Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay

Lời cảm ơn 1

Lời nói đầu 2

Chương I 4

khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh và Nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế 4

Ngoài quốc doanh 4

I. Đặc điểm của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh 4

1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh 4

2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế 5

2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 6

2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động 6

2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định và ngày càng tăng 7

2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội 7

2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau 7

3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách kinh tế của Nhà nước 10

3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD 10

3.2.Các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển kinh tế NQD 13

4. Đặc điểm của khu vực kinh tế NQD tác động đến quản lý thu thuế 16

ii. Nội dung quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD 18

1 Các sắc thuế áp dụng đối với khu vực kinh tế NQD 18

1.1. Thuế môn bài 18

1.2. Thuế Giá trị gia tăng (GTGT). 20

1.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 22

1.4. Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) 23

1.5. Các sắc thuế khác 23

2- Nội dung quản lí thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 23

2.1 Qui trình quản lí thu thuế đối với các doanh nghiệp 23

2.1.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế 23

2.1.2 Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế 24

2.1.3 Xử lý hoàn thuế: 25

2.1.4 Xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế: 26

2.1.5 Xử lý quyết toán thuế: 26

2.1.6 Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế: 27

2.2. Qui trình quản lý thu thuế: (đối với hộ cá thể kinh doanh công thương nghiệp) 27

2.2.1 Đăng ký thuế 27

2.2.2 Điều tra doanh số ấn định: 28

2.2.3 Xét miễn giảm thuế: 29

2.2.4 Tính thuế, lập sổ bộ thuế (đối với hộ ấn định thuế): 29

2.2.5. Xử lý tờ khai: 30

2.2.6. Xử lý giấy nộp tiền, lập báo cáo KT - TK thuế: 31

Chương II 33

Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay 33

I. Khái quát về bộ máy quản lý thu thuế 33

1. Giới thiệu chung về bộ máy quản lý thu thuế 33

2. Bộ máy quản lý thu thuế khu vực kinh tế NQD 34

II. Thực trạng công tác quản lí thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay 36

1. Kết quả công tác thu thuế 36

1.1. Về số lượng 36

1.1.1.Đối với các doanh nghiệp: 36

1.1.2. Đối với hộ cá thể: 38

1.2. Về vốn đầu tư 38

1.3 . Về lao động 39

1.4. Về đóng góp cho ngân sách 40

1.5. Về đóng góp vào GDP 41

2. Tình hình thực hiện các biện pháp quản lý thu thuế trong thời gian qua 42

2.1. Về quản lý đối tượng kinh doanh 42

2.1.1 Về quản lý các DN NQD 42

2.1.2. Về quản lý hộ kinh doanh cá thể 44

2.2 Về xác định doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán 45

2.3 Ngành thuế đã nghiên cứu, xây dựng các quy trình nghiệp vụ và chỉ đạo thực hiện các quy trình đề ra 45

2.4 Việc phân cấp quản lý đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn chứng từ 46

2.4.1. Về quản lý đối với các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh 46

2.4.2. Về quản lý đối với các hộ kinh doanh cá thể 47

2.5 Tình hình quản lý và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế khu vực kinh tế NQD 49

2.5.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể 49

2.5.2. Đối với khu vực doanh nghiệp 49

III. Một số tồn tại về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay 50

A. Những tồn tại chung 50

1. Một số tồn tại trong các chính sách thuế 50

1.1. Thuế GTGT 50

1.2. Thuế TNDN 52

1.3. Thuế XNK 53

1.4. Thuế Môn bài 54

2. Về nhận thức tư tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử. 54

3.Các chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn cho hoạt động kinh tế NQD 56

4. Khu vực kinh tế NQD thiếu thông tin, dịch vụ tư vấn thuế 57

5. Các cơ quan quản lý Nhà nước, thuế gây nhiều phiền hà cho khu vực kinh tế NQD 58

6. Quản lý đối tượng nộp thuế 59

7. Về quản lý doanh thu nộp thuế 61

8. Về quá trình thực hiện quy trình quản lý thu thuế 63

9. Thất thu thuế ở một số ngành nghề, một số lĩnh vực còn rất lớn 63

10. Bản thân các cơ sở kinh tế NQD cũng còn nhiều tồn tại 66

B. Những tồn tại trong thực hiện quy trình hành thu 67

IV. Nguyên nhân của những tồn tại trên 69

1. Do đặc điểm kinh doanh của khu vực kinh tế NQD 69

2. Do quản lý của cơ quan thuế còn yếu kém 70

Chương III 71

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay 71

I. Quan điểm và định hướng công tác quản lý thu thuế trong thời gian tới 71

1. Quan điểm 71

2. Định hướng 72

ii. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế nqd trong thời gian tới 75

