Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh, có số lượng doanh nghiệp NQD rất lớn, qua
công tác xét cấp kinh doanh, cấp mã số thuế và quản lý, cục Thuế đã tổng hợp và
đưa ra một số dạng, hình thức kinh doanh trốn lậu thuế giúp cho phòng quản lý, các
Chi cục Thuế sớm nhận diện để có biện pháp ngăn ngừa. Thực hiện chỉ đạo của
Tổng cục Thuế về quản lý chống hành vi lập hóa đơn, chứng từ không đúng giá
thanh toán, cục Thuế đã sớm có văn bản hướng dẫn và chỉ đạo xử lý thống nhất trên
địa bàn thành phố vì vậy nhiều doanh nghiệp kinh doanh xe máy đã lập hóa đơn
tương đối trung thực, nộp thuế GTGT đầu ra và thuế TNDN đều đặn.
Cục thuế Thành phố Hà nội ngay từ đầu năm đã chỉ đạo đôn đốc các doanh nghiệp
kê khai tạm nộp thuế TNDN, tổ chứckiểm tra tờ khai, thực hiện ấn định thuế
TNDN đối với các doanh nghiệp kê khai không trung thực nên kết quả thu 6 tháng
từ khu vực doanh nghiệp đạt khá. Đồng thời qua kiểm tra quyết toán thuế, cũng chỉ
đạo đối chiếu tờ khai để điều chỉnh kịp thời. Do đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ
nhưng qua kiểm tra quyết toán, đấu tranh vẫn chấp nhận phải nộp thuế TNDN theo
số liệu ấn định của cơ quan Thuế.
115 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ Tài Chính đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
địa bàn thành phố vì vậy nhiều doanh nghiệp kinh doanh xe máy đã lập hóa đơn
tương đối trung thực, nộp thuế GTGT đầu ra và thuế TNDN đều đặn...
Cục thuế Thành phố Hà nội ngay từ đầu năm đã chỉ đạo đôn đốc các doanh nghiệp
kê khai tạm nộp thuế TNDN, tổ chức kiểm tra tờ khai, thực hiện ấn định thuế
TNDN đối với các doanh nghiệp kê khai không trung thực nên kết quả thu 6 tháng
từ khu vực doanh nghiệp đạt khá. Đồng thời qua kiểm tra quyết toán thuế, cũng chỉ
đạo đối chiếu tờ khai để điều chỉnh kịp thời. Do đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ
nhưng qua kiểm tra quyết toán, đấu tranh vẫn chấp nhận phải nộp thuế TNDN theo
số liệu ấn định của cơ quan Thuế.
Cục thuế Thành phố Đà nẵng, Đồng nai... chú trọng kiểm tra, đối chiếu việc lập
chứng từ mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp, phát hiện nhiều trường hợp lập
không đúng, truy thu hàng tỷ đồng.
Các cục Thuế Thái Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Cần Thơ cũng chỉ đạo kiểm tra, xử
lý các cơ sở kinh doanh xe máy ghi hoá đơn không đúng giá trị thực tế góp phần
tăng thu ngân sách.
Để chống thất thu ngân sách đối với doanh nghiệp kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn,
Cục thuế Quảng Ninh, Khánh Hoà, Lâm Đồng đã tham mưu trình UBND ban hành
bảng giá tính thuế áp dụng cho từng loại phòng nghỉ, yêu cầu khách sạn, nhà nghỉ
phải nộp hồ sơ, phòng nghỉ, khách đến nhà nghỉ phải đánh dấu vào sơ đồ để tiện
cho công tác kiểm tra.
