MỤC LỤC
Phần mở đầu 1
Chương I: Tổng quan về lao động 2
1.1. Tổng quan về nguồn lao động của nước ta 2
1.2. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng đội ngũ lao động và quản lý có trình độ 2
1.3. Các nhân tố tác động đến khả năng quản lý và nâng cao chất lượng lao động 2
Chương II: Thực trạng nguồn lao động nước ta hiện nay 4
2.1. Thực trạng 4
2.1.1. Cơ cấu lao động và chất lượng lao động 4
2.1.2. Việc làm, thất nghiệp và chế độ tiền lương cho lao động 9
2.1.3. Phát triển vốn nhân lực trong điều kiện hiện nay và tạo nguồn lực lao động cho tương lai 14
2.1.4. thị trường lao động trong nước trong thời gian qua và tác động của nó đến sự phát triển nguồn lao động 16
2.2. Đánh giá về công tác quản lý và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam 19
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị, định hướng nhằm tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp nước ta hiện nay 21
3.1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng, địa phương 21
3.2. Các giải pháp về việc làm, thất nghiệp, chế độ tiền lương 22
3.3. Các giải pháp đối với đào tạo nguồn nhân lực 24
3.4. Các giải pháp phát triển thị trường lao động 25
Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 28
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp để quản lý và nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khi tỷ trọng LLLĐ nông thôn chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ ba, có sự chênh lệch lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật trong cả nước, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ LLLĐ đã qua đào tạo cao nhất là 37,4%; đồng bằng sông Hồng là 34,4% và thấp nhất là Tây Bắc 13,5%. Mặc dù so với năm 2004, tỷ lệ LLLĐ đã qua đào tạo đều tăng ở các vùng nhưng mức tăng thêm ở các vùng có tỷ lệ này lớn hơn các vùng có tỷ lệ thấp dẫn đến sự cách biệt về chất lượng LLLĐ giữa các vùng có chiều hướng gia tăng.
Theo kết quả điều tra sơ bộ năm 2005 có số liệu sau: LLLĐ đã qua đào tạo nghề và tương đương là 15,22% (tăng 1,84%); trung học chuyên nghiệp là 4,3% (giảm 9,07% so với năm 2004) và cao đẳng đại học trở lên là 5,27% (tăng 0,45% so với năm 2004).
Qua kết quả điều tra cơ cấu lao động trong cả nước gắn với thực tại ở trong nước thì các doanh nghiệp trong nước đang gặp phải một số khó khăn về chất lượng lao động phổ biến hiện nay là chưa cao. Trình độ công nhân kỹ thuật phổ thông cũng chưa đáp ứng được tối đa vì thế việc phải đào tạo lại và đào tạo thêm là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên một thực tế nữa vẫn còn đang tiếp tục tồn tại hiện nay là tình trạng nhân viên kỹ thuật có tay nghề trình độ thì thiếu. Trong khi đó nhân viên kỹ thuật có tay nghề trìnhđộ thì thiếu. Trong khi đó nhân viên quản lý thì lại được đào tạo khá ồ ạt dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Vì vậyviệc quan tâm vừa nâng cao chất lượng lao động, vừa nâng cao công tác quản lý là việc làm cần thiết, một yêu cầu bức xúc trong giai đoạn đất nước ta đang trong tiến trình bước vào hội nhập hiệnnay.
2.1.2. Việc làm, thất nghiệp và chế độ tiền lương cho lao động
a) Việc làm và thất nghiệp
Theo kết quả điều tra năm 2004: lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên nói chung ở khu vực thành thị có 94,6% có việc làm và 5,4% thất nghiệp; khu vực nông thôn có 98,9% có việc làm và 1,1% thất nghiệp; Các tỷ lệ tương ứng của LLLĐ nữ là 93,5% và 6,5% (với thành thị); 98,8% và 1,2% (với nông thôn). Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thịcó 94,4% có việc làm và 5,6% thất nghiệp; khu vực nông thôn có 98,9% có việc làm và 1,1% thất nghiệp. Các tỷ lệ tương ứng của LLLĐ nữ là 93,3% và 6,7% (với thành thị); 98,7% và 1,3% (với nông thôn).
