn lao động được đào tạo nghề thì đến năm 2005 con số này đã lên đến hơn 21 nghìn lao động. Tuy vậy chủ yếu lại là đào tạo nghắn hạn, cơ cấu đào tạo dài hạn chỉ chiếm 31,3%. Hệ đào tạo dài hạn năm 2000 là trên 1000 người và lên 7000 lượt người năm 2006. Trong tổng số lượt người được đào tạo trong năm 2005, nữ chiếm 43,9%, dân tộc thiểu số chiếm 2,2% và người tàn tật là 2,7%.
Bảng kết quả đào tạo nghề thực tế hàng năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số
12.070
8.022
10.128
12.236
14.702
21.600
Dài hạn
1.169
1.672
2.377
3.399
5.018
6.771
Ngắn hạn
10.901
6.350
7.751
8.837
9.684
14.829
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Dương Đơn vị: người
Về ngành nghề đào tạo trong số 28 cơ sở dạy nghề có đến 16 cơ sở đào tạo nghề may, đặc biệt có đến 7 cơ sở dạy nghề đều là các trung tâm dạy nghề ngoài công lập chỉ chuyên đào tạo nghề may. Tại một số trung tâm ngoài công lập, số học viên được tuyển thấp hơn so với quy mô thiết kế trong khi các trường công lập thì số sinh viên dự tuyển lại cao gấp nhiều lần so với quy mô tuyển sinh theo thiết kế. Ví dụ, Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Liên đoàn lao động tỉnh và trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở LĐTB&XH tỉnh quy mô tuyển sinh theo thiết kế là 800 học viên nhưng đến năm 2005 mỗi cơ sở đã đào tạo trên 1600 lượt người. Trung tâm Dịch vụ việc làm 8/3 thuộc hội phụ nữ tỉnh với quy mô thiết kế là 500 học viên nhưng cũng đã đào tạo cho 3620 lượt người… Do đó cần xem xét và điều chỉnh quy mô và cơ cấu đào tạo theo nghề của các cơ sở trên địa bàn tỉnh cho phù hợp với thực tế.
Các cơ sở thuộc địa phương quản lý, nghề đào tạo dài hạn là các nghề kỹ thuật, tuy nhiên số lượng rất ít, chỉ có 580 lượt học sinh. Như vậy, các trường thuộc trung ương quản lý vẫn là nguồn cung cấp lao động có kỹ thuật tay nghề cao cho tỉnh. Các cơ sở dỵ nghề cho địa phương chỉ đào tạo nghề ngắn hạn. Trong năm 2005 có 11.469 người được đào tạo ngắn hạn trong đó có 8426 lượt người được đào tạo ngoài công lập. Trong các nghề được đào tạo, hầu như không có các nghề kỹ thuật cao như các nghề về quản trị, kinh doanh. Tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh chủ yếu là đào tạo ngắn hạn. Các nghề chủ yếu là may công nghiệp, thợ thủ công mỹ nghệ, các nghề nông lâm thuỷ sản, thú y, vận tải… bên cạnh đó cũng có một số ngành về kỹ thuật như vận hành máy móc và máy tính chiếm tỷ lệ rất thấp.
iiI. Giải pháp dạy nghề tỉnh Hải Dương.
1.Giải pháp tổng thể.
1.1. giải pháp về chính sách, cơ chế dạy nghề.
Thực hiện những chính sách nhằm thu hút các nhà đầu tư vào các ngành sản xuất để tạo đầu ra cho dạy nghề. Kết hợp với những chính sách khuyến khích các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục dạy nghề, các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động.
Thực hiện các chính sách về phát triển các làng nghề, dạy nghề, tạo cơ hội học nghề cho người lao động đặc biệt là lao động nông thôn, người nghèo, bộ đội xuất ngũ, học sinh vùng sâu vùng xa. Quy hoạch sắp xếp các cơ sở dạy nghề tư nhân theo đúng chức năng, nhiệm vụ, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh cho các làng nghề. Kết hợp với chính sách phát triển hỗ trợ cho giáo viên như tăng lương, tạo điều kiện tốt về cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao cho giáo viên và các chính sách ưu đãi khác. Phấn đấu xây dựng được đội ngũ giáo viên đủ cả về chất lượng và số lượng. Thực hiện các chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 75023.DOC