MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. Lý luận chung về đổi mới công nghệ. 3
1. Thực chất của đổi mới công nghệ. 3
2. Vai trò của đổi mới công nghệ. 7
3. Phương hướng chủ yếu của đổi mới công nghệ trong công nghiệp 8
a. Cơ khí hoá, tự động hoá đồng bộ Điện tử và tin học: 8
b. Khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng mới, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng truyền thống, sử dụng rộng rãi điện năng cao sản xuất công nghiệp. 8
c. Tạo ra những vật liệu mới để đáp ứng nhu cầu hàng ngày càng cao về phát triển sản xuất và đời sống. 9
d. Công nghệ sinh học: 10
e. Đối với tư duy lý luận, khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội trong đó có khoa học kinh tế 10
II. Thực trạng đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may 10
1. Thực trạng về đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may 10
2. Những thành tựu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 14
3. Những hạn chế và nguyên nhân. 16
a. Những hạn chế đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 16
b. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế. 18
III- Giải pháp đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may. 21
1. Các giải pháp về vốn. 21
a. Giải pháp tạo nguồn để đổi mới công nghệ 21
b. Phát triển hình thức thuê mua tài chính. 22
2. Khuyến khích liên doanh, hợp tác giữa các doanh nghiệp dệt may với các tổ chức nghiên cứu triển khai. 22
3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dệt may. 23
4. Phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới công nghệ dệt may 24
5. Những biện pháp của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho đổi mới công nghệ dệt may: 24
KẾT LUẬN 28
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong 1 giây.
Điện tử và tin học đang đưa lại những biến đổi có tính chất cách mạng trong lĩnh vực sản xuất vật chất, đưa loài người bước vào kỷ nguyên văn minh tin học.
b. Khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng mới, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng truyền thống, sử dụng rộng rãi điện năng cao sản xuất công nghiệp.
Do tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ do yêu cầu cần phải khai thác sử dụng hợp lý nguyên liệu và do sự hạn chế của nguồn năng lượng truyền thông (than, dầu mỏ, nguồn nước,,, ) cho nên ngày nay trên thế giới và ngay cả các nguồn năng lượng mới năng lượng sạch, (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử, năng lượng thuỷ triều, năng lượng sinh khí) vào mục đích phát điện vào mục đích công nghệ. Các nguồn năng lượng mới tuy chưa đóng góp đáng kể vào tổng khối lượng năng lượng được sản xuất ra nhưng nó có ý nghĩa lớn với tư cách là nguồn bổ sung đặc biệt trong trường hợp xa đường dây tải điện hoặc cần phải có một nguồn cung cấp độc lập với lý do sử dụng tiện lợi
Điện được dùng vào sản xuất kinh doanh được thực hiện theo 2 hướng:
- Dùng điệm làm động lực chạy máy
- Dùng điện vào mục đích công nghệ. Đó là quá trình biến đổi điện năng thành những dạng năng lượng khác (nhiệt năng, hoá năng, từ năng) để sử dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh công nghiệp.
Ví dụ: dùng điện năng để luyện kim trong trường hợp đòi hỏi kim loại phải đạt tới nhiệt độ cao, mà các phương pháp thông thường đạt tới, phải giữ chế độ nhiệt ổn định, bảo vệ vật liệu đun nóng hoặc chế phẩm khỏi tác động của chất có hại. Nhờ vậy, có thể thu được kim loại màu kim loại hiếm quý với trình độ tinh khiết cao. Cần tính toán hiệu quả kinh tế giữa việc dùng điện năng và các dạng năng lượng khác vào mục đích công nghệ.
c. Tạo ra những vật liệu mới để đáp ứng nhu cầu hàng ngày càng cao về phát triển sản xuất và đời sống.
