M ỤC L ỤC
Phần Mở đầu 1
Phần Nội dung 3
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 3
1.1Khái niệm và mục tiêu của phân tích Tài chính doanh nghiệp 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp 4
1.2 Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 6
1.2.1 Xây dựng quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp 6
1.2.2 Thu thập và xử lý thông tin 7
1.2.3 Lựa chọn phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 13
1.2.4 Xác định nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 16
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điên. 29
2.1 Tổng quan về Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện 29
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty. 29
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. 30
2.1.3 Tình hình hoạt động trong thời gian gần đây. 32
2.2 Thưc trạng công tác phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện. 34
2.2.1 Công tác tổ chức hoạt động phân tích 34
2.2.2 Lựa chọn và xử lý thông tin 35
2.2.3 Phương pháp phân tích được sử dụng tại công ty. 36
2.2.4 Nội dụng phân tích tài chính của công ty. 36
2.3 Đánh giá công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện. 42
2.3.1 Kết quả công ty đã đạt được 42
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân .42
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện. 46
3.1 Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 46
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của công ty. 47
3.2.1 Giải pháp về tổ chức công tác phân tích tài chính 47.
3.2.2 Hoàn thiện thông tin sử dụng trong phân tích 48
3.2.3 Hoàn thiện phương pháp phân tích. 49
3.2.4 Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính. 50
3.3 Một số kiến nghị 56
Phần Kết luận 58
Danh mục tài liệu tham khảo
61 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 4438 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp của công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ doanh nghiệp lại ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song, nếu hệ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tỷ số này cao hay thấp cũng tuỳ thuộc vào lãi suất vì phải đảm bảo một chi phí tài chính phù hợp.
- Hệ số tự tài trợ
Hệ số tự tài trợ =
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số tự tài trợ phản ánh trong nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng thì số vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng là bao nhiêu, thể hiện mức độ hoạt động độc lập về tài chính của doanh nghiệp hay mức độ tự tài trợ của chủ doanh nghiệp đối với nguồn vốn kinh doanh của mình. Các chủ nợ thường quan tâm đến hệ số này khi quyết định cho vay, vì nó thể hiện mức độ đảm bảo cho các khoản nợ của doanh nghiệp.
- Hệ số cơ cấu tài sản
Hệ số cơ cấu tài sản =
TSLĐ (TSCĐ)
Tổng tài sản
Tỷ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp. Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây dựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản phù hợp với môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp, tuy nhiên nó cao hay thấp chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu không căn cứ vào loại hình và lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Các tỷ số về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp
- Vòng quay tiền
Vòng quay tiền =
Doanh thu thuần
Tiền và tương đương tiền bình quân
Tiền là một khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, hưởng chiết khấu thanh toán do thanh toán tiền hàng sớm. Chỉ tiêu vòng quay tiền phản ánh số vòng quay của tiền trong năm, thường được sử dụng cho phân tích tài chính các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Số vòng quay của tiền thường gắn với chu kỳ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
- Vòng quay dự trữ (tồn kho).
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vòng quay dự trữ =
Doanh thu trong năm
Dự trữ bình quân
Chỉ tiêu vòng quay dự trữ đo lường số lần vốn đầu tư vào hàng tồn kho quay vòng trong 1 năm, phản ánh hoạt động quản lý dự trữ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng nói chung, nếu chỉ tiêu này quá thấp (so với các doanh nghiệp cùng loại) thì có thể doanh nghiệp đã dự trữ cho sản xuất nhiều hơn mức cần thiết hoặc hàng hoá không tiêu thụ được làm ứ đọng vốn. Còn nếu chỉ tiêu này quá cao thì có thể doanh nghiệp đã không dự trữ đủ sẽ gây ảnh hưởng xấu làm gián đoạn hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, trong thực tế nền kinh tế thị trường hiện nay hàng hoá dồi dào cùng với việc vận chuyển cung ứng hàng hoá dễ dàng cho phép các doanh nghiệp không phải dự trữ quá nhiều nên chỉ tiêu này thường được các doanh nghiệp duy trì ở mức cao.
- Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Trong đó: Doanh thu bình quân ngày = Doanh thu trong năm / 360
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Tuy nhiên các khoản phải thu là số liệu của một thời điểm nhất định cho nên có những thời điểm đặc biệt dễ làm sai lệch chỉ tiêu này. Chẳng hạn, vào thời điểm đầu chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp bán chịu hàng cho các đại lý, tạm ứng tiền cho nhà cung cấp… nên khoản phải thu sẽ lớn. Nhưng vào cuối chu kỳ, doanh nghiệp tất toán mọi tài khoản của mình, các khoản phải thu sẽ nhỏ hơn rất nhiều cho nên người phân tích phải nắm rõ chu kỳ sản xuất kinh doanh của đơn vị để xác định kỳ thu tiền bình quân cho chính xác.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Doanh thu thuần
TSCĐ
Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo nên chỉ tiêu này có nhược điểm là nó chịu ảnh hưởng của phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp áp dụng. Các doanh nghiệp có thể áp dụng những phương pháp khấu hao tài sản cố định khác nhau làm sai lệch chỉ tiêu trên trong khi mức độ đóng góp vào doanh thu của tài sản trong thực tế chỉ có một giá trị duy nhất.
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Vòng quay toàn bộ tài sản).
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất - kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
- Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh trong số lợi nhuận sau thuế có trong một trăm đồng doanh thu. Chỉ tiêu này đánh giá hoạt động kinh doanh của cả doanh nghiệp là tốt hay không? Nhìn chung tỷ số này cao là tốt.
- Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE).
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân tích chỉ tiêu này phải được kết hợp với việc đánh giá tổng nguồn vốn, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp có ROE cao là do lượng vốn chủ sở hữu bỏ vào sản xuất kinh doanh thấp, chủ yếu sử dụng vốn vay thì tức là phần lớn lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo ra bởi vốn của các chủ nợ, đồng nghĩa với việc chủ sở hữu được lợi lớn hơn (bỏ ít vốn mà vẫn giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp) còn các chủ nợ có thể gặp rủi ro mất vốn khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi.
Doanh lợi tài sản: ROA
ROA =
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản
Hoặc
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể cuả doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi vay hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Đối với các chủ nợ, do lợi nhuận trước thuế và lãi vay thuộc quyền sở hữu của cả chủ nợ và chủ sở hữu nên họ thường quan tâm đến ROA tính theo cách thứ nhất. Còn sau khi trả lãi và nộp thuế phần còn lại là thuộc riêng chủ sở hữu nên các chủ sở hữu và các nhà đầu tư thường quan tâm đến ROA tính theo cách thứ hai.
Tuy nhiên đối với mỗi doanh nghiệp khác nhau, tại từng thời điểm khác nhau thì việc xác định nội dung phân tích tài chính là khác nhau, nội dụng phân tích tài chính cũng nên chú trọng vào các mặt còn hạn chế của doanh nghiệp mình để từ đó đưa ra được giải pháp khắc phục. Người làm công tác phân tích cần xác định rõ mục tiêu sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ của đơn vị mình để lựa chọn nội dung phân tích tài chính cho phù hợp, đảm bảo mang lại hiệu quả cao thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Như vậy, phân tích tài chính là một đòi hỏi không thể thiếu được trong hoạt động quản trị kinh doanh của một doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính để tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình của doanh nghiệp ở hiện tại và trong tương lai.
Ch¬ng 2: Thùc tr¹ng c«ng t¸c ph©n tÝch tµi chÝnh cña C«ng ty Cæ phÇn T vÊn §Çu t vµ X©y dùng Bu ®iÖn.