1. Một số giải pháp về các chính sách thuế 75

1.1. Thuế môn bài 75

1.2. Thuế GTGT 75

1.3. Thuế TNDN 76

1.4. Thuế XNK 76

2. Về nhận thức tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử 76

3. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách thuế đối với kinh tế NQD 77

4. Mở rộng hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cung cấp thông tin, tư vấn thuế. 80

5. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước, thuế 82

6. Về quản lý đối tượng nộp thuế 85

7. Về quản lý doanh thu nộp thuế 86

 

doc102 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85% doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán và 100% doanh nghiệp thực hiện kê khai nộp thuế trong đó 90% đã lập và nộp tờ khai đúng thời hạn. Đã cơ bản chấm dứt được tình trạng nộp thuế khoán trong các doanh nghiệp... Theo thống kê số thu thì khu vực doanh nghiệp NQD chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thu của khu vực NQD. Do vậy phản ánh kết quả quản lý doanh nghiệp tương đối tốt. Nguyên nhân thu ở khu vực NQD tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NQD là do số lượng doanh nghiệp tăng nhiều nhưng về cơ bản vẫn là công tác quản lý đã có chất lượng cao hơn. Thể hiện ở những điểm sau: - Trong việc quản lý đối tượng kinh doanh (trình bày ở mục 2.1.1). - Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục thuế phân cấp một số doanh nghiệp cho các chi cục quản lý, một mặt tạo điều kiện cho cục thuế có điều kiện để đi sâu quản lý các doanh nghiệp lớn, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các biểu hiện gian lận thuế, đồng thời tập trung nguồn thu hơn, mặt khác đối với các doanh nghiệp được phân cấp cho chi cục, các chi cục quản lý sát hơn nên số thu cũng tăng. - Cục thuế đã chú ý hơn đến việc kiểm tra quyết toán thuế, đối chiếu hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng trốn lậu thuế, hoàn thuế không đúng... nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nông sản. Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh, có số lượng doanh nghiệp NQD rất lớn, qua công tác xét cấp kinh doanh, cấp mã số thuế và quản lý, cục Thuế đã tổng hợp và đưa ra một số dạng, hình thức kinh doanh trốn lậu thuế giúp cho phòng quản lý, các Chi cục Thuế sớm nhận diện để có biện pháp ngăn ngừa. Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế về quản lý chống hành vi lập hóa đơn, chứng từ không đúng giá thanh toán, cục Thuế đã sớm có văn bản hướng dẫn và chỉ đạo xử lý thống nhất trên địa bàn thành phố vì vậy nhiều doanh nghiệp kinh doanh xe máy đã lập hóa đơn tương đối trung thực, nộp thuế GTGT đầu ra và thuế TNDN đều đặn... Cục thuế Thành phố Hà nội ngay từ đầu năm đã chỉ đạo đôn đốc các doanh nghiệp kê khai tạm nộp thuế TNDN, tổ chức kiểm tra tờ khai, thực hiện ấn định thuế TNDN đối với các doanh nghiệp kê khai không trung thực nên kết quả thu 6 tháng từ khu vực doanh nghiệp đạt khá. Đồng thời qua kiểm tra quyết toán thuế, cũng chỉ đạo đối chiếu tờ khai để điều chỉnh kịp thời. Do đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ nhưng qua kiểm tra quyết toán, đấu tranh vẫn chấp nhận phải nộp thuế TNDN theo số liệu ấn định của cơ quan Thuế. Cục thuế Thành phố Đà nẵng, Đồng nai... chú trọng kiểm tra, đối chiếu việc lập chứng từ mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp, phát hiện nhiều trường hợp lập không đúng, truy thu hàng tỷ đồng. Các cục Thuế Thái Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Cần Thơ cũng chỉ đạo kiểm tra, xử lý các cơ sở kinh doanh xe máy ghi hoá đơn không đúng giá trị thực tế góp phần tăng thu ngân sách. Để chống thất thu ngân sách đối với doanh nghiệp kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn, Cục thuế Quảng Ninh, Khánh Hoà, Lâm Đồng đã tham mưu trình UBND ban hành bảng giá tính thuế áp dụng cho