Trong khoảng 40 năm lại đây, các vật liệu mới đã xuất hiện với chủng loại tính chất vô cùng phong phú nhằm bổ sung thay thế cho vật liệu truyền thống, đáp ứng các nhu cầu cao của kỹ thuật hiện đại mà vật liệu tự nhiên, vật liệu truyền thống không thể đáp ứng được. Đó là các vật liệu có thể làm việc được trong các điều kiện cực đoan về nhiệt độ, áp suất, là các chất bán dẫn mà thiếu chúng không thể nói đến máy tính điện tử như hiện nay, là vật liệu siêu dẫn sẽ được sử dụng rộng rãi làm biến đổi tận gốc lĩnh vực phát điện, cấp điện, tin học, là vật liệu gốm vừa thay thế kim loại. Động cơ làm bằng vật liệu gốm vừa tiết kiệm năng lượng, vừa bền, có thể hoạt động liên tục trong nhiều năm không cần sửa chữa.
Chất dẻo đang trên đà phát triển nhanh dựa vào tính năng ưu việt là tiêu thụ ít năng lượng trong quá trình chế biến trọng lượng nhẹ, chịu được ăn mòn và gia công đơn giản.
d. Công nghệ sinh học:
Công nghệ sinh học đang đi vào giai đoạn phát triển mới, công nghệ sinh học hiện đại. Đặc điểm nổi bật của công nghệ sinh học hiện đại là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của công nghệ gen. Công nghệ gen kết hợp với công nghệ tế bào và công nghệ vi sinh đã đưa đến cho công nghệ hiện địa những khả năng mới cực kỳ to lớn. Đó là việc tại ra sản phẩm mới sản phẩm có chất lượng cao không gây ô nhiễm….Công nghệ sinh học có những ưu điểm chung như: chỉ sử dụng các tài nguyên tái tạo, có thể thực hiện được ở nơi áp suất vừa phải, không gây tổn phí nhiều năng lượng, không gây ô nhiễm môi trường, có thể thu được nhiều sản phẩm với khối lượng lớn hơn rất nhiều so với các phương pháp sản xuất trước đó.
e. Đối với tư duy lý luận, khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội trong đó có khoa học kinh tế
Khoa học kinh tế xây dựng căn cứ khoa học cho việc hoạch định, cụ thể hoá các chính sách về cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế
II. Thực trạng đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may
1. Thực trạng về đổi mới công nghệ trong công nghiệp dệt may
Sản phẩm dệt may xuất khẩu từ lâu đã được coi là mặt hàng mũi nhọn của nước ta, có thể cạnh tranh trong hội nhập thị trường khu vực và quốc tế, đã đứng vững trên thị trường Mỹ, các nước EU, Nhật Bản đang mở rộng thị trường ra nhiều nước và khu vực khác. Việc hội nhập WTO cũng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các nước nguồn vốn mới tiếp cận các công nghệ kỹ thuật cao, các phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển như: Mỹ, EU, Nhật Bản… Chỉ khi nào chúng ta tiếp cận những công nghệ của ta mới có cơ hội nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề cho người lao động, nâng cao năng suất tiết kiệm chi phí rút ngắn chu kỳ làm ra sản phẩm đồng thời tạo ra sản phẩm mới đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về chất lượng mẫu mã của các nước nhập khẩu.
Ngành dệt may vốn có những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn. thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia, Hàn Quốc….Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung thay thế 1500 máy dệt, không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Hiện nay, ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất đổi mới thiết bị coi dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, Complet, hệ thống giặt là… nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đặt kim ngạch cao nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài.
Hàng may mặt nhìn chung đã được đổi mới khá nhiều về thiết bị công nghệ, chất lượng sản lượng sản phẩm và giá thành đã có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực để đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp mới chỉ dành tương đương 3% doanh thu một năm cho đổi mới công nghệ. Theo kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp dệt may tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng hồ thuộc thế hệ từ năm 80 của thế kỷ 20, 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu,53% doanh nghiệp phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu của nước ngoài, chỉ có 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Điều này cho thấy, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp dệt may khá chậm, mức đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 3% doanh thu / 1năm. Trung bình 1doanh nghiệp đầu tư khoảng 5 tỷ đồng / năm cho đổi mới công nghệ, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiết máy móc phần cứng.
