Đề tài Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC TỪVIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ

LỜI MỞ ĐẦU

Chương 1: Tỷgiá và chính sách tỷgiá 1

1.1 Tỷgiá . 1

1.1.1 Khái niệm. 1

1.1.2.Các nhân tốtác động đến tỷgiá . .1

1.1.3.Các loại tỷgiá . . 4

1.1.3.1 Tỷgiá thực và tỷgiá danh nghĩa.4

1.1.3.2 Tỷgiá song phương và tỷgiá trung bình. . 5

1.1.4 Các học thuyết vềtỷgiá. 7

1.1.4.1 Học thuyết ngang giá lãi suất (Interest Rate Parity - IRP) . 7

1.1.4.2 Học thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity- PPP) . .7

1.2 Chính sách tỷgiá . 9

1.2.1 Khái niệm và mục tiêu của chính sách tỷgiá . 9

1.2.2 Phân loại chính sách tỷgiá. 10

1.2.2.1 Chính sách tỷgiá cố định . . 10

1.2.2.2 Chính sách tỷgiá linh hoạt . 13

1.2.3 Các công cụcủa chính sách tỷgiá . 14

1.2.4 Mối quan hệgiữa chính sách tỷgiá với các yếu tốkhác trong nền kinh tế. .16

1.3 Khảo sát chính sách tỷgiá của một sốquốc gia . 20

1.3.1 Phân loại chính sách tỷgiá của IMF . .20

1.3.2 Chính sách tỷgiá của Thailand . 22

1.3.3 Chính sách tỷgiá của Trung Quốc. 24

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam . 27

Kết luận chương 1 . 28

Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tỷgiá của Việt Nam trong những năm qua .