từng loại phòng nghỉ, yêu cầu khách sạn, nhà nghỉ phải nộp hồ sơ, phòng nghỉ, khách đến nhà nghỉ phải đánh dấu vào sơ đồ để tiện cho công tác kiểm tra. Về quản lý đối với các hộ kinh doanh cá thể Đối với hộ cá thể ngành thuế cũng đã triển khai việc thực hiện kế toán hộ kinh doanh, khuyến khích mọi hộ kinh doanh thực hiện kế toán và lập hoá đơn, chứng từ. Để thúc đẩy các địa phương đẩy mạnh triển khai kế toán hàng năm, Tổng cục Thuế đều giao chỉ tiêu cho các Chi cục Thuế phải tổ chức triển khai. Theo số liệu tổng hợp đến hết năm 2000 có trên 100 ngàn hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán chiếm khoảng 70% số hộ kê khai kinh doanh lớn, trong đó khoảng 50% số hộ làm kế toán đã được cơ quan thuế chấp thuận chuyển sang nộp thuế theo kê khai ở các mức độ khác nhau. Số còn lại tuy đã kê khai nhưng do nội dung kê khai chưa đúng, thiếu trung thực nên cơ quan thuế phải áp dụng việc ấn định thuế. Về số hộ kinh doanh triển khai hết tháng 6/2001, theo số liệu kiểm tra của 48 địa phương số hộ được giao triển khai là 85.570 hộ, số hộ đã triển khai là 72.100 hộ đạt 85% số hộ được giao và so với tháng 12/2000 số lượng hộ kinh doanh đã triển khai kế toán tăng 2 lần. Theo thống kê số hộ lớn chiếm 45% tổng số hộ kinh doanh nhưng số thuế chiếm trên 80% tổng số thuế ở khu vực hộ cá thể. Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai kế toán và tập trung chống thất thu vào những hộ này, còn lại 55-60% hộ vừa và nhỏ sẽ tiếp tục thực hiện ổn định thuế để họ yên tâm kinh doanh. Vậy qua triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh kết quả thu thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai tăng lên rõ rệt (như nêu ở phần trên) nhiều hộ kinh doanh qua triển khai thực hiện sổ sách kế toán, số thuế tăng gần gấp nhiều lần so với số thuế thu khoán. Ngoài ra qua doanh thu phản ánh trên sổ sách kế toán còn giúp cho cơ quan Thuế đánh giá đầy đủ hơn tình hình quản lý doanh thu, thất thu về doanh thu, làm cơ sở để điều chỉnh doanh thu đối với hộ khoán. Để triển khai tốt chế độ kế toán hộ kinh doanh các địa phương đã tập trung chỉ đạo kiên quyết vừa chú trọng công tác cán bộ, từ giao nhiệm vụ cụ thể cho đội trưởng đội thuế chịu trách nhiệm triển khai đến việc tăng cường chế độ báo cáo định kỳ để nắm tình hình, rút kinh nghiệm và chỉ đạo kịp thời vừa kết hợp với các biện pháp khác như kết hợp triển khai chế độ kế toán với việc sử dụng hoá đơn của hộ kinh doanh, thành lập và mở rộng các loại dịch vụ kế toán, tăng cường kiểm tra xử lý vi phạm, tháo gỡ kịp thời các khó khăn trong quá trình triển khai... nên kết quả vừa tăng về số hộ, doanh thu mức thuế kê khai cũng tăng. 2.5 Tình hình quản lý và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế khu vực kinh tế NQD Đối với hộ kinh doanh cá thể Để tránh cho cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu tiền của từng hộ kinh doanh dễ dẫn đến tiêu cực, từ nhiều năm nay ngành Thuế đã phối hợp với Kho bạc tổ chức cho hộ kinh doanh nộp tiền trực tiếp vào Kho bạc. Theo báo cáo của các địa phương về cơ bản các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh lớn, hộ sản xuất kinh doanh ở những địa bàn tập trung đều đã thực hiện nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc, cơ quan Thuế chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc và kiểm tra việc nộp thuế, cơ quan Kho bạc trực tiếp thu tiền thuế. Trường hợp cơ quan Kho bạc chưa tổ chức thu trực tiếp thì cơ quan Thuế mới tổ chức thu. Tuy nhiên do lực lượng của Kho bạc còn mỏng nên ở một số nơi để hỗ trợ thu thuế nhanh nên cơ quan Thuế phải cử cán bộ cùng tham gia với Kho bạc tổ chức thu nộp thuế. Với những biện pháp chủ đạo nêu trên, công tác quản lý thu thuế NQD trong những năm qua đã có những chuyển biến tương đối tích cực, giảm dần thất thu thuế cả về đối tượng và về