Cơ hội đang rộng mở cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được xuất tự do sang Mỹ, EU và các nước khác khi Việt Nam gia nhập WTO. Song để tận dụng được cơ hội này không phải là đơn giản. Thực trạng cho thấy khả năng cạnh tranh của hàng dệt may còn kém mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là công nghệ, thiết bị còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu, theo thông tin từ bộ khoa học và công nghệ cho biết phần lớn các doanh nghiệp dệt may đang sử dụng những công nghệ kéo sợi của Trung Quốc, ấn Độ từ những năm 1970 - 1975 chưa kể có những máy dệt cũ đã có từ cách đây 100 năm hiện vẫn được sử dụng. Các thiết bị hiện đại của Đức, Thuỵ Sỹ, Italia, Pháp…. mới chiếm khoảng 30 - 35%. Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Điều có thể nhận thất ngay từ đầu, từ lúc mua sắm dây chuyền "thiết bị mới", nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến, chẳng hạn, năng suất lao động của Công ty dệt Phước Long chỉ đạt 10.390m vài/1 lao động/1năm, trong khi một doanh nghiệp với dây chuyền sản xuất mới và hiệu quả nhất Việt Nam hiện đạt 36.230m/lao động/năm thì vẫn còn thua xa mức bình quân ở Australia là 48.000m vải/lao động/năm.
Một thực tế khác là do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vì không biết trình độ công nghệ chung trên thế giới đến mức nào mà chỉ so với ta thấy tiến bộ hơn rất nhiều và các doanh nghiệp "hí hửng" mua về. Đến khi sản xuất, phải cạnh tranh trên thị trường thì mới "ngã ngữa" rằng công nghệ vừa mua quá lạc hậu so với thế giới. Và "câu chuyện" về việc hô hào tiếp tục đổi mới, cải tiến lại diễn ra. Trên thực tế dây chuyền vừa mua về chưa thu được đồng vốn nào thì lấy gì mà đổi mới. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với những doanh nghiệp dệt may Nhà nước, là nơi tiêu "tiền chùa" và công nghệ càng lạc hậu thì càng "có lợi" cho kẻ đầu cơ thông qua việc mua. Tình trạng lạc hậu công nghệ và dây chuyền sản xuất cũng xảy ra phổ biến ở c ác doanh nghiệp tư nhân vì thiếu thông tin. Một số trường hợp công nghệ lúc mua là loại tiên tiến nhất nhưng do xác định công nghệ xuất quá lớn so với khả năng nguyên liệu lúc bấy giờ cho nen 10 - 15 năm vẫn chưa thu hồi được vốn, không có tiền đổi mới công nghệ nên thành lạc hậu.
Hiện nay trong đầu tư, các doanh nghiệp dệt may chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công nghệ hàm chứa cả 4 yếu tố: thiết bị, con người, thông tin và thiết chế. 4 yếu tố này có đồng bộ thì mới phát huy được tác dụng của công nghệ còn nếu chỉ chú trọng đến thiết bị thôi thì chưa thể coi là đổi mới công nghệ được. Thiết bị chỉ đem cho doanh nghiệp từ 40-50% năng lực sản xuất, thông tin vè công nghệ thì rất sơ sài, con người thì không đào tạo đến nơi đến chốn, còn thiết chế quản lý, mua bán chuyển giao công nghệ thì quá lỏng lẻo, trong khi các yếu tố này nhiều lúc còn quan trọng hơn thiết bị. Vì không thấy được các yếu tố phần mềm của công nghệ (thông tin, con người, thiết chế) cho nên các doanh nghiệp rất coi nhẹ chuyển giao công nghệ. Hiện tại có tới 95% chuyển giao là do các Công ty mẹ ở nước ngoài chuyển cho Công ty còn đầu tư ở Việt Nam. Số tiền chi phí chuyển giao công nghệ từ các Công ty Việt Nam trả cho Công ty nước ngoài là rất ít. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam rất ít thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. Đây chính là một cản trở rất lớn cho sự phát triển. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính có hạn, việc tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn rất khó khăn. Ngoài ra, thị trường công nghệ Việt Nam còn nhiều bất cấp, 70% ý kiến các doanh nghiệp cho rằng luật lệ mua bán công nghệ không rõ ràng, nghiêm minh; 57,7% ý kiến khác cho biết, các doanh nghiệp không muốn mua tri thức công nghệ trong nước do chất lượng không đảm bảo, chi phí chuyển giao cao, công nghệ không ổn định.