2.1 Tổng quan về Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện (tên giao dịch quốc tế là Post and Telecommunication Investment and Construction Consulting Joint - Stock Company - viết tắt là PTICC) là một Công ty thành viên và chịu sự giám sát của Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam được chính thức cổ phần hoá từ Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Bưu điện theo quyết định số 27/2004/QĐ-BBCVT ngày 30 tháng 6 năm 2004 của Bộ Bưu Chính - Viễn thông. Hiện nay trụ sở chính của Công ty đặt tại số 38 Phố Chùa Láng, Phường Láng Thượng, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Nhiệm vụ chính của Công ty là tư vấn xây dựng, khảo sát, thiết kế các công trình chuyên ngành Bưu chính - Viễn thông và tin học trên địa bàn rộng khắp 64 tỉnh thành trong cả nước và tham gia một số chương trình có sự hợp tác quốc tế.
Hình thành từ năm 1954 với tiền thân là một tổ thiết kế của Tổng cục Bưu điện tham gia thiết kế những công trình đầu tiên của ngành Bưu điện Việt Nam. Đến tháng 10 năm 1960 Tổ thiết kế đã phát triển thành Phòng Thiết kế thuộc Tổng cục Bưu điện và đến ngày 15 tháng 2 năm 1962 Công ty Thiết kế Bưu điện và Truyền thanh được chính thức thành lập. Đến ngày 15 tháng 7 năm 1969 một doanh nghiệp hạch toán độc lập trực thuộc Tổng cục Bưu điện có chuyên ngành thiết kế các công trình thông tin Bưu điện mới được thành lập mang tên Viện Thiết kế Bưu điện và đến 20 tháng 7 năm 1993, Viện Thiết kế Bưu điện được đổi tên thành Công ty Thiết kế Bưu điện - một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Cục Bưu điện. Sau này, khi Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam được thành lập thì Công ty được chuyển sang trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam.
Tháng 6 năm 2004 Công ty đã hoàn thành quá trình cổ phần hóa và từ một doanh nghiệp nhà nước - Công ty Tư vấn xây dựng và Phát triển Bưu điện chuyển thành một công ty cổ phần có vốn nhà nước. Công ty đã được chính thức đổi tên thành Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Trong thời gian qua ngành Bưu chính nói chung và Tổng công ty Bưu chính nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể như việc mở rộng mạng lưới Bưu chính - Viễn thông đến các vùng sâu, vùng xa, đưa điện thoại xuống tận xã, các dịch vụ bưu chính, viễn thông ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Các kết quả đáng phấn khởi đó có một phần đóng góp không nhỏ của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện nhất là trong việc thiết kế các tuyến truyền dẫn lớn như công trình Viba băng rộng Bắc Nam, cáp quang Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh, công trình cáp biển T-V-H, SEA-WE-ME, cáp biển Việt Nam, cáp quang liên quốc gia SCS, công trình thông tin di động phía Bắc, phía Nam, mạng điện thoại dùng thẻ quốc gia Cardphone….Phương châm hoạt động của Công ty là tuân thủ 10 tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của Hiệp hội Tư vấn Xây dựng Việt Nam, với khẩu hiệu “Trí tuệ - Trung thực - Chất lượng - Hiệu quả”, xây dựng văn hoá kinh doanh và hội nhập quốc tế.
Năm 1996 Công ty đã vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và được công nhận là doanh nghiệp hạng I. Năm 2003 công ty được nhận huân chương độc lập hạng Ba.
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Nhiệm vụ chính của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện là tư vấn xây dựng, khảo sát thiết kế các công trình chuyên ngành Bưu chính, viễn thông và tin học.
Về chức năng của Công ty, theo quy định chung về ngành nghề hoạt động của Bộ Xây dựng bao gồm:
- Lập dự án đầu tư, xây dựng các công trình bưu chính, viễn thông, tin học và dân dụng.