doanh số. Theo thống kê số hộ quản lý thu thuế trong mấy năm gần đây đạt khoảng 1,6 triệu hộ bằng khoảng 85% số hộ điều tra thống kê. Số hộ chưa quản lý thu thuế tập trung vào những loại hộ sản xuất trong các làng nghề, hộ kinh doanh sớm tối, hộ hành nghề xe ôm, xích lô, xe súc vật kéo. Tất cả các hộ kinh doanh có địa điểm cố định về cơ bản đã được đưa vào diện quản lý thu thuế thường xuyên. Đối với khu vực doanh nghiệp Cơ quan thuế đã phối hợp với kho bạc tổ chức cho doanh nghiệp nộp thuế qua kho bạc đồng thời để giám sát chặt chẽ hơn việc thành lập, hoạt động và ngừng hoạt động của doanh nghiệp. Từ năm 1999 chuyển giao lên cục Thuế quản lý đã xác định được 5.000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhưng thực tế không hoạt động hoặc giải thể, nhưng cơ quan cấp đăng ký kinh doanh vẫn không thu hồi giấy phép. Năm 2001 dự toán từ NQD nhà nước giao tăng trên 10% so với thực thu năm 2000. Để thực hiện được dự toán trên, ngay từ tháng 12/2000 Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan Thuế các cấp tập trung hoàn thiện các biện pháp đã nêu trên: III. Một số tồn tại về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay A. Những tồn tại chung Một số tồn tại trong các chính sách thuế Thuế GTGT Theo quy định tại Luật thuế GTGT thì mọi tổ chức, cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô kinh doanh đều là đối tượng nộp thuế GTGT và đòi hỏi mọi đối tượng nộp thuế phải thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ. Nhưng trên thực tế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ tại các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể không nghiêm, đa số không thực hiện, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách thuế. Theo thông lệ quốc tế, thuế GTGT thường chỉ áp dụng đối với các tổ chức kinh tế đạt đến một quy mô kinh doanh nhất định. Luật thuế GTGT hiện hành áp dụng với tất cả các đối tượng, nhất là các đối tượng chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ vừa làm công tác quản lý thuế thêm phức tạp, vừa ảnh hưởng đến nghĩa vụ và quyền lợi của các tổ chức kinh doanh. Về thuế suất thuế GTGT: Nguyên tắc của thuế GTGT là thuế suất được xây dựng và áp dụng theo mặt hàng. Qua một số lần điều chỉnh, bổ sung nguyên tắc này đã không được duy trì, thuế suất thuế GTGT một số hàng hoá, dịch vụ vừa theo mặt hàng, vừa theo công dụng. Cùng là sản phẩm cơ khí nhưng máy móc thiết bị thì áp thuế 5%, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì áp dụng thuế suất 10%, dẫn đến có mặt hàng nếu cơ sở kinh doanh mua về thì được coi là máy móc thiết bị, nhưng đối tượng khác mua về thì bị coi là sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ: Máy in nếu bán đồng bộ với máy tính thì được coi là máy móc thiết bị và được áp dụng thuế suất 5%, nhưng nếu bán rời thì áp dụng thuế suất 10%. Việc phân biệt các máy móc, dụng cụ chuyên dùng cho y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh rất phức tạp. Ví dụ: Bảng nếu bán cho nhà trường được coi là dụng cụ để giảng dạy được áp dụng thuế suất 5%, các đối tượng khác mua thì áp dụng thuế suất 10%. Về kê khai nộp thuế: Theo Luật thuế GTGT, mọi tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng tháng đều phải nộp tờ khai gửi cơ quan thuế, không phân biệt quy mô, có phát sinh doanh số hay không... Cùng với việc kê khai cơ sở kinh doanh còn phải lập bảng kê hoá đơn, chứng từ liên quan đến hàng hoá mua vào, bán ra. Đối với khu vực kinh tế NQD, nhất là đối với những cơ sở có quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, không có người chuyên trách, việc lập tờ khai và bảng kê hàng tháng như vậy gặp nhiều khó khăn và tăng chi phí. Theo luật thuế GTGT hiện hành cho áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ đối với một số hàng hoá, chủ yếu là hàng nông sản