2. Những thành tựu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Cả nước hiện có trên 1000 doanh nghiệp dệt may trong đó có khoảng 700 doanh nghiệp lớn làm hàng xuất khẩu. Trong số trên 70 doanh nghiệp Nhà nước xuất ngành dệt may đã có trên 40 đơn vị áp dụng và được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001: 2000, bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp dệt may lớn và cả các đơn vị nghiên cứu thử nghiệm như Viện Kinh tế kỹ thuật dệt may. Hàng may mặc nhình chung đã được đổi mới khá nhiều về thiết bị, công nghệ do đó chất lượng sản phẩm và giá thành có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực để đẩy mạnh xuất khẩu. Sản phẩm tơ tằm được coi là mặt hàng có triển vọng mang lại giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn cho Việt Nam trong những năm tới. Khả năng cạnh tranh của tơ Việt Nam chỉ kém tơ Trung Quốc, trong khi đó lụa lại có chất lượng cao hơn Trung Quốc (do không pha ni lon). Nhìn chung, để phát huy những thế mạnh sẵn có đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và uy tín trên thị trường quốc tế đầu tư cho đổi mới công nghệ của ngành dệt may là một hướng đi đứng đắn và rất cần thiết. Để thực hiện được mục tiêu cung ứng 50-60% nguyên phụ liệu trong nước theo chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may đến năm 2010, thì việc trước tiên là các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động nhập khẩu thiết bị và đổi mới công nghệ. Thực trạng của ngành trong những năm gần đây cho thấy, những doanh nghiệp có mức đầu tư lớn về thiết bị và công nghệ thì việc cung ứng nguyên phụ liệu đã có được một bước chuyển biến tốt, ít nhất là đã đảm bảo được cho việc cung ứng nội bộ. Đặc biệt, qua mỗi lần triển lãm, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có dịp tiếp cận những công nghệ mới và ký kết được các nguồn cung ứng nguyên phụ liệu phục vụ cho chiến lược phát triển ngành. Trong 10 năm qua, các doanh nghiệp dệt may đã đầu tư và đổi mới công nghệ khá nhiều 50% thiết bị chế biến bông đã được nhập mới từ Mỹ. Khâu kéo sợi đã tăng tới gần 2 triệu cọc sợi nhờ sử dụng các thiết bị có xuất xứ từ Tây Âu, trong đó có những dây chuyền vào loại hiện đại nhất thế giới hiện nay như dây chuyền 12.000 cọc sợi kéo chỉ khâu của Công ty dệt Phong Phú. Đánh giá về triển vọng phát triển công nghệ của ngành dệt Việt Nam, bà Judy Wang, Chủ tịch Công ty Ycrkers trade và Maketing Service (Hồng Kông), cho rằng, trong những năm vừa qua, thị trường thiết bị và công nghệ dệt may của Việt Nam đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên,doanh nghiệp Việt Nam tập trung chủ yếu vào công nghệ may nên thị trường cho ngành dệt còn tương đối nhỏ. Tuy vậy, với chiến lược phát triển và chủ động trong việc cung cấp nguyên phụ liệu, trong vài năm tới, thị trường công nghệ và thiết bị ngành dệt sẽ thực sự bùng nổ và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà cung cấp nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh doanh. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội để mua được các loại thiết bị phục vụ cho quá trình đổi mới công nghệ.