- Khảo sát địa hình, địa chất, hiện trạng, điều kiện kĩ thuật các công trình bưu chính, viễn thông, tin học và dân dụng.
- Thiết kế, quy hoạch chuyên ngành bưu chính, viễn thông và tin học.
- Thiết kế và lập tổng dự toán các công trình bưu chính, viễn thông, tin học nhóm A và nhóm B, C.
- Thẩm định dự án đầu tư, xây dựng thiết kế kĩ thuật các công trình bưu chính, viễn thông và tin học.
- Tổng thầu thiết kế và quản lý dự án các công trình bưu chính, viễn thông và tin học.
- Lập dự án đầu tư, thẩm tra thiết kế và tổng dự toán, tổng thầu thiết kế, quản lý dự án các công trình dân dụng nhóm B và C.
- Lắp đặt, thực nghiệm các thiết bị mới của công trình bưu chính, viễn thông và tin học.
Về cơ cấu tổ chức của Công ty được thể hiện trên sơ đồ dưới đây:
GIÁM ĐỐC
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Văn phòng
Phòng kinh doanh
Phòng Tài chính - Kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng Khoa học – Kỹ thuật
Xí nghiệp I
Xí nghiệp II
Xí nghiệp III
Xí nghiệp IV
Trung tâm TP.Hồ Chí Minh
Về cơ cấu lao động, Công ty có 88,3% cán bộ có trình độ Cao đẳng, Đại học; 3,5% có trình độ trên Đại học còn lại chủ yếu là cán bộ có trình độ Trung cấp. Lao động nữ có 105 người chiếm 41,5% và làm việc chủ yếu ở các bộ phận quản lý. Hiện nay, số lao động trẻ của Công ty là 135 người chiếm hơn 1/2 số cán bộ công nhân viên trong Công ty, đây là lực lượng kế cận đầy triển vọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Công ty. Công ty cũng thường xuyên cử cán bộ đi học tại các lớp nghiệp vụ để nâng cao trình độ, góp phần tăng năng suất lao động.
Công ty không ngừng đổi mới các trang thiết bị theo chủ trương chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Ngành Bưu điện bằng cách trang bị máy vi tính cho mỗi cán bộ thiết kế để có thể vẽ và tính toán bằng máy vi tính, đảm bảo độ chính xác cao, nhanh chóng và đẹp về hình thức. Công ty còn đầu tư nhiều trang thiết bị văn phòng tiên tiến như máy scan, máy vẽ, máy in, máy fax … nhằm tạo điều kiện tốt nhất có thể cho người lao động làm việc.
Nhờ có những định hướng và cách làm đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của thị trường nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện ngày càng cao. Công ty không những bảo toàn được vốn mà còn tự bổ sung vốn cho mình, đảm bảo tái sản xuất mở rộng
Phòng Tài chính - Kế toán của Công ty có 11 người tại văn phòng Công ty và 1 kế toán của trung tâm III, trong đó có một kế toán trưởng kiêm trưởng phòng Tài chính - Kế toán có nhiệm vụ giúp việc cho Giám đốc trong quản lý lĩnh vực tài chính và công tác kế toán; quản lý điều hành và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các nhiệm vụ của phòng, một thủ quỹ chịu trách nhiệm quản lý và nhập xuất tiền mặt, ngân phiếu, hàng ngày thủ quỹ phải kiểm kê số tồn quỹ tiền mặt thực tế, đối chiếu với sổ sách kế toán và kiến nghị biện pháp xử lý chênh lệch nếu có, một kế toán tài sản cố định có nhiệm vụ quản lý chặt chẽ việc sử dụng tài sản cố định, trích khấu hao, chi phí sửa chữa, cải tiến, đổi mới TSCĐ và tính đúng nguyên giá TSCĐ, một kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, một kế toán tiền lương, một kế toán tiền mặt, tiền gửi, một kế toán tổng hợp và một tổ thu gồm 4 kế toán kiêm chuyên quản các xí nghiệp trực thuộc. Phòng tài chính - kế toán đã có nhiều đóng góp cho hoạt động của Công ty.