2.1 Thực trạng điều hành chính sách tỷgiá của Việt Nam từ1999- 2006 29

2.1.1 Khái quát vềbối cảnh kinh tếViệt Nam 1999 -2006 29

2.1.2 Phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷgiá của NHNN . 30

2.1.3 Tác động của tỷgiá đến nền kinh tế. 33

2.1.3.1 Chính sách tỷgiá và cán cân vãng lai . 33

2.1.3.2 Chính sách tỷgiá và cán cân vốn .39

2.1.3.3 Chính sách tỷgiá và quản lý ngoại hối . 43

2.2 Thực trạng điều hành chính sách tỷgiá từ2006 đến nay . 43

2.2.1 Bối cảnh kinh tếViệt Nam .43

2.2.2 Phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷgiá của NHNN 44

2.2.2.1 Mục tiêu của chính sách tỷgiá . .44

2.2.2.2 Các công cụ điều hành chính sách tỷgiá . 46

2.2.2.3 Diễn biến tỷgiá giai đoạn 2007 đến nay .50

2.2.3 Tác động của tỷgiá đến nền kinh tế . 53

2.2.3.1 Chính sách tỷgiá và cán cân vãng lai . . 53

2.2.3.2 Chính sách tỷgiá và cán cân vốn 56

2.2.3.3 Chính sách tỷgiá và quản lý ngoại hối 60

2.3 Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tỷgiá của NHNN 62

2.3.1 Những thành tựu 62

2.3.2 Những hạn chếvà nguyên nhân .65

Kết luận chương 2 69

Chương 3: Giải pháp điều hành chính sách tỷgiá của Việt Nam hiện nay

3.1 Chiến lược phát triển của Việt Nam 70

3.1.1 Cơhội và thách thức 70

3.1.2 Định hướng của chính sách tiền tệ .72

3.2 Giải pháp điều hành chính sách tỷgiá trong ngắn hạn .74

3.2.1 Điều hành linh hoạt tỷgiá cơbản do NHNN công bố 74

3.2.2 Cần có sựphối hợp hài hoà giữa chính sách tỷgiá với chính sách lãi suất .75

3.2.3 Sửdựng nghiệp vụthịtrường mởngoại tệmột cách thận trọng 76

3.2.4 Phát triển thịtrường ngoại tệliên ngân hàng .78

3.2.4.1 Gia tăng quỹdựtrữngoại hối quốc gia .78

3.2.4.2 NHNN cần thực hiện đúng chức năng là người mua bán cuối cùng .80

3.2.4.3 Đối với các nghiệp vụkinh doanh tiền tệ .81

3.2.5 Kiểm soát và tiến tới loại bỏthịtrường ngoại tệchợ đen 84

3.3 Giải pháp điều hành tỷgiá trong dài hạn 84

3.3.1 Điều chỉnh tỷgiá linh hoạt hơn tiến dần đến thảnổi tỷgiá 85

3.3.1.1 Loại bỏdần các công cụkiểm soát tỷgiá mang tính hành chính .85

3.3.1.2 Áp dụng tỷgiá trung bình đểxác định giá trịbản tệ .86

3.3.2 Gia tăng tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệcủa NHNN .87

3.3.3 Giám sát chặt chẽnợcông .88

3.3.4 Ổn định hoạt động kinh tế đối ngoại 91

3.3.4.1 Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động XK hàng hoá, dịch vụ .91