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ngày càng tăng. Hai thị trường lớn là EU và Mỹ đang có nhiều thuận lợi đối với mặt hàng này. Việc EU, một thị trường chiếm khoảng 40% xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vừa chấp nhận tăng thêm hạn ngạch cùng với thị trường Mỹ cũng đang có chiều hướng thuận lợi khiến cho ca cs doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang thực hiện hàng loạt giải pháp triển khai nhanh mô hình liên kết sản xuất để khai thác tối đa các đơn hàng vào Mỹ, EU. Bên cạnh việc năng động chủ động tìm thị trường, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phấn đấu đặt mục tiêu tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, hấp dẫn về mẫu mã và mang tính ổn định. Công ty dệt may Thắng Lợi đã đầu tư gầ 100 tỷ đồng cho dây chuyền kéo sợi, cotton, đầu tư thay thế thiết bị công nghệ dệt để trở thành trung tâm in hoa lớn nhất toàn ngành. Công ty may Phương Đông đã đầu tư nâng cao công nghệ để đưa tỷ lệ hàng bán FOB từ 5% lên đến 80% tổng doanh thu. Công ty dệt may Huế, Công ty dệt Phong Phú cũng đang là những đơn vị đi đầu trong đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính phủ đã cho phép xây dựng 11 cụm dệt may ở các địa phương và có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất vốn vay cho các doanh nghiệp trong ngành. Đồng thời, chính phủ thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp khi cần thiết để mua máy móc thiết bị ở nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp ở những thị trường mới, thực hiện nhiều hoạt động xúc tiến thương mại khác để hỗ trợ doanh nghiệp.
3. Những hạn chế và nguyên nhân.
a. Những hạn chế đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Gia nhập WOT, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước bài toàn nản giải, đó là vấn đề đổi mới công nghệ. Theo thống kê cho thấy, có đến 70% máy móc, thiết bị có dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp trong nước thuộc thế hệ những năm 50 - 60 của thế kỷ trước, 75% thiết bị đã hết khấu hao và 50% là đồ tân trang. Thiết bị hiện đại chỉ ở mức 10%, trung bình chiếm 38%, còn lại lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 50%. Tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Đây là một tỷ lệ quá thấp so với các nước trong khu vực như ấn Độ 5%, Hàn Quốc 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị của Việt Nam hàng năm cũng chỉ đạt 8-10%, trong khi ở các nước trong khu vực có tỷ lệ tương ứng là 15% - 20%. Còn có một sự khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp dệt may Việt Nam với doanh nghiệp thế giới. Trong khi doanh nghiệp nước ngoài quan tâm hàng đầu đến khoa học công nghệ, thị trường thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm tới cơ chế chính sách. Điều này cho thấy, thông tin về kỹ thuật và công nghệ còn ít được doanh nghiệp quan tâm, trong khi đây là những thông tin phục vụ trực tiếp cho sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Hầu hết các dự án đang triển khai của các nhà máy, kể cả một số dự án đầu tư mới để tăng năng lực sản xuất cũng bị ngưng lại, thậm chí chủ đầu tư đàm phán xong giá cả nhưng cũng không dám ký hợp đồng, có hợp đòng rồi cũng không dám mở L/C để triển khai sản xuất. Do việc tiêu thụ sản phẩm của ngành dệt hiện đang khó khăn nên chuyện mua thiết bị mở rộng công suất và đổi mới công nghệ cũng không được doanh nghiệp chú ý.