là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế mua hàng hoá nông sản. Nhưng trên thực tế đang bị lợi dụng, trong khi việc đối chiếu, xác minh của cơ quan thuế không thể thực hiện được đối với mọi trường hợp, do đó đã có nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng quy trình này kê khai tăng giá mua, lập bảng kê khống, tăng số thuế đầu vào nhằm mục đích trốn thuế hoặc hoàn thuế khống, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh nghiêm túc. Việc thực hiện tính thuế theo hai phương pháp: khấu trừ và trực tiếp đã dẫn đến cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng mức thuế phải nộp khác nhau, có mặt hàng thực hiện theo phương pháp khấu trừ thì số thuế phải nộp lớn hơn nếu tính theo phương pháp trực tiếp hoặc ngược lại, điều này vừa gây bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, vừa sơ hở để đối tượng kinh doanh lợi dụng. Về hoá đơn chứng từ: Luật thuế GTGT chỉ được phát huy đầy đủ tính ưu việt nếu thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. Thực tiễn ở nước ta, việc thực hiện hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá chưa nghiêm túc, chưa phải là yêu cầu bắt buộc đối với mọi đối tượng mua hàng. Vì vậy nhiều tổ chức và cá nhân kinh doanh không xuất hoá đơn giao cho người mua, làm ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế. Nhiều doanh nghiệp còn vi phạm việc lập và sử dụng hoá đơn như: ghi hoá đơn không đúng phát sinh kinh tế, mua bán và sử dụng hoá đơn của cơ sở khác để lập giao cho khách hàng... cũng ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế của bên mua. Thuế TNDN - Các doanh nghiệp NQD hiện nay đang áp dụng thuế suất thuế TNDN 32% cao hơn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài nước đang được hưởng thuế suất TNDN 25%. - Theo quy định chi phí tiền lương đối với kinh tế NQD được xác đinh tính vào chi phí căn cứ vào hợp đồng lao động và phải phù hợp với định mức tiền lương được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động cùng lĩnh vực, ngành nghề, không được chấp nhận một khoản chi phí có tính chất tiền công, tiền lương nào. Tuy nhiên trong thực tế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, các doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động theo mức độ cống hiến và đòi hỏi của họ, dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp + Đối với các trường hợp không có hợp đồng lao động về nguyên tắc được xác định theo mức lương do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định cho từng ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng lập danh sách lao động khống nhằm mục đích tăng chi phí, giảm thu nhập chịu thuế. + Đối với hộ kinh doanh cá thể không được tính vào chi phí giá trị sức lao động của bản thân chủ hộ bỏ ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Tiền công trả cho người lao động khác thường không được xác định rạch ròi trong chi phí vì hộ kinh doanh áp dụng biện pháp khoán do không thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Điều này ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách thuế. - Chi phí khác: Thường trong qúa trình kinh doanh ngoài các chi phí như KH TSCĐ, tiền lương, cơ sở kinh doanh còn phải chi các hoạt động có tính chất tự nguyện như: lũ lụt, tiếp khách... Những khoản này đều bị khống chế khi chi cao hơn thì không được tính vào chi phí. Vì vậy thuế TNDN đã tính khống mà cơ sở kinh doanh vẫn phải nộp. - Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp theo quy định hộ kinh doanh có thu nhập dưới mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng thì được miễn thuế, nếu thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế. Điều này mâu thuẫn với mức miễn thuế theo chính sách thuế thu nhập của người có thu nhập cao, chính sách này quyết định khởi điểm đánh thuế là 2 triệu trở lên/ tháng/người. - Thuế TNDN bổ sung: Theo quy định thì căn cứ vào lợi thế khách quan của doanh nghiệp để xác định với mức thuế suất là 25%, nhưng trong thực tế điều này khó xác định nên mọi đối tượng có thu nhập cao đều phải nộp thuế thu nhập bổ sung. Thuế XNK Thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến khích sản xuất trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách Thuế XNK của ta đã bộc lộ những hạn chế là. - Việc xác định các mức thuế bảo hộ còn thiếu chọn lọc chưa tính đến lợi thế so sánh của nền kinh tế, chưa tính đến điều kiện và thời hạn bảo hộ, một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu hướng vào sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, không vươn rộng lên mở rộng thị trường ra bên ngoài. - Biểu thuế nhập khẩu hiện hành còn tương đối phức tạp với nhiều mức thuế khác nhau, tạo kẽ hở để các doanh nghiệp trốn lậu thuế gây khó khăn cho quản lý thuế. - Chính sách miễn giảm thuế còn khá rộng rãi một mặt tạo kẽ hở cho việc trốn, lách thuế làm thất thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác làm cho chính sách thuế XNK thiếu tính minh bạch. Thuế Môn bài Thuế môn bài một năm thu một lần nhằm mục đích kiểm kê, kiểm soát, phân loại cơ sở kinh doanh. Thuế môn bài hiện đang có 6 mức: 850.000 đồng, 550.000 đồng, 325.000 đồng, 165.000 đồng, 60.000 đồng, 25.000 đồng, không phân biệt tổ chức kinh tế hay hộ kinh doanh cá thể nên đã bộc lộ những nhược điểm. - Thuế môn bài chưa thể hiện được đầy đủ mục đích phân loại cơ sở kinh doanh vì tổ chức kinh tế có thu nhập hàng chục tỷ đồng/năm cũng nộp thuế môn bài theo mức 850.000 đồng/năm trong khi hộ kinh doanh cá thể thu nhập từ 1.250.000 đồng trở lên đều phải nộp theo mức thuế môn bài trên. Như vậy đã không khuyến khích được đối tượng nộp thuế một cách công bằng. - Thuế môn bài đang áp dụng chỉ phù hợp với thuế doanh thu và thuế lợi tức của những năm 1996. Từ năm 1999 thực hiện luật thuế GTGT và thuế TNDN thì thuế môn bài đã không còn phù hợp nữa. 2. Về nhận thức tư tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử. Thực tiễn đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều trong cả các cơ quan quản lý Nhà nước và nhân dân. Báo Doanh nghiệp 4/2001 trong bài “có sự phân biệt đẳng cấp trong kinh doanh ở Việt nam” tác giả đã đăng một chuyên đề khoa học của Viện nghiên cứu về Đào tạo và quản lý. Qua 11 chỉ tiêu đưa ra để đánh giá cho thấy. Bảng 10: Phân loại tiêu chí so sánh các loại hình doanh nghiệp Tiêu chí so sánh DNNN DN vốn F.D.I DNNQD 1- Về thành lập và đăng ký kinh doanh C B A 2- Về giải thể doanh nghiệp. C B A 3- Về phá sản doanh nghiệp. A A A 4- Về vay vốn và tham gia thị trường A B C 5- Tuyển dụng lao động A B C 6- Chính sách tiền lương, tiền công B A C 7- Thuế và các chính sách tài chính B A C 8- Chính sách về đất đai. A B C 9- Hợp tác kinh doanh và liên doanh với nước ngoài. B A C 10- Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương mại. A B C 11- Thanh tra, kiểm tra. B A C Nguồn: Báo Doanh nghiệp số 4 - 2000 Nếu quy định sự thuận lợi cao nhất là A, sự thuận lợi ở mức trung bình là B và sự khó khăn là C thì với 11 tiêu chí đã nêu cho thấy các doanh nghiệp NQD chỉ có 3 tiêu chí là giành được sự thuận lợi cao, 3 tiêu chí này có thể do bản thân doanh nghiệp tự quyết định còn 9 tiêu chí khác có liên quan đến các cơ quan quản lý thì đều thuộc loại C. Bảng so sánh phản ánh sự nhận thức của cơ quan quản lý vừa thể hiện sự phân biệt đối xử của bản thân cơ quan quản lý và các thành phần kinh tế. Trong dân cư quan niệm rằng kinh tế NQD vẫn gắn liền với ý nghĩ “buôn gian bán lậu” vẫn chưa phải đã hết, thể hiện qua việc mua sắm hàng hoá vẫn muốn mua của Nhà nước, con em xin việc làm cũng muốn trở thành công chức hoặc cán bộ công nhân viên Nhà nước... Bản thân các ông chủ kinh doanh cũng chưa