2.4.2. Về quản lý đối với các hộ kinh doanh cá thể
Đối với hộ cá thể ngành thuế cũng đã triển khai việc thực hiện kế toán hộ
kinh doanh, khuyến khích mọi hộ kinh doanh thực hiện kế toán và lập hoá đơn,
chứng từ. Để thúc đẩy các địa phương đẩy mạnh triển khai kế toán hàng năm, Tổng
cục Thuế đều giao chỉ tiêu cho các Chi cục Thuế phải tổ chức triển khai. Theo số
liệu tổng hợp đến hết năm 2000 có trên 100 ngàn hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế
toán chiếm khoảng 70% số hộ kê khai kinh doanh lớn, trong đó khoảng 50% số hộ
làm kế toán đã được cơ quan thuế chấp thuận chuyển sang nộp thuế theo kê khai ở
các mức độ khác nhau. Số còn lại tuy đã kê khai nhưng do nội dung kê khai chưa
đúng, thiếu trung thực nên cơ quan thuế phải áp dụng việc ấn định thuế. Về số hộ
kinh doanh triển khai hết tháng 6/2001, theo số liệu kiểm tra của 48 địa phương số
hộ được giao triển khai là 85.570 hộ, số hộ đã triển khai là 72.100 hộ đạt 85% số hộ
được giao và so với tháng 12/2000 số lượng hộ kinh doanh đã triển khai kế toán
tăng 2 lần. Theo thống kê số hộ lớn chiếm 45% tổng số hộ kinh doanh nhưng số
thuế chiếm trên 80% tổng số thuế ở khu vực hộ cá thể. Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh
triển khai kế toán và tập trung chống thất thu vào những hộ này, còn lại 55-60% hộ
vừa và nhỏ sẽ tiếp tục thực hiện ổn định thuế để họ yên tâm kinh doanh.
Vậy qua triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh kết quả thu thuế đối với hộ
kinh doanh nộp thuế theo kê khai tăng lên rõ rệt (như nêu ở phần trên) nhiều hộ
kinh doanh qua triển khai thực hiện sổ sách kế toán, số thuế tăng gần gấp nhiều lần
so với số thuế thu khoán. Ngoài ra qua doanh thu phản ánh trên sổ sách kế toán còn
giúp cho cơ quan Thuế đánh giá đầy đủ hơn tình hình quản lý doanh thu, thất thu về
doanh thu, làm cơ sở để điều chỉnh doanh thu đối với hộ khoán.
Để triển khai tốt chế độ kế toán hộ kinh doanh các địa phương đã tập trung
chỉ đạo kiên quyết vừa chú trọng công tác cán bộ, từ giao nhiệm vụ cụ thể cho đội
trưởng đội thuế chịu trách nhiệm triển khai đến việc tăng cường chế độ báo cáo định
kỳ để nắm tình hình, rút kinh nghiệm và chỉ đạo kịp thời vừa kết hợp với các biện
pháp khác như kết hợp triển khai chế độ kế toán với việc sử dụng hoá đơn của hộ
kinh doanh, thành lập và mở rộng các loại dịch vụ kế toán, tăng cường kiểm tra xử
lý vi phạm, tháo gỡ kịp thời các khó khăn trong quá trình triển khai... nên kết quả
vừa tăng về số hộ, doanh thu mức thuế kê khai cũng tăng.
2.5 Tình hình quản lý và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế khu vực kinh tế NQD
2.5.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể
Để tránh cho cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu tiền của từng hộ kinh doanh dễ dẫn
đến tiêu cực, từ nhiều năm nay ngành Thuế đã phối hợp với Kho bạc tổ chức cho hộ
kinh doanh nộp tiền trực tiếp vào Kho bạc. Theo báo cáo của các địa phương về cơ
bản các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh lớn, hộ sản xuất kinh doanh ở
những địa bàn tập trung đều đã thực hiện nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc, cơ quan
Thuế chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc và kiểm tra việc nộp thuế, cơ quan Kho bạc trực
tiếp thu tiền thuế. Trường hợp cơ quan Kho bạc chưa tổ chức thu trực tiếp thì cơ
quan Thuế mới tổ chức thu.
Tuy nhiên do lực lượng của Kho bạc còn mỏng nên ở một số nơi để hỗ trợ thu thuế
nhanh nên cơ quan Thuế phải cử cán bộ cùng tham gia với Kho bạc tổ chức thu nộp
thuế.