2.1.3 Tình hình hoạt động trong thời gian gần đây.
Công ty đã tiến hành tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát nhiều công trình như các công trình truyền dẫn quang, truyền dẫn viba, chuyển mạch, mạng ngoại vi, điện thoại thẻ, thông tin di động, kiến trúc xây dựng. Với mỗi công trình Công ty có thể tham gia ở một hay nhiều khâu như ở khâu lập dự án: tiến hành lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi; lập báo cáo đầu tư, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, thiết kế quy hoạch; báo cáo khảo sát, hồ sơ thẩm định (thẩm định dự án, thẩm định thiết kế và tổng dự toán, thẩm định hồ sơ mới thầu, thẩm định khác).
- Về năng lực tài chính và quản lý tài chính, nhờ có những biện pháp chuyển hướng đúng đắn, kịp thời, linh hoạt phù hợp với yêu cầu của thị trường nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện ngày càng cao. Công ty không ngừng tự bổ sung được vốn cho mình, nhất là vốn cố định, đảm bảo cho tái sản xuất mở rộng.
Tình hình vốn của Công ty qua các năm như sau:
Năm
Đ.vị
2002
2003
2004
Vốn ngân sách cấp
Tr.đ
2.528
2.061
2.061
Vốn tự bổ sung
Tr.đ
4.815
5.526
6.079
Tổng số
Tr.đ
7.343
7.587
8.140
(Nguồn: Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện)
Riêng năm 2005 sau khi đã cổ phần hoá, tổng vốn Công ty là 9,543 triệu đồng, trong đó vốn nhà nước góp là 2,534 triệu và vốn các cổ đông góp là 7,009 triệu đồng.
- Về năng lực tổ chức quản lý, tại Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện, quy trình đang áp dụng hiện nay là chuyên môn hoá theo đặc điểm công nghệ: có đơn vị làm các dự án về chuyển mạch, có đơn vị làm về cáp quang, cáp đồng, có đơn vị làm về vi ba, có đơn vị làm về kiến trúc.
Quy trình sản xuất chính của Công ty: Liên hệ, tìm đối tác, ký kết hợp đồng; khảo sát hiện trường; lập dự án; lập thiết kế tổng dự toán; thanh, quyết toán công trình.
Kết quả hoạt động của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện từ năm 2002 đến 2005 có thể thấy trong biểu sau:
TT
Nội dung
Đ.vị tính
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
Doanh thu
Tr. đ
18.728
26.974
29.159
34.241
2
Lợi nhuận
Tr. đ
1.738
3.712
3.862
5.221
3
Nộp ngân sách
Tr. đ
2.931
3.647
4.072
4.417
4
Nguyên giá TSCĐ
Tr. đ
10.835
9.966
10.630
13.462
5
Vốn chủ sở hữu
Tr. đ
9.675
10.131
11.261
14.057
6
Lao động
Người
245
248
252
254
7
Thu nhập bq/ng/th
1000đ
1.805
2.108
2.402
2.715
(Nguồn:Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện)
Nhìn vào số liệu 4 năm gần đây có thể thấy hoạt động của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện đã đạt những thành tựu đáng kể. Doanh thu và lợi nhuận không ngừng tăng qua các năm. Mặc dù doanh thu và lợi nhuận tăng rất lớn nhưng số lượng cán bộ công nhân viên thì tăng rất chậm không đáng kể sau 4 năm chỉ tăng 14 người chiếm 5,8% chứng tỏ năng suất lao động của cán bộ công nhân viên Công ty đã không ngừng được cải thiện.