tự thoát được những mặc cảm mà xã hội đã gán cho từ đó chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nhiều người kinh doanh vẫn còn có ý thức nghe ngóng chờ đợi. Bên cạnh đó trong chính sách thuế và tổ chức quản lý thuế cũng còn thực hiện tương đối rõ nét sự đối xử này. 3.Các chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn cho hoạt động kinh tế NQD Trước hết nói về Luật Doanh nghiệp đã được thực hiện từ 1/1/2000 nhưng đến nay còn nhiều văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể làm cho cơ sở kinh tế NQD lúng túng khi thực hiện, các cơ quan quản lý gây phiền hà sách nhiễu như qui định các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những điều kiện để kinh doanh các ngành nghề đó; các lĩnh vực kinh doanh bỏ giấy phép và chuyển thành điều kiện kinh doanh; thế nào là ngành nghề mới... Danh mục các ngành nghề khu vực kinh tế NQD được ban hành từ năm 1993 đã lạc hậu so với thực tế nhưng chưa được sửa đổi lại. Hệ thống phân loại và đăng ký mã số ngành nghề, mặt hàng có sự khác biệt và không thống nhất giữa các ngành gây khó khăn cho cơ sở đăng ký khi nhập khẩu, khi áp thuế suất. Nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp cuối cùng các cơ sở kinh tế NQD vẫn là người thiệt nhất. Trong chính sách thuế có tình trạng tương tự. Các luật và các văn bản hướng dẫn chuyên ngành thường đưa nội dung thuế nhưng mâu thuẫn với các luật thuế hiện hành, làm cho doanh nghiệp rất lúng túng khi triển khai thực hiện. Do đó ngày 24/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phải có chỉ thị 07/2001-CT-TTg yêu cầu tất cả các ngành khi xây dựng các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên ngành không được đưa nội dung quy định về thuế trong các văn bản đó đồng thời phải rà soát ngay nội dung quy định về thuế trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, phát những điểm không phù hợp với luật thuế để kiến nghị Bộ Tài chính và Chính phủ xem xét quyết định. 4. Khu vực kinh tế NQD thiếu thông tin, dịch vụ tư vấn thuế Trước hết, đó là các thông tin liên quan đến luật pháp điều chỉnh và chi phối quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Theo phản ánh của các doanh nghiệp họ đều biết được các văn bản pháp quy qua hệ thống thông tin báo chí và đến khi các văn bản pháp luật họ tiếp nhận được thường rất chậm. Không có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn họ. Trong các trường hợp xảy ra tranh chấp, chưa có cơ quan pháp luật nào đứng ra trung gian giải quyết hoặc tư vấn cho họ giải quyết. Phát triển kinh tế thị trường đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu những thông tin về thị trường, giá cả và dự báo diễn biến rủi ro của thị trường và giá cả là rất quan trọng giúp họ có thể tránh được rủi ro. Tuy nhiên đến nay chưa có cơ quan nào tư vấn giúp họ trong việc này dẫn đến nhiều trường hợp bán hàng bị ép giá, mua hàng bị nâng giá... Tư vấn về kỹ thuật cũng đang là vấn đề nổi cộm, nhiều cơ sở kinh doanh do không nắm được tính năng tác dụng của các thiết bị trên nên thường bị khách hàng lừa, thậm chí phải mua cả máy móc, thiết bị cũ lạc hậu bằng giá của máy mới mà không biết. Trong lĩnh vực thuế đến nay chưa hình thành các trung tâm dịch vụ về thuế, về kế toán để người kinh doanh có thể qua đó được hướng dẫn, giúp đỡ mà vẫn tập trung gặp tìm hiểu trực tiếp qua cơ quan thuế. Tư vấn thuế là một loại hình tư vấn nằm trong tư vấn tài chính, vì công tác thuế là một cấu thành của công tác tài chính xét ở phạm vi doanh nghiệp hay trên phạm vi xã hội. Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, cách thức sử lý các mối quan hệ liên quan đến các đối tượng nộp thuế, tính thuế, thuế suất thủ tục khai nộp, thời hạn nộp thuế, điều kiện miễn giảm thuế, hoàn thuế: Cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: Thứ nhất: Tư vấn thuế là dịch vụ công do các cơ quan thuế cung cấp cho các đối tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Thứ hai: Tư vấn thuế còn là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn thuế cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Cơ sở tạo nên tư vấn thuế suất phát từ các đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật về thuế và từ chính các cơ quan thuế. Trước hết, số lượng các đối tượng nôp thuế tạo nên nhu cầu không nhỏ dịch vụ tư vấn thuế. Hiện nay, cả nước có hơn 5.700 DNNN, khoảng 60.000 DNTN, CTHH, Công ty Cổ phần và trên 1,6 triệu hộ kinh doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước, phục vụ nhu cầu xã hội. Nhưng việc hiểu biết đầy đủ các quy trình như kê khai, tính thuế, nộp thuế và việc áp dụng hai sắc thuế mới không phải tất cả các đối tượng nộp thuế và không bị lúng túng trong quá trình thực hiện. Do vậy nhu cầu về tư vấn thuế là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó dịch vụ tư vấn còn có một số tồn tại: Thứ nhất: Các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn thuế chưa phát triền, dịch vụ tư vấn thuế mơi định dạng rõ nét ở dạng dịch vụ công nhưng hoạt động chưa đủ “độ sâu” mới chỉ ở hình thức tuyên truyền phổ biến trên phương tiện thông tin đai chúng, dịch vụ tư vấn thuế tư chưa được phát triển có tổ chức, hoạt động tư vấn chủ yếu là dịch vụ kế toán, kiểm toán, xác định cơ cấu tài chính Về cán bộ tư vấn khôngchỉ thiếu về số lượng mà năng lực tư vấn cũng là một vấn đề bất cập dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thuế. Thứ hai: Về hình thức dịch vụ tư vấn còn quá đơn điệu chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp. Nội dung tư vấn mới chỉ dừng lại ở thông tin về thuế suất, thủ tục đăng ký, kê khai thuế, chưa thực sự thể hiện tính cách một quá trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu lập sổ sách kế toán đến các khoản thuế phải nộp. 5. Các cơ quan quản lý Nhà nước, thuế gây nhiều phiền hà cho khu vực kinh tế NQD Theo báo cáo điều tra do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện thì có tới 88% doanh nghiệp NQD bị kiểm tra, thanh tra về thuế, 48% bị kiểm tra về quản lý thị trường, 36% bị kiểm tra về lao động, 26% bị kiểm tra về môi trường... Trong đó nhiều doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra nhiều lần trong một năm, nhiều việc, nhiều nội dung có sự kiểm tra, thanh tra trùng lặp nhưng không cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết... Mỗi cuộc kiểm tra, thanh tra đều lãng phí thời gian và tiền của các doanh nghiệp. Tình trạng hình sự hoá các quan hệ kinh tế cũng đang là vấn đề cần chấn chỉnh, không ít các tranh chấp chỉ mang tính chất hành chính hoặc dân sự cũng được các cơ quan pháp luật can thiệp. Trong việc cấp mã số thuế, bán hoá đơn, hoàn thuế, miễn giảm thuế cũng đang bị các doanh nghiệp kêu ca, đặc biệt là trong việc hoàn thuế. Theo quy định của ngành Thuế trong thời gian 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ xin hoàn thuế, cơ quan thuế phải có quyết định hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên chỉ 30-40% là thực hiện đúng, còn lại 60-70% chủ yếu của cơ sở kinh tế NQD là không được giải quyết đúng hạn. Nhiều trường hợp hoàn thuế yêu cầu cơ sở kinh doanh phải cung cấp hoặc giải thích những điều không có trong quy định, do vậy nhiều cơ sở kinh doanh đáng lễ được hoàn thuế họ cũng không xin hoàn mà để trừ vào phát sinh kỳ sau - dẫn đến ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Theo các luật thuế, các doanh nghiệp được hoàn lại số thuế nộp thừa nhưng thủ tục và thời gian xin hoàn số thuế nộp thừa rất phức tạp. Các doanh nghiệp kêu ca nhiều nếu nộp thừa xin hoàn lại rất khó, muốn xin hoàn thuế phải xu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6937.doc
Tài liệu liên quan