Với những biện pháp chủ đạo nêu trên, công tác quản lý thu thuế NQD trong những
năm qua đã có những chuyển biến tương đối tích cực, giảm dần thất thu thuế cả về
đối tượng và về doanh số.
Theo thống kê số hộ quản lý thu thuế trong mấy năm gần đây đạt khoảng 1,6 triệu
hộ bằng khoảng 85% số hộ điều tra thống kê. Số hộ chưa quản lý thu thuế tập trung
vào những loại hộ sản xuất trong các làng nghề, hộ kinh doanh sớm tối, hộ hành
nghề xe ôm, xích lô, xe súc vật kéo. Tất cả các hộ kinh doanh có địa điểm cố định
về cơ bản đã được đưa vào diện quản lý thu thuế thường xuyên.
2.5.2. Đối với khu vực doanh nghiệp
Cơ quan thuế đã phối hợp với kho bạc tổ chức cho doanh nghiệp nộp thuế qua kho
bạc đồng thời để giám sát chặt chẽ hơn việc thành lập, hoạt động và ngừng hoạt
động của doanh nghiệp. Từ năm 1999 chuyển giao lên cục Thuế quản lý đã xác định
được 5.000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhưng thực tế không hoạt động
hoặc giải thể, nhưng cơ quan cấp đăng ký kinh doanh vẫn không thu hồi giấy phép.
Năm 2001 dự toán từ NQD nhà nước giao tăng trên 10% so với thực thu năm 2000.
Để thực hiện được dự toán trên, ngay từ tháng 12/2000 Tổng cục Thuế đã chỉ đạo
cơ quan Thuế các cấp tập trung hoàn thiện các biện pháp đã nêu trên:
III. Một số tồn tại về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở
nước ta hiện nay
A. Những tồn tại chung
1. Một số tồn tại trong các chính sách thuế
1.1. Thuế GTGT
Theo quy định tại Luật thuế GTGT thì mọi tổ chức, cá nhân không phân biệt thành
phần kinh tế, quy mô kinh doanh đều là đối tượng nộp thuế GTGT và đòi hỏi mọi
đối tượng nộp thuế phải thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Nhưng trên thực tế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ tại
các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể không nghiêm, đa số không thực hiện,
do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách thuế.
Theo thông lệ quốc tế, thuế GTGT thường chỉ áp dụng đối với các tổ chức kinh tế
đạt đến một quy mô kinh doanh nhất định. Luật thuế GTGT hiện hành áp dụng với
tất cả các đối tượng, nhất là các đối tượng chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ vừa làm công tác quản lý thuế thêm phức tạp, vừa ảnh hưởng đến nghĩa vụ
và quyền lợi của các tổ chức kinh doanh.
Về thuế suất thuế GTGT: Nguyên tắc của thuế GTGT là thuế suất được xây dựng và
áp dụng theo mặt hàng. Qua một số lần điều chỉnh, bổ sung nguyên tắc này đã
không được duy trì, thuế suất thuế GTGT một số hàng hoá, dịch vụ vừa theo mặt
hàng, vừa theo công dụng. Cùng là sản phẩm cơ khí nhưng máy móc thiết bị thì áp
thuế 5%, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì áp dụng thuế suất 10%, dẫn đến có mặt hàng
nếu cơ sở kinh doanh mua về thì được coi là máy móc thiết bị, nhưng đối tượng
khác mua về thì bị coi là sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ: Máy in nếu bán đồng bộ với
máy tính thì được coi là máy móc thiết bị và được áp dụng thuế suất 5%, nhưng nếu
bán rời thì áp dụng thuế suất 10%.
Việc phân biệt các máy móc, dụng cụ chuyên dùng cho y tế, giáo dục, quốc phòng,
an ninh rất phức tạp. Ví dụ: Bảng nếu bán cho nhà trường được coi là dụng cụ để
giảng dạy được áp dụng thuế suất 5%, các đối tượng khác mua thì áp dụng thuế suất
10%.