So với thời điểm 1/7/2003: Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động nói chung ở khu vực thành thị cả nước đã giảm 0,2%. Chia theo nhóm tuổi, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm bớt ở các nhóm tuổi 15-19; 25-29; 45-49 và 50-54; không thay đổi ở các nhóm tuổi 20-24; 35-39 và tăng ở các nhóm tuổi 30-34; 40-44; 55-59. Tuy nhiên, xu hướng chung vẫn là: ở nhóm tuổi càng trẻ, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ càng cao. Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị cao nhất là Bắc Bộ: 6,1%. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: 5,9%. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: 5,8%.
Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có điều đáng chú ý: LLLĐ chưa qua đào tạo có tỷ lệ thất nghiệp: 8%. Trong khi đó LLLĐ đã qua đào tạo tỷ lệ này là 1,8%. LLLĐ đã tốt nghiệp THCN có tỷ lệ thất nghiệp 4,4% LLLĐ đã tốt nghiệp CĐ, ĐH 3,8%.
Nguyên nhân thất nghiệp chủ yếu là do LLLĐ chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo là 73,7%. Đây là một tỷ lệ khá cao dẫn đến sự lãng phí lớn. Tiếp đến là do ngưoiừ lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng: 20,9%. Do hợp đồng hết hạn: 2,3%; do mất việc làm: 2,2%; do bị sa thải: 1%. Như vậy hơn 1/5 số người thất nghiệp do bỏ việc chứng tỏ sự ràng buộc không chặt chẽ trong hợp đồng lao động gây nên hậu quả xấu cho cả 2 phía.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã đạt được một số thành công quan trọng về lao động và việc làm như: Kiểm soát và điều tiết được tỷ lệ tăng lao động theo hướng tích cực (giảm từ 3,03% những năm cuối 1980, xuống còn khoảng 2,7% đầu những năm 2000); tỷ lệ lao động qua đào tạo có chuyên môn tay nghề được nâng lên (gồm 20% tổng lao động xã hội); số việc làm được tạo ra hàng năm tăng (mỗi năm có thêm khoảng 1,5 triệu người có việc làm). Tuy nhiên sự phát triển của thị trường lao động chưa đầy đủ, những chính sách về phát triển củatt lao động chưa đầy đủ, những chính sách về cơ chế lao động việc làm chưa hoàn thiện, còn nhiều nhược điểm. Người lao động không có việc làm còn chiếm một tỷ lệ khá lớn (khoảng 6%). Trình độ của người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp không cao và rất không đồng đều… Với một thực trạng như vậy khi tham gia hội nhập, chúng ta sẽ đối diện với nhiều vấn đề phức tạp.
Khi tham gia hội nhập sản xuất kinh doanh phát triển mạnh tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Tuy nhiên cũng có những thách thức và nguy cơ không nhỏ.
+ Nguy cơ thất nghiệp: nguồn lao động vẫn còn tăng khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này do tác động mạnh của hội nhập làm cho thất nghiệp trở thành một nguy cơ lớn. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ tổ chức cơ cấu lại và sa thải lao động thừa. Các doanh nghiệp nhỏ yếu kém sẽ bị phá sản.
+ Biến động của thị trường lao động: Việc mở cửa nền kinh tế sẽ làm cho tài chính tiền tệ thay đổi và biến động mạnh và khó quản lý sẽ dẫn đến thất nghiệp cơ cấu cũng tăng.
+ Sự phân hoá, phân tầng về lao động trên tất cả các mặt gia tăng. Những người có trình độ sẽ rất khó tìm kiếm và duy trì hay ôNorth Freight định được việc làm và thu nhập.
Như vậy xét trên toàn bộ nền kinh tế chúng ta phải chịu sức ép khá lớn với trình độ lao động và điều kiện hiện tại việc gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp là rất lớn.
Chúng ta xét trên cấp độ doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình hội nhập cần phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà điều cần thiết cốt lõi ở đây là phải nâng cao trình độ năng lực và chất lượng của nguồn nhân lực. Phải giải quyết tốt một số hạn chế còn tồn đọng.
+ Hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Vì người lao động ít được đào tạo bài bản, kiến thức nghè nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người chưa đáp ứng kịp nhu cầu thực tế.