2.2 Thưc trạng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một nội dung rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đối với các nhà đầu tư và các ngân hàng thì hoạt động phân tích tài chính rất được coi trọng và được tiến hành từ sớm nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình. Tuy nhiên ở Việt Nam, hầu hết các Công ty mới chỉ tiến hành hoạt động này trong vài năm trở lại đây, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện cũng không nằm ngoài số đó. Trong khoảng thời gian ngắn đó, công tác phân tích tài chính đã bước đầu được quan tâm và có những đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.2.1 Công tác tổ chức hoạt động phân tích.
Nhìn chung Công ty đã quan tâm tới việc tổ chức công tác phân tích tài chính, nhưng hiện nay việc tổ chức hoạt động này vẫn còn khá sơ sài, mang tính hình thức bắt buộc, chưa thực sự vì mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính mà mới chỉ dừng lại ở mức thực hiện đúng theo chủ trương của chế độ kế toán mới. Chưa xây dựng được một quy trình phân tích hoàn chỉnh từ xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích mà chỉ lặp lại các phương pháp, nội dung phân tích tài chính từ năm này qua năm khác. Công ty cũng chỉ phân tích tài chính môt lần duy nhất vào cuối chu kỳ kình daonh (vào cuối mỗi năm).Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do Công ty chưa thực sự thấy rõ tầm quan trọng cũng như hiệu quả hoạt động phân tích tài chính có thể đem lại.
Công tác này do Phòng Tài chính - Kế toán đảm nhận và thực hiện nhằm mục đích đánh giá kết quả hoạt động của Công ty trong năm vừa qua nhằm tìm ra các nguyên nhân và các nhân tố tác động đến kết quả đó, xây dựng các báo cáo, kế hoạch, chiến lược tài chính ngắn hạn và dài hạn, định hướng phát triển cho Công ty trong thời gian tới. Tuy nhiên, hiện nay công tác này chỉ do hai người của phòng đảm nhận và thực hiện tất cả các bước phân tích, hơn nữa các cán bộ của phòng được đào tạo chủ yếu về chuyên ngành kế toán, chưa được đào tạo chính quy về tài chính doanh nghiệp nên hoạt động phân tích tài chính vẫn chưa thực sự phát huy được hết vai trò của nó.
2.2.2 Lựa chọn và xử lý thông tin.
Thông tin được Công ty sử dụng trong phân tích tài chính là các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, và thuyết minh Báo cáo tài chính. Các báo cáo này do phòng Tài chính - Kế toán tổng hợp và lập định kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ mặc dù đã được lập nhưng chưa được Công ty sử dụng trong phân tích.
Số liệu sử dụng trong phân tích thường cũng chỉ lấy số liệu trong hai năm, năm hiện tại và năm liền kề trước đó. Chưa sử dụng số liệu của nhiều năm liên tiếp để đánh giá sự biến động qua nhiều năm và có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ngoài những thông tin có được từ các Báo cáo tài chính trên, Công ty hầu như không sử dụng thêm một nguồn thông tin nào từ bên ngoài như thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất, các thông tin liên quan đến ngành nghề hoạt động… Đây là một thực tế không chỉ của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện mà của hầu hết các công ty ở Việt Nam hiện nay.
Việc xử lý thông tin còn rất sơ sài, hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc tính toán, so sánh, giải thích một số chỉ tiêu mà hầu như chưa có sự đánh giá, giải thích nguyên nhân. Các thông tin sử dụng từ hầu hết là các thông tin có được từ sổ sách kế toán mà không có sự kiểm tra tính xác thực, bổ sung các thông tin khác và xử lý sơ bộ.
2.2.3 Phương pháp phân tích tài chính được sử dụng tại Công ty.
Công ty chỉ áp dụng các phương pháp phân tích truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số. Chưa áp dụng các phương pháp phân tích tài chính hiện đại như phương pháp Dupont. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa hai phương pháp trên vẫn chưa thực sự đồng bộ và phát huy hết được hiệu quả của nó do việc tiến hành so sánh chỉ tiêu của hai năm cũng như so sánh các chỉ tiêu chi tiết với các chỉ tiêu tổng quát không kết hợp với việc phân tích các tỷ số nên không thấy được sự tương quan giữa số tuyệt đối và số tương đối.