Về kê khai nộp thuế: Theo Luật thuế GTGT, mọi tổ chức và cá nhân kinh doanh
hàng tháng đều phải nộp tờ khai gửi cơ quan thuế, không phân biệt quy mô, có phát
sinh doanh số hay không... Cùng với việc kê khai cơ sở kinh doanh còn phải lập
bảng kê hoá đơn, chứng từ liên quan đến hàng hoá mua vào, bán ra. Đối với khu
vực kinh tế NQD, nhất là đối với những cơ sở có quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn
nhẹ, không có người chuyên trách, việc lập tờ khai và bảng kê hàng tháng như vậy
gặp nhiều khó khăn và tăng chi phí.
Theo luật thuế GTGT hiện hành cho áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ đối với một số hàng
hoá, chủ yếu là hàng nông sản là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế mua hàng
hoá nông sản. Nhưng trên thực tế đang bị lợi dụng, trong khi việc đối chiếu, xác
minh của cơ quan thuế không thể thực hiện được đối với mọi trường hợp, do đó đã
có nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng quy trình này kê khai tăng giá mua, lập bảng
kê khống, tăng số thuế đầu vào nhằm mục đích trốn thuế hoặc hoàn thuế khống, gây
thất thoát cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh
nghiêm túc.
Việc thực hiện tính thuế theo hai phương pháp: khấu trừ và trực tiếp đã dẫn đến
cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng mức thuế phải nộp khác nhau, có mặt hàng
thực hiện theo phương pháp khấu trừ thì số thuế phải nộp lớn hơn nếu tính theo
phương pháp trực tiếp hoặc ngược lại, điều này vừa gây bất bình đẳng giữa các đối
tượng nộp thuế, vừa sơ hở để đối tượng kinh doanh lợi dụng.
Về hoá đơn chứng từ: Luật thuế GTGT chỉ được phát huy đầy đủ tính ưu việt nếu
thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. Thực tiễn ở nước ta,
việc thực hiện hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá chưa nghiêm túc, chưa phải
là yêu cầu bắt buộc đối với mọi đối tượng mua hàng. Vì vậy nhiều tổ chức và cá
nhân kinh doanh không xuất hoá đơn giao cho người mua, làm ảnh hưởng đến việc
xác định nghĩa vụ thuế. Nhiều doanh nghiệp còn vi phạm việc lập và sử dụng hoá
đơn như: ghi hoá đơn không đúng phát sinh kinh tế, mua bán và sử dụng hoá đơn
của cơ sở khác để lập giao cho khách hàng... cũng ảnh hưởng đến việc xác định
nghĩa vụ thuế của bên mua.
1.2. Thuế TNDN
- Các doanh nghiệp NQD hiện nay đang áp dụng thuế suất thuế TNDN 32% cao
hơn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài nước đang được hưởng thuế suất
TNDN 25%.
- Theo quy định chi phí tiền lương đối với kinh tế NQD được xác đinh tính vào chi
phí căn cứ vào hợp đồng lao động và phải phù hợp với định mức tiền lương được áp
dụng cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động cùng lĩnh vực, ngành nghề, không
được chấp nhận một khoản chi phí có tính chất tiền công, tiền lương nào.
Tuy nhiên trong thực tế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả
cao, các doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động theo mức độ cống hiến và
đòi hỏi của họ, dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận kinh doanh của doanh
nghiệp
+ Đối với các trường hợp không có hợp đồng lao động về nguyên tắc được xác định
theo mức lương do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định cho từng ngành nghề.
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng lập danh sách lao động khống nhằm mục đích tăng chi
phí, giảm thu nhập chịu thuế.
+ Đối với hộ kinh doanh cá thể không được tính vào chi phí giá trị sức lao động của
bản thân chủ hộ bỏ ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Tiền công trả cho người
lao động khác thường không được xác định rạch ròi trong chi phí vì hộ kinh doanh
áp dụng biện pháp khoán do không thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ.
Điều này ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách thuế.