+ Chi phí lao động ngày càng tăng: đó là tiền lương đòi hỏi tăng lên do tác động của đời sống xã hội bên ngoài doanh nghiệp. Từ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. Mức chi phí tăng lên còn do phải đào tạo lại lao động.
+ Đối mặt với những thay đổi về lực lượng lao động. Việc lựa chọn cơ hội cho mình đối với những người lao động giỏi sẽ diễn ra mạnh mẽ gây nên biến động lớn. Và nguy cơ mất việc cũng lớn.
+ Thiếu điều kiện nâng cao khả năng làm việc.
+ Điều kiện và môi trường làm việc hạn chế phát huy khả năng cá nhân. Điều này do cơ sở vật chất kỹ thuật chưa phát triển, những yếu kém trong hoạt động quản lý.
Một vấn đề lao động việc làm nữa mà chúng ta cũng cần bàn tới đó là lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ỏ Việt Nam. Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất là điều kiện cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn nữa. Thực tế các khu công nghiệp và khu chế xuất đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động. Tính đến 6/2004 các khu công nghiệp và khu chế xuất đã thu hút được gần 60 vạn lao động trực tiếp và khoảng hơn 1 vạn lao động gián tiếp. Hơn nữa các khu công nghiệp và khu chế xuất trên cả nước hiện nay vẫn chưa huy dộng hết công suất khi vẫn còn nhiều khu đang đivào giải toả cũng như đang tiến hành xây dựng. Dự báo trong thời tới vấn đè lao động cho các khu công nghiệp, là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, lực lượng lao động hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt nhu cầu cho các khu công nghiệp và số lao động được đào tạo là rất ít mà số lao động phổ thông lại nhiều vì thế tuy thiếu lao động trong các khu cong nghiệp, khu chế xuất nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn xảy ra. Và đặc biệt là tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Đây là các vấn đè về chất lượng lao động cũng rất cần được quan tâm.
b) Chế độ tiền lương cho công nhân
Theo quy định của Nhà nước các doanh nghiệp ngoài Nhà nước có thể lựa chọn thang lương được ban hành kèm theo Nghị định số 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ hoặc tự xây dựng hệ thống thang lương riêng.
Hiện nay một số doanh nghiệp để đảm bảo phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp họ đã tự xây dựng hệ thống thang lương riêng để đảm bảo đáp ứng đúng nhu cầu của công nhân viên trả lương theo đúng sự đóng góp của họ. Tuy nhiên để xây dựng một thang lương đúng tiêu chuẩn và hợp với năng lực lao động cũng như điều kiện lao động của các công nhân cần chú ý một số điều lưu ý:
+ Phải tham khảo dựa trên quan điểm trả lwong của người sử dụng lao động vì họ là chủ sở hữu.
+ Các hệ số mức lương thang lương phải phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật lao động.
+ Thang lương phải bảo đảm khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề, đạt thành tích tốt trong sản xuất .
+ Phải phù hợp với mặt bằng chung về lương của các doanh nghiệp cùng loại.
Nhưng một thực tế vẫn đang diễn ra hiện nay đó là mức lương và thang lương của Nhà nước chưa đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của người lao động. Chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay chỉ xấp xỉ bằng 40% giá trị sức lao động. Có nghĩa mức giá trị này theo học thuyết Mác về kinh tế thì Nhà nước còn nợ của người lao động trên 50% giá trị sức lao động. Và thực tế sinh viên mới ra trường được tuyển dụng làm thư ký cho toà án mức lương được hưởng với bậc lương 1/15 là 493.000đ thấp hơn mức thu nhập của người thuộc diện nghèo (500.000đ/tháng) mà thành phố Hồ Chí Minh vừa công bố. Như vậy nến tính trong cả nước những người có mức lương thuộc diện nghèo có thể chiếm từ 40% trở lên mà không được hưởng chính sách xoá đói giảm nghèo. Buộc người lao động này phải tự cứu sống lấy mình họ tổ chức cuộc sống gia đình không phải nguồn thu chính từ lương mà bằng các nguồn thu khác mà người ta gọi là phần mềm. Vì vậy việc tham ô tham nhũng là điều khó tránh khỏi. Và cũng từ đây sẽ làm tha hoá một số bộ phận quản lý lãnh đạo từ đó chất lượng quản lý đã kém nay lại càng kém hơn. Chế độ tiền lương diện nghèo này cũng làm kém sự thu hút nhân tài và nhân sự có trình độ tay nghề chuyên môn cao. Dẫn đến nạn rò rỉ chất xám. Tuy nhiên đây là chế độ tiền lương của công nhân và các cấp trung bình còn ở cấp cao như hoạch định chính sách tiền lương thì tiền lương đối với họ vượt xa với thực tế năng lực lao động của họ.