3.3.4.2 Thu hút và sửdụng hiệu quảnguồn vốn nước ngoài 92

3.3.5 Tham gia tích cực vào hoạt động tài chính, tiền tệtrong khu vực .96

Kết luận chương 3 .96

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf121 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2654 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa thể đánh giá mức biến động của dòng vốn này, tuy nhiên, kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, chiếm tỷ trọng lớn trong FPI thường là đầu tư vào thị trường chứng khoán, do vậy, đây là dòng vốn rất nhạy cảm với tình hình kinh tế của quốc gia nói chung và sự biến động của tỷ giá nói riêng. Biểu đồ 2.9: Biến động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) vào Việt Nam Từ 2001 đến - 2009 Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Phần còn lại của của cán cân vốn, OI, bao gồm các khoản tín dụng ngắn và dài hạn, các khoản cho vay xuyên biên (cross-border loans), các khoản tiền gửi ngân hàng và các luồng vốn khác liên quan đến thương mại xuyên biên (cross-border trades). Mặc dù khó tách riêng từng khoảng mục trên nhưng vẫn có thể thấy được rằng, với đa phần khoản mục thuộc về tiền gửi ngân hàng, và tín dụng ngắn hạn, rõ ràng đây là dòng vốn rất biến động. Số liệu cũng đã cho thấy, trong giai đoạn này OI biến động liên tục. Theo số liệu năm, OI thâm hụt ở 3 năm đầu của giai đoạn và thặng dư ở 4 năm còn lại, đặc biệt, vào năm thâm hụt lớn (năm 2000, thâm hụt 1614 triệu USD), OI kéo theo sự thâm hụt của cán cân vốn. Còn theo số liệu quí, sự biến động của OI càng mạnh mẽ, đặc biệt, sự biến động này luôn kéo theo sự tăng giảm bất thường của cán cân vốn. Biểu đồ 2.10 – Biến động cán cân vốn và tỷ giá VDN/USD từ 1999-2006 Nguồn: IMF (2009) www.cpv.org.vn, Niêm giám Thống kê Việt Nam năm 2009 Xét về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân vốn nói chung và các bộ phận của cán cân vốn nói riêng, chúng ta quan tâm hơn đến độ lớn của các giao dịch vốn mang tính ngắn hạn. Nguyên nhân là do các giao dịch vốn ngắn hạn sẽ nhạy cảm hơn, hay nói cách khác là dễ dàng đảo chiều hơn với sự biến động của tỷ giá, và ở đây, rõ ràng các dòng vốn thuộc về OI là đáng lưu tâm hơn cả. Tuy nhiên, do trong giai đoạn này, tỷ giá VND/USD tăng một chiều trong biên độ hẹp nên tác động rõ rệt của tỷ giá lên cán cân vốn là không rõ ràng. Nhìn ở hướng ngược lại, trong khi cán cân vốn tăng giảm liên tục và có những quí trong giai đoạn chuyển sang thâm hụt mà nguyên nhân là do OI biến động nhưng nhưng tỷ giá vẫn tăng đều. Như vậy, rõ ràng, trong giai đoạn này, mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân vốn là không rõ ràng mà nguyên nhân là xuất phát từ chính sách tỷ giá của NHNN. Tuy nhiên, sẽ hợp lý hơn khi nhận định về sự biến động của tỷ giá trên thị trường khi chúng ta kết hợp cả CCVL và cán cân vốn để thấy được cán cân tổng thể của Việt Nam từ đó thấy được tổng thể luồng vốn ngoại tệ vào ra Việt nam. Biểu đồ 2.11 –Biến động cán cân tổng thể và tỷ giá VND/USD 1999Q1-2006Q4 Nguồn: IMF (2009); www.cpv.org. vn Theo biểu đồ, cán cân tổng thể của Việt Nam khá biến động trong giai đoạn này, đặc biệt, có quí còn rơi vào thâm hụt. Như vậy, lẽ ra, theo đúng qui luật cung cầu, tỷ giá trên thị trường phải có những biến động tương ứng. Nhưng tỷ giá VND/USD quá ổn định. Như vậy phải chăng điều hành tỷ giá của NHNN quá tốt, luôn can thiệp đúng lúc với nguồn cung thiếu hụt và nguồn cung dư thừa trên thị trường đảm bảo cho VND luôn giảm giá nhẹ so với USD? Câu trả lời là không bởi như đã phân tích ở trên, tỷ giá tại các NHTM và trên thị trường tự do luôn chịu áp lực tăng cao hơn tỷ giá do NHNN mong đợi (trong biên độ), điều này thể thiện một sự lệch pha giữa cung và cầu. Tóm lại, nhìn ở góc độ của luồng ngoại tệ vào ra quốc gia thể hiện qua cán cân thanh toán, cụ thể là CCVL, cán cân vốn và cán cân tổng thể, biến động của tỷ giá chưa phản ảnh luồng di chuyển của ngoại tệ. Ngược lại, sự tăng lên liên tục của VND/USD như là một hệ quả cho sự thiếu hụt nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế dẫn đến tỷ giá VND/USD luôn chịu áp lực tăng giá trong dài hạn. Tuy nhiên, biên độ hẹp NHNN đặt ra trong giai đoạn này đã làm cho tỷ giá thị trường bị hạn chế về khả năng biến động chính vì vậy trong nhiều giai đoạn đã tạo ra sự lệch giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức. 2.1.3.3 Chính sách tỷ giá và quản lý ngọai hối Từ tháng 2/1999, cùng với sự thay đổi trong điều hành tỷ giá, chính sách quản lý ngoại hối cũng ngày càng được nới lỏng. Trước