- Chi phí khác: Thường trong qúa trình kinh doanh ngoài các chi phí như KH
TSCĐ, tiền lương, cơ sở kinh doanh còn phải chi các hoạt động có tính chất tự
nguyện như: lũ lụt, tiếp khách... Những khoản này đều bị khống chế khi chi cao hơn
thì không được tính vào chi phí. Vì vậy thuế TNDN đã tính khống mà cơ sở kinh
doanh vẫn phải nộp.
- Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp theo quy định hộ kinh doanh
có thu nhập dưới mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng thì được miễn thuế,
nếu thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế. Điều này mâu thuẫn với mức miễn thuế
theo chính sách thuế thu nhập của người có thu nhập cao, chính sách này quyết định
khởi điểm đánh thuế là 2 triệu trở lên/ tháng/người.
- Thuế TNDN bổ sung: Theo quy định thì căn cứ vào lợi thế khách quan của doanh
nghiệp để xác định với mức thuế suất là 25%, nhưng trong thực tế điều này khó xác
định nên mọi đối tượng có thu nhập cao đều phải nộp thuế thu nhập bổ sung.
1.3. Thuế XNK
Thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu kinh
tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến khích sản xuất trong
nước thay thế cho hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, bước
đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách Thuế XNK của ta đã bộc lộ
những hạn chế là.
- Việc xác định các mức thuế bảo hộ còn thiếu chọn lọc chưa tính đến lợi thế so
sánh của nền kinh tế, chưa tính đến điều kiện và thời hạn bảo hộ, một mặt đã tạo
tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu hướng vào sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu, không vươn rộng lên mở rộng thị trường ra bên ngoài.
- Biểu thuế nhập khẩu hiện hành còn tương đối phức tạp với nhiều mức thuế khác
nhau, tạo kẽ hở để các doanh nghiệp trốn lậu thuế gây khó khăn cho quản lý thuế.
- Chính sách miễn giảm thuế còn khá rộng rãi một mặt tạo kẽ hở cho việc trốn, lách
thuế làm thất thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác làm cho chính sách thuế XNK
thiếu tính minh bạch.
1.4. Thuế Môn bài
Thuế môn bài một năm thu một lần nhằm mục đích kiểm kê, kiểm soát, phân loại cơ
sở kinh doanh.
Thuế môn bài hiện đang có 6 mức: 850.000 đồng, 550.000 đồng, 325.000 đồng,
165.000 đồng, 60.000 đồng, 25.000 đồng, không phân biệt tổ chức kinh tế hay hộ
kinh doanh cá thể nên đã bộc lộ những nhược điểm.
- Thuế môn bài chưa thể hiện được đầy đủ mục đích phân loại cơ sở kinh doanh vì
tổ chức kinh tế có thu nhập hàng chục tỷ đồng/năm cũng nộp thuế môn bài theo
mức 850.000 đồng/năm trong khi hộ kinh doanh cá thể thu nhập từ 1.250.000 đồng
trở lên đều phải nộp theo mức thuế môn bài trên. Như vậy đã không khuyến khích
được đối tượng nộp thuế một cách công bằng.
- Thuế môn bài đang áp dụng chỉ phù hợp với thuế doanh thu và thuế lợi tức của
những năm 1996. Từ năm 1999 thực hiện luật thuế GTGT và thuế TNDN thì thuế
môn bài đã không còn phù hợp nữa.
2. Về nhận thức tư tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử.
Thực tiễn đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều trong cả các cơ quan quản lý Nhà nước
và nhân dân.
Báo Doanh nghiệp 4/2001 trong bài “có sự phân biệt đẳng cấp trong kinh doanh ở
Việt nam” tác giả đã đăng một chuyên đề khoa học của Viện nghiên cứu về Đào tạo
và quản lý. Qua 11 chỉ tiêu đưa ra để đánh giá cho thấy.