Cũng từ thực trạng về mức lương và tình hình sử dụng lao động mà đã làm nảy sinh tình trạng làm thêm giờ trong các doanh nghiệp và đặc biệt là làm thêm giờ quá quy định của bộ luật Lao động. Điều này thường xảy ra ở các ngành dệt may và hàng nông sản chế biến. Với những nguyên nhân khách quan như do đơn hàng có thời gian giao hàng ngắn, do tính thời vụ của sản phẩm sản xuất. Nhưng cũng còn do ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan như: do nhận thức, hiểu biết của người sử dụng lao động chưa đầy đủ về qui định pháp luật sử dụng lao động làm thêm giờ. Do người lao động không được phổ biến quy định pháp luật về làm thêm giờ. Do vai trò của công đoàn cơ sở trong bảo vệ lợi ích của người lao động còn có hạn chế. Các cuộc thanh tra làm thêm giờ của thanh tra lao động Nhà nước chưa có tác động nhiều đến chấn chỉnh vi phạm qui định pháp luật về làm thêm giờ.
Nó đã dẫn đến một số hậu quả:
+ Ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động
+ Gây nên tai nạn lao động do mệt mỏi, căng thẳng, thao tác thiếu chuẩn xác.
+ Gây ra một số tranh chấp giữa người lao động - doanh nghiệp.
Nguyên nhân của việc này cũng là do lao động phổ thông có trình độ tay nghề chưa cao, hiểu biết còn hạn chế. Đội ngũ quản lý yếu kém không có trình độ am hiểu sâu về pháp luật. Và vấn đề đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.
2.1.3. Phát triển vốn nhân lực trong điều kiện hiện nay và tạo nguồn lực lao động cho tương lai
Với dân số trên 80.902 triệu dân (2003) và có mức tăng hàng năm khoảng 1,5% trong thời gian gần đây. Điều này làm cho bộ phận dân số ở độ tuổi trẻ và số người trong độ tuổi lao động trong dân số chiếm tỷ lệ lớn. Năm 2000 tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động chiếm 55% và dự tính đến năm 2000 tỷ lệ này còn cao hơn.
Trong những năm qua, đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta đã có những bước phát triển quan trọng. Tính đến năm 2003, cả nước có 124 trường đại học và cao đẳng, 268 trường trung học, 220 trường dạy nghề và rất nhiều cơ sở dạy nghề khác. Mỗi năm có trên 150.000 người tốt nghiệp đại học cao đẳng, khoảng 120.000 người tốt nghiệp trung cấp và trên 1 triệu công nhân được đào tạo nghề dưới các hình thức khác nhau. Đó là thành tựu rất đáng kể về quy mô đào tạo và số lương người được đào tạo. Điều này cũng cho thấy chúng ta có nhiều tiềm năng để phát triển đào tạo một cách rất đa dạng và phong phú để đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho xã hội.
Tuy nhiên người lao động được đào tạo do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chất lượng đào tạo nói chung chưa cao, điều này thể hiện trong hiệu quả việc làm, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra. Về số lượng, mặc dù có sự tăng nhanh, nhưng so với yêu cầu thực tế thì vẫn chưa thể đáp ứng được. Trong tổng lao động xã hội số người được đào tạo nghề và chuyên môn vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Năm 2000 chỉ có 15,5% số người lao động được đào tạo, tỷ lệ này vào năm 2002 là 17,5% và trong năm 2004 là 21% với quy mô tốc độ tăng như vậy chúng ta khó có thể đạt được chỉ tiêu về đào tạo chuyên môn nghề nghiệp mà đại hội Đảng IX đã đề ra đó là "nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010". Như vậy trong thời gian tới ở nước ta vẫn còn một bộ phận lớn lao động chưa qua đào tạo làm việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp. Đây có thể coi là sự lãng phí lớn trong sử dụng nguồn nhân lực hiện nay. Một tình trạng nữa đang diễn ra đó là trên thế giới tại các nước tiên tiến tỷ lệ lao động qua đào tạo thoe các cấp trình độ: đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/4/10. Ở nước ta là 1/1/3,65 năm 2002. Đây là sự mất cân đối trong đào tạo tình trạng thừa thầy thiếu thợ.