- Đối với phương pháp so sánh: Công ty sử dụng để phân tích các Báo cáo tài chính, qua đó xem xét cấu trúc tài sản, nguồn vốn, phát hiện các đặc trưng trong phân bố tài sản và nguồn vốn. Công ty sử dụng phương pháp này vì nó tương đối đơn giản, so sánh giữa số liệu năm nay với số liệu năm trước để thấy mức độ tăng trưởng, so sánh số thực hiện với số kế hoạch để đánh giá mực độ hoàn thành so với kế hoạch đã đề ra.
- Đối với phương pháp tỷ số: Công ty tiến hành phân tích cả 4 nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn, nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động và nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời. Việc xem xét các nhóm chỉ tiêu này cho thấy cơ cấu vốn, đánh giá khả năng thanh toán, hiệu quả hoạt động và quan trọng nhất là xem xét khả năng sinh lời của Công ty.
Công ty vẫn chưa sử dụng phương pháp phân tích Dupont mặc dù đây là một phương pháp đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên nó khá mới mẻ, đòi hỏi phải sử dụng kính tế lượng để đánh giá sự tác động của các chỉ tiêu thành phần với chỉ tiêu tổng hợp và giữa các chỉ tiêu thành phần với nhau.
2.2.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty.
(Ví dụ từ hoạt động phân tích tài chính của Công ty năm 2005)
Để đánh giá thực trạng tài chính của Công ty trong thời gian qua và xây dựng kế hoạch kinh doanh năm tới cũng như kế hoạch tài chính Công ty đã tiến hành phân tích tài chính ở những nội dung sau (thể hiện trong thuyết minh Báo cáo tài chính):
Phân tích Bảng cân đối kế toán.
Công ty đã tiến hành so sánh số đầu kỳ với số cuối kỳ của các chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán để thấy được sự biến động của quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh.
Trước hết xem xét sự biến động của tiền mặt. Dự trữ tiền mặt năm 2005 là 398.156.610 đồng giảm gần một nửa so với năm 2004. Tiền gửi ngân hàng cũng giảm gần 1 tỷ do tiền gửi bằng ngoại tề (JPY) giảm mạnh.
Các khoản phải thu tăng nhanh, năm 2005 phải thu tăng cao hơn so với 2004 là 5.644.003.390 đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải thu khách hàng năm 2005 đã tăng gần 7 tỷ. Phải thu khách hàng lớn như vậy là do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty là tư vấn đầu tư, thiết kế các công trình thông tin, bưu điện cho các công ty viễn thông, bưu điện các tỉnh, nguồn vốn thanh toán của bên A chủ yếu là của Ngân sách Nhà nước và của Ngành nên việc thanh toán thường bị chậm so với tiến độ giao sản phẩm.
Trong năm 2005 Công ty cũng đã đầu tư mua sắm thêm nhiều máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thết bị dụng cụ quản lý làm cho tài sản cố định tăng hơn 2 lần, đến cuối năm 2005 tài sản cố định của Công ty là 4.507.545.301 đồng. Đồng thời, hầu hết các chỉ tiêu khác của phần tài sản đều tăng, trừ một vài chỉ tiêu giảm không đáng kể so với năm 2004 như chi phí trả trước dài hạn, nguyên vật liệu tồn kho làm cho tổng tài sản năm 2005 tăng 5.911.784.058 đồng.
Đối với nợ phải trả, trong các nguồn tài trợ của công ty thì nợ dài hạn chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ và có sự biến động không đáng kể, chủ yếu là do Công ty vay để mua trang thiết bị phục vụ khảo sát thiết kế.Về nợ ngắn hạn của Công ty chiếm tới 85,5% tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.doc