Bảng 10: Phân loại tiêu chí so sánh các loại hình doanh nghiệp
Tiêu chí so sánh DNNN DN vốn F.D.I DNNQD
1- Về thành lập và đăng ký kinh doanh C B A
2- Về giải thể doanh nghiệp. C B A
3- Về phá sản doanh nghiệp. A A A
4- Về vay vốn và tham gia thị trường A B C
5- Tuyển dụng lao động A B C
6- Chính sách tiền lương, tiền công B A C
7- Thuế và các chính sách tài chính B A C
8- Chính sách về đất đai. A B C
9- Hợp tác kinh doanh và liên doanh với nước ngoài. B A C
10- Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương mại. A B C
11- Thanh tra, kiểm tra. B A C
Nguồn: Báo Doanh nghiệp số 4 - 2000
Nếu quy định sự thuận lợi cao nhất là A, sự thuận lợi ở mức trung bình là B và sự
khó khăn là C thì với 11 tiêu chí đã nêu cho thấy các doanh nghiệp NQD chỉ có 3
tiêu chí là giành được sự thuận lợi cao, 3 tiêu chí này có thể do bản thân doanh
nghiệp tự quyết định còn 9 tiêu chí khác có liên quan đến các cơ quan quản lý thì
đều thuộc loại C.
Bảng so sánh phản ánh sự nhận thức của cơ quan quản lý vừa thể hiện sự phân biệt
đối xử của bản thân cơ quan quản lý và các thành phần kinh tế.
Trong dân cư quan niệm rằng kinh tế NQD vẫn gắn liền với ý nghĩ “buôn gian bán
lậu” vẫn chưa phải đã hết, thể hiện qua việc mua sắm hàng hoá vẫn muốn mua của
Nhà nước, con em xin việc làm cũng muốn trở thành công chức hoặc cán bộ công
nhân viên Nhà nước...
Bản thân các ông chủ kinh doanh cũng chưa tự thoát được những mặc cảm mà xã
hội đã gán cho từ đó chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nhiều
người kinh doanh vẫn còn có ý thức nghe ngóng chờ đợi. Bên cạnh đó trong chính
sách thuế và tổ chức quản lý thuế cũng còn thực hiện tương đối rõ nét sự đối xử
này.
3.Các chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn cho hoạt
động kinh tế NQD
Trước hết nói về Luật Doanh nghiệp đã được thực hiện từ 1/1/2000 nhưng đến nay
còn nhiều văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành hoặc chưa có hướng dẫn cụ
thể làm cho cơ sở kinh tế NQD lúng túng khi thực hiện, các cơ quan quản lý gây
phiền hà sách nhiễu như qui định các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những
điều kiện để kinh doanh các ngành nghề đó; các lĩnh vực kinh doanh bỏ giấy phép
và chuyển thành điều kiện kinh doanh; thế nào là ngành nghề mới... Danh mục các
ngành nghề khu vực kinh tế NQD được ban hành từ năm 1993 đã lạc hậu so với
thực tế nhưng chưa được sửa đổi lại. Hệ thống phân loại và đăng ký mã số ngành
nghề, mặt hàng có sự khác biệt và không thống nhất giữa các ngành gây khó khăn
cho cơ sở đăng ký khi nhập khẩu, khi áp thuế suất. Nhiều trường hợp xảy ra tranh
chấp cuối cùng các cơ sở kinh tế NQD vẫn là người thiệt nhất.
Trong chính sách thuế có tình trạng tương tự. Các luật và các văn bản hướng dẫn
chuyên ngành thường đưa nội dung thuế nhưng mâu thuẫn với các luật thuế hiện
hành, làm cho doanh nghiệp rất lúng túng khi triển khai thực hiện. Do đó ngày
24/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phải có chỉ thị 07/2001-CT-TTg yêu cầu tất cả
các ngành khi xây dựng các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên ngành không
được đưa nội dung quy định về thuế trong các văn bản đó đồng thời phải rà soát
ngay nội dung quy định về thuế trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên
ngành, phát những điểm không phù hợp với luật thuế để kiến nghị Bộ Tài chính và
Chính phủ xem xét quyết định.