Theo khảo sát gần đây cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch ngoài. Đặc biệt, ngành dệt may thiếu thông tin nghiêm trọng, trong khi ngành này rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị… nhưng hầu như chưa có. Hiện nay, phương thức đổi mới công nghệ được sử dụng nhiều nhất là nguồn công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 7%. Riêng sự yếu kém về thông tin đã khiến các doanh nghiệp dệt may bị lệ thuộc về đơn hàng nguồn nguyên liệu đến cả công nghệ, doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ chỉ biết tìm thông tin trên mạng mà không biết cách và không có địa chỉ để thẩm định xem công nghệ đó có phù hợp hay không. Do đó, đã dẫn đến tình trạng với thiết bị kéo sợi, ngành dệt có 1,05 triệu cọc sợi thì trong đó chỉ có 10 vạn cọc là đầu tư mới, số còn còn lại hầu hết đã sử dụng 10, thạm chí 20 năm. Với máy dệt tình trạng cũng tương tự, chỉ khoảng 20% là máy mới, số còn lại phải cải tạo hay thanh lý. Với thiết bị nhuộm, hoàn tất thì chỉ 15% là đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Mặt khác, trong quá trình hoạt động nghiên cứu triển khai đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp dệt may chưa chú trong đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, họ không được cung cấp đầy đủ kiến thức, thiếu thông tin nên năng suất đạt được chưa cao.
Do những hạn chế nêu trên, đổi mới kl và công nghệ chưa có những đóng góp lớn có ý nghĩa tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng, tạo ưu thế cạnh tranh trong nước và trên thị trường quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn. Với lợi thế của nước đi sau, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần tiếp thu chọn lọc để thích nghi và làm chủ những công nghệ mới, cần tìm ra những nguyên nhân để khắc phục nhược điểm từ đó đổi mới công nghệ một cách hiệu quả.
b. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế.
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp dệt may đã chú ý hơn tái đầu tư cho đổi mới công nghệ. Tuy nhiên điều đáng nói qua kết quả điều tra, đầu tư của các doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến máy móc thiết bị phần cứng (thông qua nhập khẩu thiết bị hoặc mua thiết bị trong nước) hơn là đầu tư cho phần mềm công nghệ (đầu tư cho nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc thiết kế các sản phẩm mới). Thông thường, đầu tư cho công nghệ phần cứng tốn kém hơn nhiều so với đầu tư cho phần mềm công nghệ do vậy sẽ làm đội giá thành sản phẩm làm ra do giá trị khấu hao lớn. Nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khong sớm nhận thức được điều này và có chiến lược lâu dài đầu tư cho phần mềm công nghệ thì rồi đây các sản phẩm của chúng ta sẽ khó xâm nhập vào thị trường quốc tế khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Dự án khảo sát được thực hiện với 100 doanh nghiệp thuộc ba loại hình sở hữu: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất trong lĩnh vực dệt may trên địa bàn TP HCM và Hà Nội cho thấy có 57% doanh nghiệp được hỏi đang sử dụng những máy móc thiết bị từ những năm 1990, 39% sử dụng những thiết bị công nghệ những năm 1980 và vẫn còn 10% sử dụng máy móc của những năm 70. Làn sóng đầu tư của nước ngoài (FDI) vào Việt Nam hơn một thập kỷ qua chưa tạo ra một sự chuyển biến mạnh về chuyển giao công nghệ từ ca cs doanh nghiệp nước ngoài cho doanh nghiệp trong nước. Điều này có thể giải thích bởi những lý do. Trước hết, hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đang còn nhiều bất cập: hệ thống luật pháp còn nhiều điều chưa phù hợp và đầy đu so với các tiêu chuẩn và qui định của luật pháp quốc tế, các qui định về sở hữu trí tuệ nằm rải rác tại các văn bản dưới luật gây cảm giác dễ thay đổi, đặc biệt việc thực thi luật pháp về quyền sở hữu trí tuệ chưa nghiêm và tính hiệu lực còn thấp. Điều này chưa khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ. Thứ hai, trong khi c ác doanh nghiệp dệt may tư nhân quy mô còn nhỏ bé, thiếu năng lực về tài cihnhs để thanh toán các hợp đồng về chuyển giao công nghệ, thì các doanh nghiệp Nhà nước lại muốn nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài hơn vì còn có những lợi ích khác. Thứ ba, mối liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn yếu, kết quả điều tra vừa qua cho thấy 56% doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ qua con đường nhập cộng công nghệ từ nước ngoài; chỉ có 23% thông qua liên kết với các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, trên thực tế nếu Nhà nước bảo hộ quá nhiều cho các doanh nghiệp dệt may thì cũng sẽ là một nguyên nhân khiến họ chần chừ trong đầu tư đổi mới công nghệ bởi động lực hàng đầu và mạnh nhất để các doanh nghiệp quyết định đầu tư đổi mới công nghệ để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, để có thể tồn tại mở rộng thị trường trong nước và quốc tế chính là cạnh tranh.