Không chỉ mất cân đối trong cấp đào tạo, ngành giáo dục của Việt Nam hiện nay còn có sự mất cân đối khá lớn về ngành đào tạo. Trong 50 năm qua chúng ta đào tạo hơn 1 triệu cán bộ các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu ngành như sau: sư phạm 33,3%; khoa học kỹ thuật 25,5%; khoa học xã hội 17%; y dược 9,3%; nông nghiệp 8,1%; khoa học tự nhiên 6,8%. Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo như vậy là bất hợp lý. Là một nước nông nghiệp mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành nông nghiệp trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay trong cơ cấu đào tạo đại học của Việt Nam có đến 42,78% số sinh viên theo học khối ngành luật, kinh tế mà ít chú trọng đến các ngành điện tử, kỹ thuật, các lĩnh vực công nghệ mới, trong khi nhu cầu kỹ sư trong các ngành này cũng rất lớn. Đa số các trường dạy nghề trung tâm dạy nghề có xu hướng tập trung đào tạo các ngành nghề phổ biến như: kế toán, tin học ứng dụng, ngoại ngữ mà ít chú ý đến việc đào tạo lao động công nhân kỹ thuật, công nhân cơ khí, sửa chữa… Điều này cũng dễ giải thích bởi vì những ngành này đào tạo một cách khá dễ dàng, không đòi hỏi các trang thiết bị chuyên sâu, phòng thí nghiệm thực hành nên việc mở rộng tuyển sinh khá dễ dàng, đặc biệt là đối với các trường ngoài công lập.
Sự khác biệt giữa các vùng cũng có sự rõ rệt. Ở nông thôn số lao động không biết chữ gấp 6 lần thành thị. Các trường đại học cao đẳng chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn vì thế cơ cấu lao động được đào tạo tại cácthành phố lớn và khu vực nông thôn có sự cách biệt rõ rệt.
Tuy nhiên bên cạnh việc đào tạo còn có nhiều bất cập như vậy nhưng chất lượng lao động được đào tạo nghề cũng được đánh giá khả quan như sau:
+ Kiến thức cơ sở của nghề: khá và tốt là 40,4%, trung bình là 51,1% và yếu kém là 8,5%.
+ Kiến thức chuyên môn nghề: khá và tốt là 40%, trung bình là 48,9% và yếu kém là 11,1%.
+ Năng lực thực hành nghề: khá và tốt là 30,4%, trung bình là 58,7% và yếu kém là 10,9%.
+ Năng lực làm việc độc lập: khá và tốt là 23,9%, trung bình là 52,2% và yếu kém là 23,9%.
+ Năng lực tổ chức lao động khoa học: khá và tốt là 15,4%, trung bình là 43,1% và yếu kém là 36,4%.
+ Năng lực phân tích và giải quyết vấn đề: khá và tốt là 17,7%, trung bình là 40,1% và yếu kém là 42,2%.
+ Nưang lực thích ứng và tự điều chỉnh: khá và tốt là 39,1%, trung bình là 43,5% và yếu kém là 17,4%.
Qua phân tích cho thấy năng lực tổ chức lao động khoa học và năng lực phân tích và giải quyết vấn đề là những vấn đề còn hạn chế của học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề.
Như vậy thực trạng chất lượng lao động sẽ được cải thiện nâng cao đáng kể nhưng thực tế mức đáp ứng đủ nhu cầu công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp là vấn đề gặp nhiều khó khăn do quy mô đào tạo và cơ cấu đào tạo còn chưa hợp lý.