4. Khu vực kinh tế NQD thiếu thông tin, dịch vụ tư vấn thuế
Trước hết, đó là các thông tin liên quan đến luật pháp điều chỉnh và chi phối quá
trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Theo phản ánh của các doanh
nghiệp họ đều biết được các văn bản pháp quy qua hệ thống thông tin báo chí và
đến khi các văn bản pháp luật họ tiếp nhận được thường rất chậm. Không có cơ
quan nào đứng ra chịu trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn họ. Trong các trường
hợp xảy ra tranh chấp, chưa có cơ quan pháp luật nào đứng ra trung gian giải quyết
hoặc tư vấn cho họ giải quyết.
Phát triển kinh tế thị trường đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu những thông
tin về thị trường, giá cả và dự báo diễn biến rủi ro của thị trường và giá cả là rất
quan trọng giúp họ có thể tránh được rủi ro. Tuy nhiên đến nay chưa có cơ quan nào
tư vấn giúp họ trong việc này dẫn đến nhiều trường hợp bán hàng bị ép giá, mua
hàng bị nâng giá... Tư vấn về kỹ thuật cũng đang là vấn đề nổi cộm, nhiều cơ sở
kinh doanh do không nắm được tính năng tác dụng của các thiết bị trên nên thường
bị khách hàng lừa, thậm chí phải mua cả máy móc, thiết bị cũ lạc hậu bằng giá của
máy mới mà không biết.
Trong lĩnh vực thuế đến nay chưa hình thành các trung tâm dịch vụ về thuế, về kế
toán để người kinh doanh có thể qua đó được hướng dẫn, giúp đỡ mà vẫn tập trung
gặp tìm hiểu trực tiếp qua cơ quan thuế.
Tư vấn thuế là một loại hình tư vấn nằm trong tư vấn tài chính, vì công tác thuế là
một cấu thành của công tác tài chính xét ở phạm vi doanh nghiệp hay trên phạm vi
xã hội. Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, cách thức
sử lý các mối quan hệ liên quan đến các đối tượng nộp thuế, tính thuế, thuế suất thủ
tục khai nộp, thời hạn nộp thuế, điều kiện miễn giảm thuế, hoàn thuế: Cho các đối
tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai
dạng chủ yếu:
Thứ nhất: Tư vấn thuế là dịch vụ công do các cơ quan thuế cung cấp cho các đối
tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Thứ hai: Tư vấn thuế còn là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn thuế cung cấp
cho khách hàng theo hợp đồng. Cơ sở tạo nên tư vấn thuế suất phát từ các đối tượng
nộp thuế, từ hệ thống pháp luật về thuế và từ chính các cơ quan thuế. Trước hết, số
lượng các đối tượng nôp thuế tạo nên nhu cầu không nhỏ dịch vụ tư vấn thuế. Hiện
nay, cả nước có hơn 5.700 DNNN, khoảng 60.000 DNTN, CTHH, Công ty Cổ phần
và trên 1,6 triệu hộ kinh doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước,
phục vụ nhu cầu x• hội. Nhưng việc hiểu biết đầy đủ các quy trình như kê khai, tính
thuế, nộp thuế và việc áp dụng hai sắc thuế mới không phải tất cả các đối tượng nộp
thuế và không bị lúng túng trong quá trình thực hiện. Do vậy nhu cầu về tư vấn thuế
là rất lớn.
Nhưng bên cạnh đó dịch vụ tư vấn còn có một số tồn tại:
Thứ nhất: Các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn thuế chưa phát triền, dịch vụ tư vấn
thuế mơi định dạng rõ nét ở dạng dịch vụ công nhưng hoạt động chưa đủ “độ sâu”
mới chỉ ở hình thức tuyên truyền phổ biến trên phương tiện thông tin đai chúng,
dịch vụ tư vấn thuế tư chưa được phát triển có tổ chức, hoạt động tư vấn chủ yếu là
dịch vụ kế toán, kiểm toán, xác định cơ cấu tài chính… Về cán bộ tư vấn khôngchỉ
thiếu về số lượng mà năng lực tư vấn cũng là một vấn đề bất cập dẫn đến các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn về thuế.