hết là với các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ. Nhằm giúp các doanh nghiệp linh hoạt và chủ động trong hoạt động kinh doanh chính phủ đã liên tục điều chỉnh tỷ lệ kết hối đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ theo hướng giảm dần; cụ thể, theo quyết định 80/1999/QĐ-TTg (30/8/1999), tỷ lệ kết hối là 50%; theo quyết định 61/2001/QĐ-TTg về nghĩa vụ bán ngoại tệ và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức và quyết định số 1076/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001, tỷ lệ kết hối giảm còn 40%; quyết định 61/2002/QĐ-TTg ngày 15/5/2002, theo đó các đơn vị có nguồn thu ngoại tệ chỉ kết hối 30% tổng số ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và hiện nay tỷ lệ này là 0%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước trong các giao dịch ngoại hối. Một dấu ấn quan trọng trong giai đoạn này là bằng việc công bố Pháp lệnh Ngoại hối (năm 2005), Việt Nam đã tuyên bố tự do hóa giao dịch vãng lai. Đây cũng là một trong các điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng trong lãnh vực tài chính tiền tệ. 2.2 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TỪ 2006 ĐẾN NAY 2.2.1 Bối cảnh kinh tế Việt Nam Từ 2006 đến nay, nền kinh tế Việt Nam trải qua nhiều cột mốc đáng ghi nhận. Nếu như ngày 11/1/2007, sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là cột mốc mở ra bước đường hội nhập sâu hơn và rộng hơn của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thì cuộc khủng hoảng tài chính từ nửa cuối năm 2008 là cột mốc biểu hiện cho mức độ hội nhập của Việt Nam đã đủ sâu để chịu ảnh hưởng từ biến động của nền kinh tế toàn cầu. Trong lãnh vực tiền tệ, Pháp Lệnh Ngoại Hối có hiệu lực từ 1.6.2006 đã thiết lập nền tảng pháp lý mới trong hoạt động ngoại hối và kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và chỉ số giá CPI từ 2007-2010 Năm 2007 2008 2009 2010 Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 8.5 6.2 5.3 6.7 Chỉ số giá CPI(%) 12.6 19.9 6.5 11.75 Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ kế hoạch đầu tư Năm 2006-2007, Việt Nam được WTO xếp thứ 6 trên thế giới về sự hấp dẫn đầu tư và được Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) xếp vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực. Cùng với sự hoàn thiện và thông thoáng hơn trong các chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài, kiều hối, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đặc biệt là vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tăng mạnh mẽ, góp thêm nguồn vốn vào bộ máy kinh tế đang đà tăng trưởng. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam tiếp tục bứt phá và đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm vào năm 2007, xấp xỉ 8.5%, trong bối cảnh kinh tế tương đối ổn định. Sang năm 2008, luồng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối tiếp tục tăng mạnh mẽ trong nửa đầu năm, nền kinh tế tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá tốt. Tuy nhiên, lạm phát cao (xuất hiện từ cuối năm 2007) đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Cùng lúc này, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra từ nửa cuối năm 2008 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế trong nước đồng thời đẩy lạm phát lên cao hơn, gây ra tình trạng bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô. Cũng trong năm 2008, tình trạng nhập siêu lên đến đỉnh điểm do hệ quả của một thời gian dài lạm phát trong nước cao hơn tương đối so với lạm phát nước ngoài mà Việt Nam đồng không có mức giảm giá tương ứng. Hệ quả là tăng trưởng GDP trong nước giảm chỉ còn 6.2%, lạm phát ở mức phi mã 19.9%. Từ năm 2009, trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế như vốn đầu tư trực tiếp, kiều hối đều giảm mạnh, đáng quan tâm là sự rút lui của nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Chính lúc này, chính sách kích thích kinh tế của chính phủ huy động các nguồn lực trong nước đã góp phần đưa nền kinh tế vượt qua khỏi “đáy” của khủng hoảng và đạt mức tăng trưởng khá tốt ở mức 5.32%, lạm phát trong tầm kiểm soát ở mức 6.52% vào cuối năm 2009 và tiếp tục đạt được những con số tăng trưởng lạc quan trong 2 quí đầu năm 2010. 