2.1.4. thị trường lao động trong nước trong thời gian qua và tác động của nó đến sự phát triển nguồn lao động
Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển của thị trường lao động là một yếu tố khách quan tất yếu. Sự phát triển của thị trường lao động cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển tự do kinh tế và tạo ra sự lựa chọn cho người lao động cũng như sự lựa chọn cho các doanh nghiệp. Vì đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường trong thời gian ngắn nên thị trường lao động cũng mới được phát triển trong thời gian gần đây nó có một số đặc điểm chủ yếu qua thực trạng phát triển như sau:
+Các văn bản pháp lý bảo đảm phát triển thị trường lao động chưa hoàn thiện.
+ Những bất cập ngày càng lớn giữa quy mô chung và quan hệ "cung- cầu" sức lao động trên thị trường lao động. Hiện nay cung về sức lao động đang vượt quá cầu và hàng năm tăng từ 3,2% đến 3,5%.
+ Chúng ta phải xoá bỏ sự mất cân đối, bất cập trong cơ cấu lao động cũ đã tồn tại từ nền kinh tế bao cấp, xây dựng một cấu trúc mới phù hợp hơn.
+ Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm cần phôi thai, non yếu.
+ Hệ thống định hướng nghề nghiệp, đào tạo và đào tạo lại không theo kịp với những đòi hỏi mới của sự phát triển kinh tế -xã hội, không tương thích với quá trình cải tổ khói lượng và chất lượng chuyên gia đã đào tạo, đặc biệt đối với các ngành kinh tế như: dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghiệp…
+ Hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm chỉ mới được hình thành và chưa được phân bố rộng khắp cả nước.
+ Tính cơ động của sức lao động theo nghề nghiệp và lãnh thổ còn rất hạn chế. Phần lớn cư dân chưa sẵn sàng cho cuộc sống và lao động trong điều kiện thị trường.
+ Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam phân bố hợp lý, có tới gần 80% lực lượng lao động ở nông thôn mà ở đây việc làm không đầy đủ và thất nghiệp có thể lên tới 30%.
+ Những bất cập trong chính sách và cấu trúc đầu tư, cùng với việc soạn thảo chiến lược đổi mới công nghệ không đầy đủ và sự chậm chạp dịch chuyển cấu trúc ngành kinh tế trong nền kinh tế.
+ Cùng với sự phát triển của thị trường lao động. Các loại thị trường như: tư liệu sản xuất, tài chính, bất động sản… cũng đã và đang hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Sự liên kết giữa chúng với nhau còn yếu.
+ Sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng tăng giữa các vùng lãnh thổ trên cả nước theo các chỉ số phát triển kinh tế xã hội.
+ Mức tiền công lao động thấp, sự lạc hậu giữa đồng lương thực tế của người lao động Việt Nam so với mức tiền công lao động ở các nước trong khu vực ngày càng tăng.
Từ những đánh giá thực trạng ở trên ta thấy thị trường lao động ở nước ta đang trong quá trình hình thành, hoạt động trong điều kiện kém phát triển ở thể chế điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới vừa được sinh ra.
Tuy nhiên xu thế phát triển thị trường lao động ở nước ta ngày càng mang tính khả quan hơn thể hiện ở: năm 2005 lực lượng lao động đạt 44.385 ngàn người. Năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 50,5 triệu người (chưa kể số dwis tuổi, trên tuổi có nhu cầu làm và số chưa có việc làm các năm chuyển sang). Tốc độ tăng lực lượng lao động giai đoạn 2006-2010 khoảng 2,54%/năm. Lực lượng lao động qua đào tạo khoảng 25,5% vào năm 2005 (trong đó đào tạo nghề 19%) và 40% vào năm 2010 (trong đó đào tạo nghề 26,6%).
Dự báo tổng cầu lao động trong nền kinh tế quốc dân năm 2006 khoảng 93,44 triệu lao động, trong đó thành thị chiếm 24,8%; đến năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 49,1 triệu lao động, trong đó thành thị chiếm 29,4%. Mức tiền lương tối thiểu đến năm 2010 đạt 600.000đ/tháng. Tiền lương bình quân trong các doanh nghiệp tăng 2-2,5 lần so với năm 2005. Cầu lao động ngoài nước có xu hướng tăng, thời kỳ 2006-2010 bình quân xuất khẩu lao động đạt 80.000-100.000 người/năm. Trong đó khoảng 50% là lao động có nghề.