Một nguyên nhân sâu xa khác khiến các doanh nghiệp dệt may còn chậm đổi mới công nghệ và đổi mới chưa có hiệu quả là do nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp còn hạn hẹp. Vốn của doanh nghiệp nhìn chung rất thấp, ngoài nguyên nhân tiềm lực của các nhà đầu tư chưa mạnh, còn có nguyên nhân quan trọng là thị trường vốn chưa hoàn chỉnh, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Vốn dùng cho đầu tư mở rộng sản xuất chủ yếu là doanh nghiệp phải tự huy động bằng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Qui mô vốn tự có của các doanh nghiệp đều rất nhỏ, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao, đặc biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng phát triển qui mô hoạt động và đổi mới, nâng cao chất lượng thiết bị công nghệ.
Trong những năm gần đây, nhất là vào thời điểm hiện tại khi Việt Nam gia nhập WTO, để tạo ra thế cạnh cạnh và uy tín trên thị trường các doanh nghiệp dệt may trong nước đều muốn đổi mới công nghệ nhưng họ lại thiếu thông tin công nghệ và thị trường. Những doanh nghiệp khác đổi mới công nghệ nhưng hiệu quả đem lại không cao bởi một lý do hết sức đơn giản là trong khi các doanh nghiệp trong nước nhất là các doanh nghiệp Nhà nước tập trung đầu tư thiết bị mới và hiện đại thì phần lớn các doanh nghiệp có vốn nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam chỉ sử dụng thiết bị cũ, nhưng với ưu thế về quản lý và công nghệ, nghiệp vụ bán hàng và có chính sách hậu mãi tốt nên luôn ở thế mạnh so với doanh nghiệp trong nước. Đây cũng chính là các doanh nghiệp cung ứng chủ lực các loại vải nguyên liệu chính cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu trong nước. Đã vậy, doanh nghiệp Nhà nước chỉ lo đầu tư phần thiết bị mà không chú trọng đầu tư chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân công, nên cũng không làm chủ được thiết bị, không khai thác được các tính năng ưu việt của các thiết bị hiện đại mà mình đang có.
Ngoài những lý do nói trên, còn một số nguyên nhân khách quan nữa khiến việc đổi mới công nghệ, thiết bị của đại đa số doanh nghiệp dẫm chân tại chỗ. Đó là, tư duy về công nghệ của các doanh nghiệp dệt may vẫn lỗi thời. Chẳng hạn công nghệ thiết bị đã gần 15 tuổi, thuộc dạng phế thải của Hàn Quốc, nhưng nhiều nhiều doanh nghiệp dẹt may Việt Nam cũng vẫn nhập để đưa vào sản xuất. Đó là chưa có quĩ đầu tư mạo hiểm để giúp doanh nghiệp yên tâm khi quyết định đầu tư. Những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu rất lo ngại khi đầu tư một khoản tiền lớn để mua sắm thiết bị. Nếu gặp phải rủi ro như mua phải thiết bị dởm công năng không phù hợp với thực tế sản xuất thì sẽ rất khó khăn. Bên cạnh đó, thuế suất nhập khẩu thiết bị cũng là một trởi ngại. Theo Viện kinh tế Trung ương, các doanh nghiệp được khảo sát kiến nghị Nhà nước cần có chính sách thuế phù hợp với một số sản phẩm công nghiệp, công nghệ cao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35896.doc