2.2.2 Phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của NHNN 2.2.2.1 Mục tiêu chính sách tỷ giá Đây là giai đoạn kinh tế thế giới cũng như kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn bởi cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, diễn biến trên thị trường rất phức tạp và khó lường, vì thế tùy từng năm mà Chính phủ đặt ra những mục tiêu ưu tiên khác nhau: • Năm 2007, mục tiêu ưu tiên của Việt Nam là kiểm soát lạm phát. Trong bối cảnh kinh tế và thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động khó lường, NHNN sẽ vẫn duy trì chế độ tỷ giá gần như là cố định như trong giai đoạn trước đây để nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát của mình. • Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm. • Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững. Trong các báo cáo của NHNN trong giai đoạn này, NHNN đều tuyên bố Việt Nam đang theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt có điều tiết. Bảng 2.2: Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 Thời gian Mục tiêu của chính sách tỷ giá Phân loại Chế độ tỷ giá Việt Nam của IMF* Năm 2006 Kiểm soát lạm phát Chế độ tỷ giá cố định thông thường, biên độ giao dịch ± 0.25 % Năm 2007 Kiểm soát lạm phát Chế độ tỷ giá cố định thông thường, biên độ giao dịch ± 0.5 %, sau đó nâng lên ± 0.75 % Năm 2008 6 tháng đầu năm 6 tháng cuối năm • Kiểm soát lạm phát • Ngăn chặn suy giảm kinh tế • Chế độ tỷ giá cố định thông thường, biên độ giao dịch ± 1 % • Chế độ tỷ giá cố định thông thường với biên độ ± 2 %, sau đó nâng lên ±3 % Năm 2009 và 2010 Ngăn chặn suy giảm kinh tế và kiểm soát lạm phát Chế độ tỷ giá cố định thông thường với biên độ dao động ±5%, sau đó giảm xuống ±3 % (*) theo phân loại của IMF 2.2.2.2 Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá. Để thực hiện mục tiêu của mình ngoài việc can thiệp vào thị trường ngọai hối bằng dự trữ chính thức, Chính phủ còn sử dụng một loạt các công cụ pháp lý khác. 9 Dự trữ bắt buộc Từ nửa đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 8% lên 10% tháng 7 năm 2007 và 10% lên 11% tháng 2 năm 2008. Đây đều là những thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng mạnh, nhập siêu lớn và dòng vốn FDI cũng như kiều hối đổ về nước nhiều. Quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ của NHNN đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ của các NHTM ra thị trường. Mặt khác, tăng dự trữ bắt buộc cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của các NHTM kéo theo sự gia tăng lãi suất cho vay ngoại tệ qua đó tác động làm giảm cầu vốn ngoại tệ trên thị trường. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn so với nội tệ cũng khuyến khách hàng vay vốn bằng VND. Đồng thời, việc duy trì hoặc hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ có tác dụng tích cực hơn trong việc chống lạm phát. Tháng 3 năm 2009, NHNN quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ xuống còn 7%. Trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang căng thẳng, quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng giảm lãi suất cho vay USD qua đó khuyến khích khách hàng vay bằng USD. Tuy nhiên, việc NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ lớn hơn nội tệ (7% và 5%) làm cho lãi suất vay VND vẫn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp. Từ đó có thể thấy quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc không có tác dụng nhiều trong việc điều hòa cung cầu ngoại tệ trên thị trường. 9 Quy định biên độ xác định tỷ giá kinh doanh Sau gần 5 năm (từ 2002 đến 2006) duy trì biên độ tỷ giá ở mức +/-0,25%, đầu năm 2007 Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng biên độ thêm +/-0,25% lên mức +/-0,5% với mục đích từng bước làm cho tỷ giá sát với thực tế của thị trường hơn. Với đà tăng tỷ giá ở năm 2006 (năm 2006 tỷ giá VND/USD tăng 1,38%) việc nới rộng biên độ ở đầu năm được kỳ vọng là sẽ làm cho tỷ giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên, từ 2007, luồng vốn FDI tăng đột biến, tăng gấp 5 lần so với năm 2006, cùng với lượng kiều hối chuyển về lớn đã gây áp lực tăng giá VND. Do đó, việc điều chỉnh tăng biên độ dao động ở đầu năm đã gây tác dụng ngược so với kỳ vọng ban đầu. Đầu năm 2008, NHNN đã tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá lên +/- 1%, tăng thêm +/- 0,25% so với tháng 12 năm 2007. Điều đáng chú ý là trái ngược với “truyền thống” duy trì tương đối lâu biên độ tỷ giá, lần này khoảnh cách giữa 2 lần điều chỉnh chỉ là 2 tháng (từ 24/12/2007 đến 7/3/2008). Việc liên tiếp tăng biên độ giao dịch tỷ giá trong bối cảnh VND tăng giá so với USD và USD rớt giá so với các ngoại tệ khác trên thế giới đã làm cho tỷ giá VND/USD chịu thêm áp lực tăng giá. Trên thực tế từ tháng 12 năm 2007 đến đầu tháng 4 năm 2008 VND trên thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng đều tăng giá qua đó góp phần giảm bớt giá trị nhập siêu. Tuy nhiên đi kèm với việc nới rộng biên độ tỷ giá, như đã đề cập ở phần dự trữ bắt buộc, NHNN cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ trong thời gian này. Tháng 2 tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tháng 3 tăng biên độ tỷ giá cho thấy sự thiếu nhất quán của các công cụ tiền tệ. Cụ thể, tháng 2 năm 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 1% làm giảm sức ép lên giá của VND và việc tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá lên +/-1% nhằm gia tăng áp lực cho VND giảm giá. Nhưng trong bối cảnh USD có xu hướng giảm từ cuối năm 2007 đến thời điểm này thì việc tăng biên độ giao dịch chỉ có tác dụng làm tăng giá VND nhanh hơn. Ngược lại nếu NHNN tăng biên độ tỷ giá để tạo cơ hội cho VND tăng giá nhằm giảm bớt áp lực nhập siêu thì giữa công cụ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá đã có mâu thuẫn. Để khắc phục tình trạng căng thẳng ngoại tệ như đã nói trên, ngày 24 tháng 3 năm 2009 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD từ +/- 3% lên mức +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sau khi biên độ giao dịch tỷ giá được điều chỉnh lên mức +/-5%, các NHTM đã điều chỉnh tỷ giá lên mức kịch trần, thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị trường qua đó thu hút được một lượng khách hàng bán lại USD cho mình và hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ ra khỏi ngân hàng, khắc phục một phần nào tình trạng thiếu cung ngoại tệ. Với một loạt các điều chỉnh về biên độ cũng như lãi suất ngoại tệ phối hợp cùng các biện pháp khác, thị trường ngoại tệ đã bắt đầu có dấu hiệu bình ổn. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình trạng căng thẳng ngoại tệ lại bùng lên. Những diễn biến kinh tế tiêu cực này đã làm cho thị trường ngoại tệ căng thẳng trở lại bất chấp những nỗ lực từ đầu năm của Chính phủ. Trước tình hình này, ngày 26 tháng 11, NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá công bố lên 17980VND/USD, tăng 5,4% so với ngày hôm trước,đồng thời cũng thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%. Đây là một sự can thiệp mạnh của NHNN vào tỷ giá với kỳ vọng có thể thu hẹp khoảng cách tỷ giá chính thức và tự do, qua đó bình ổn thị trường. Tuy nhiên các biện pháp này được đưa ra quá muộn và trong hoàn cảnh các ngân hàng vẫn thiếu nguồn cung USD buộc một số doanh nghiệp phải mua USD ngoài thị trường tự do nên các điều chỉnh trên vẫn chưa có tác dụng hạ nhiệt thị trường ngoại tệ trong năm 2009. 9 Công cụ lãi suất Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 NHNN chính thức bỏ trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân. Quyết định này đã tạo điều kiện cho các NHTM tăng lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân cho phù hợp với thị trường và xu hướng quốc tế. Trong năm 2007 và 2008, nguồn cung ngoại tệ tăng đột biến, việc gia tăng lãi suất USD đã góp phần làm tăng lượng USD tiền gửi, giảm bớt áp lực tăng giá của USD và cũng không gây thêm lạm phát do giảm bớt lượng tiền Đồng tung ra mua USD. Ngày 1 tháng 2 năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất cơ bản VND xuống còn 7%. Sự kết hợp giữa hạ lãi suất cơ bản và chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND đối với doanh nghiệp trong khi lãi suất USD vẫn ở mức cao đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ thay vì vay USD đã làm tăng cầu mua USD. Sự bất cân xứng giữa nhu cầu của doanh nghiệp và cung ngoại tệ của các ngân hàng đã gây ra tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại tệ. Để hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp và người dân cũng như điều hòa cung cầu ngoại tệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng, Chính phủ đã yêu cầu các NHTM Nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ. Lãi suất cho vay giảm từ 6- 6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 1/6/2009; lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kể từ ngày 1/6/2009. Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay ngoại tệ như các NHTM Nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Việc cắt giảm mạnh lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ đã có tác động giảm áp lực thiếu cung và dư cầu trên thị trường ngoại tệ, nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang vay USD thay vì VND. 9 Qũy dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng qua các năm , đặc biệt trong năm 2007 dự trữ ngoại tệ đạt gần 50% giá trị xuất khẩu, tăng hơn 75% so với dự trữ ngoại tệ năm 2006. Điều này chứng tỏ các năm qua Ngân hàng Nhà nước đã mua một lượng USD đáng kể của thị trường qua đó góp phần giảm bớt áp lực tăng giá VND. Tuy nhiên trong bối cảnh lạm phát tăng cao, giá trị nhập siêu lớn như năm 2007 thì việc NHNN bơm VND vào thị trường mua USD để kìm hãm sự tăng giá của VND là không hợp lý. Việc cố gắng giữ một tỷ giá có lợi cho xuất khẩu đã làm trầm trọng thêm vấn đề nhập siêu và lượng lớn VND cung ra thị trường làm tăng lạm phát. Trong năm 2009, mặc dù NHNN đã có những hỗ trợ cho các ngân hàng về nguồn cung ngoại tệ nhưng không đủ để xoa diu tình trạng thiếu cung của các ngân hàng. Ngoài ra phản ứng của NHNN về việc hỗ trợ cung ngoại tệ cho các NHTM chậm, chỉ can thiệp khi tình trạng cung cầu ngoại tệ trở nên trầm trọng nên tác dụng của những can thiệp này lên thị trường không thật sự mạnh vì lúc đó căng thẳng thị trường đã lên đỉnh điểm không dễ gì có thể hạ nhiệt. 2.2.2.3 Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2007 đến nay Dưới tác động của các công cụ điều hành chính sách tỷ giá của Chỉnh Phủ, giai đoạn năm 2007 đến 2010 chứng kiến sự biến động liên tục của tỷ giá hối đoái. Biểu đồ 2.12: Diễn biến tỷ giá VND/USD từ 1/2007 đến 12/2010 Nguồn: NHNN TP. Hồ Chí Minh và tổng hợp của nhóm tác giả Khác với giai đoạn trước, từ năm 2007 đến nay, biểu đồ tỷ giá VND/USD chuyển biến liên tục và đầy kịch tính. Từ cuối năm 2006, lần đầu tiên trong điều hành tỷ giá, các NHTM niêm yết tỷ giá VND/USD ở mức thấp nhất (giá sàn). Nguyên nhân của hiện tượng này là nguồn cung USD tăng vọt chủ yếu từ nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Tỷ giá giảm làm gia tăng nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, cán cân thương mại bị thâm hụt. Để cải thiện cán cân thương mại, NHNN buộc phải điều chỉnh tỷ giá. Về lý thuyết, NHNN có thể (1) can thiệp thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc (2) điều chỉnh tỷ giá do NHNN công bố hằng ngày. Thực tế, những ngày đầu năm 2007, NHNN đã tăng cường mua vào USD để gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên mặt trái của việc làm này là chỉ số lạm phát có dấu hiệu gia tăng do cung tiền tăng lớn. Lúc này, NHNN buộc phải sử dụng chính sách can thiệp trung hòa thông qua nghiệp vụ thị trưởng mở (OMO), nhưng do cầu vốn trên thị trường trong giai đoạn này quá lớn, đấu thầu trái phiếu với mức lãi suất 7%/ năm không thành công như mong đợi. Điều này có nghĩa, NHNN không thể chủ động trong thu hồi tiền từ lưu thông. Nguy cơ lạm phát từ cung tiền tăng cao. Chính vì vậy, cuối tháng 3/2007, NHNN đã chủ động nâng tỷ giá giao dịch bằng cách gia tăng tỷ giá công bố. Đến cuối tháng 4/2007, trước nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các công ty đầu tư nước ngoài đã làm cầu USD tăng vọt, tỷ giá VND/USD lại chạm trần. Những tháng cuối năm, tỷ giá làm giảm mạnh mà nguyên nhân của nó cũng chính là từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản của Việt Nam. Đối phó với áp lực giảm giá USD, NHNN đã nới rộng biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.5% lên +/- 0.75%. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng năm 2007 cả năm chỉ tăng 0.08%. Sang đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007. NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/- 1%, +/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091 VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD (giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên 2000 đồng. Những biến động bất lợi từ các yếu tố nội sinh lẫn ngoại sinh đã làm tỷ lệ lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 tăng vượt trội, chỉ số CPI có thời điểm trên 20%. Để kiềm chế lạm phát, NHNN buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông như: phát hành 20.300 tỷ VND trái phiếu bắt buộc, giảm cho vay kinh doanh chứng khoán, kiểm soát cho vay đầu tư bất động sản, điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 14%/ năm xuống còn 7.5%/ năm và buộc các NHTM không được kinh doanh quá 150% lãi suất cơ bản. So với năm 2007, VND bị mất giá 1,68% Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá mua bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng bằng nhau và tăng kịch trần biên độ cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500 VND/USD. Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNoi dung de tai chinh sach ty gia_Thao.pdf
Tài liệu liên quan