Trong điều kiện đất nước ta hiện nay đang trên con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trong kinh tế thị trường muốn hoạt động tốt cần có 5 đặc điểm chủ yếu sau: Một là, phân phối các nguồn lực một cách có hiệu quả; Hai là, tạo ra những nguồn lực mới thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới quá trình xử lý; Ba là, thích nghi nhanh chóng và có hiệu quả trước sự thay đổi hoàn cảnh; Bốn là, duy trì sự ổn định kinh tế, tránh được những hiện tượng thất nghiệp và lạm phát cao; năm là, tạo ra hiệu quả xã hội mong muốn. Động cơ của kinh tế thị trường là lợi nhuận. Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng kinh tế tư nhân hội tụ các điều kiện cần và đủ để các quy luật kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh hoạt động bình thường. Nghị quyết TW 5 khoá IX nhận định vai trò tích cực của nền kinh tế tư nhân ở nước ta: "Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lwongj công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã họi hoá y tế, văn hoá, giáo dục…"
Như vậy kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong phát triển thị trường nói chung trong đó có thị trường lao động. Kinh tế tư nhân đã khẳng định thêm lý luận "sức lao động là hàng hoá". Đó là bước đánh dấu khởi đầu cho sự phát triển của thị trường lao động. Và vai trò của nó được thể hiện cụ thể:
+ Nó đóng vai trò to lớn trong giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Phát triển kinh tế tư nhân làm mở rộng nhanh thị trường lao động theo lĩnh vực, ngành và lãnh thổ.
+ Bản thân sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân đã làm tăng sự lựa chọn cho người lao động khi tham gia thị trường lao động.
+ Phát triển kinh tế tư nhân tạo cú hích cho việc đổi mới cơ chế quản lý lao động trong khu vực kinh tế và quản lý Nhà nước.
+ Phát triển kinh tế tư nhân tạo nên thay đổi cơ cấu xã hội, hình thành giới chủ doanh nghiệp.
+ Phát triển kinh tế tư nhân làm thay đổi các quan hệ lao động.
Như vậy phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với phát triển thị trường lao động cả về phương diện nhận thức và thực tế.
2.2. Đánh giá về công tác quản lý và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam
Lao động của chúng ta đông về số lượng nhưng chất lượng lại hạn chế do lực lượng lao động qua đào tạo chưa đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp không những thế mà cơ cấu đào tạo lao động cũng chưa phù hợp với yêu cầu thực tế và quan hệ so sánh trên thế giới.
Trước thời kỳ đổi đổi chế độ quản lý của chúng ta là tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy sau thời kỳ đổi mới và trong điều kiện phát triển hiện nay vẫn chịu sự ảnh hưởng của các quan điểm quản lý cũ. Vì thế hiệu quả quản lý không cao. Mặt khác khả năng đào tạo đội ngũ quản lý trong cơ cấu đàotạo của đất nước ta còn rất nhiều yếu kém và tồn tại. Sự đào tạo tràn lan đã cho ra một đội ngũ quản lý vừa không có trình độ cao vừa bảo thủ trì trệ.
Trước tình hình chất lượng lao động chưa cao, mà đội ngũ quản lý cũng yếu kém thì việc muốn đạt được hiệu quả tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh là điều khó khăn. Vì vậy cần nâng cao hơn nữa trình độ của đội ngũ lao động và đội ngũ quản lý lao động.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ, ĐỊNH HƯỚNG NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng, địa phương
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng, địa phương đặc biệt là tới tận doanh nghiệp để đạt mục tiêu đến năm 2010 giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50%, tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên 23-24%, tăng lao động dịch vụ lên 26-27%. Và riêng kế hoạch năm 2006 dự kiến giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 55%, tăng lao động công nghiệp, xây dựng lên 19% và tăng lao động dịch vụ lên 26%. Muốn vậy cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và thành phần kinh tế: do chuyển dịch cơ cấu kinh tế quyết định phần lớn nội dung các nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm cho nhu cầu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm cho nhu cầu lao động thay đổi theo. Muốn vậy cần phải:
- Làm tốt công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch, kế hoạch.
- Xác định rõ vai trò của các ngành, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân: Cần phát triển mạnh mẽ các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong thời kỳ sắp tới;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp, kiến nghị, định hướng nhằm tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp nước ta hiện nay.docx