Thứ hai: Về hình thức dịch vụ tư vấn còn quá đơn điệu chưa đáp ứng kịp thời nhu
cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp. Nội dung tư vấn mới chỉ dừng lại ở thông tin
về thuế suất, thủ tục đăng ký, kê khai thuế, chưa thực sự thể hiện tính cách một quá
trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu lập sổ sách kế toán đến các khoản thuế phải nộp.
5. Các cơ quan quản lý Nhà nước, thuế gây nhiều phiền hà cho khu vực kinh tế
NQD
Theo báo cáo điều tra do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện
thì có tới 88% doanh nghiệp NQD bị kiểm tra, thanh tra về thuế, 48% bị kiểm tra về
quản lý thị trường, 36% bị kiểm tra về lao động, 26% bị kiểm tra về môi trường...
Trong đó nhiều doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra nhiều lần trong một năm, nhiều
việc, nhiều nội dung có sự kiểm tra, thanh tra trùng lặp nhưng không cơ quan nào có
trách nhiệm giải quyết... Mỗi cuộc kiểm tra, thanh tra đều lãng phí thời gian và tiền
của các doanh nghiệp.
Tình trạng hình sự hoá các quan hệ kinh tế cũng đang là vấn đề cần chấn chỉnh,
không ít các tranh chấp chỉ mang tính chất hành chính hoặc dân sự cũng được các
cơ quan pháp luật can thiệp.
Trong việc cấp mã số thuế, bán hoá đơn, hoàn thuế, miễn giảm thuế cũng đang bị
các doanh nghiệp kêu ca, đặc biệt là trong việc hoàn thuế. Theo quy định của ngành
Thuế trong thời gian 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ xin hoàn thuế, cơ quan thuế
phải có quyết định hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên chỉ 30-40% là thực
hiện đúng, còn lại 60-70% chủ yếu của cơ sở kinh tế NQD là không được giải quyết
đúng hạn. Nhiều trường hợp hoàn thuế yêu cầu cơ sở kinh doanh phải cung cấp
hoặc giải thích những điều không có trong quy định, do vậy nhiều cơ sở kinh doanh
đáng lễ được hoàn thuế họ cũng không xin hoàn mà để trừ vào phát sinh kỳ sau -
dẫn đến ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
Theo các luật thuế, các doanh nghiệp được hoàn lại số thuế nộp thừa nhưng thủ tục
và thời gian xin hoàn số thuế nộp thừa rất phức tạp. Các doanh nghiệp kêu ca nhiều
nếu nộp thừa xin hoàn lại rất khó, muốn xin hoàn thuế phải xuất trình đủ loại chứng
từ, gửi hồ sơ cho đủ cấp ngân sách... mới được trả lại, có những trường hợp kéo dài
hàng năm.
6. Quản lý đối tượng nộp thuế
Còn đang thất thu cả ở khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể:
- Đối với khu vực doanh nghiệp, theo số liệu thống kê của 48 địa phương đến
31/5/2001 số doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh là 35.866, số doanh
nghiệp được cấp mã số thuế là 33.105, so với số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký
kinh doanh vẫn thấp hơn khoảng 8%. Nhiều địa phương có chênh lệch lớn giữa số
lượng doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh và doanh nghiệp đựoc cấp mã số
thuế như Bà Rịa - Vũng Tàu khoảng 70 doanh nghiệp, Tiền Giang 98 doanh nghiệp,
Đồng Tháp 180 doanh nghiệp, Vĩnh Long 150 doanh nghiệp, Kiên Giang 600
doanh nghiệp, Bắc Ninh 50 doanh nghiệp...
Nhiều địa phương vẫn có tình trạng doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh, mã
số thuế xin cấp hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế còn nhiều, trong đó có nhiều
doanh nghiệp không tìm thấy địa chỉ như Hà Nội 158 doanh nghiệp, Bà Rịa - Vũng
Tàu 8 doanh nghiệp không tìm thấy địa chỉ, Kiên Giang 17 doanh nghiệp, Thành
phố Hồ Chí Minh 15% doanh nghiệp không còn đóng tại trụ sở đang ký, đồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ tài chính đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.pdf