Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

1.1. Khái niệm chung phương thức tín dụng chứng từ (TDCT) 2

1.2. Qui trình nghiệp vụ thanh toán trong phương thức tín dụng chứng từ(TDCT) 7

1.3. Phương thức TDCT dưới tác động của thông lệ quốc tế và luật pháp quốc gia 8

 1.3.1. Quá trình ra đời và phát triển của UCP: 9

 1.3.2.Tính chất pháp lý của UCP 500 9

 1.3.3. Áp dụng UCP vào Việt Nam 10

 1.3.4. Mối quan hệ giữa UCP 500 và hệ thống luật quốc gia 10

1.4. Thư tín dụng thương mại 11

 1.4.1. Khái niệm 12

 1.4.2. Chức năng của L/C 12

 1.4.3. Đặc điểm & tính chất của L/C 12

 1.4.4. Nội dung chủ yếu của L/C 14

1.5. Các loại thư tín dụng và trường hợp vận dụng 15

1.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan chủ yếu trong phương thức TDCT 18

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN BẰNG TDCT TẠI NHĐT & PT HÀ NỘI

2.1. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT&PT Hà Nội 21

2.2. Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C tại NH 23

 2.2.1. Thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C 24

 2.2.2. Thanh toán hàng xuất khẩu bằng L/C 26

2.3. Những thành tích chủ yếu và hạn chế tồn tại trong hoạt động thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội.

 2.3.1. Những thành tích 29

 2.3.2. Những hạn chế và tồn tại 31

2.4. Một số nguyên nhân ảnh hưởng hạn chế đến hoạt động TTQT bằng L/C tại NHĐT&PT Hà Nội

 2.4.1. Nhóm nguyên nhân khách quan 34

 2.4.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan 40

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI

3.1 Các nhóm giải pháp cụ thể.

3.1.1. Những giải pháp về nghiệp vụ 43

3.1.2. Những giải pháp trong quản lý điều hành của NHĐT&PT Hà Nội 43

3.1.3. Những giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C 45

3.1.4. Những giải pháp trong công tác tổ chức, đào tạo cán bộ 46

3.1.5. Những giải pháp về mặt công nghệ 47

3.1.6. Giải pháp xây dựng chiến lược khách hàng 47

3.1.7. Giải pháp về công tác ngân hàng đại lý 51

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

 3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành liên quan 53

 3.2.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước. 55

 3.2.3. Kiến nghị đối với khách hàng 56

 3.3.4. Kiến nghị với Uỷ ban Ngân hàng - Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế về điều chỉnh, bổ sung một số điều khoản của UCP 57

KẾT LUẬN 59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
siêu chiếm khoảng 16,8% khá cao so với thời kỳ 1998-2002 Khối lượng thanh toán L/C nhập khẩu qua NHĐT&PT Hà Nội rất lớn phản ánh phần nào uy tín của Ngân hàng đối Người nhập khẩu, Ngân hàng nước ngoài và các bên khác có liên quan. Hoạt động thanh toán quốc tế, hiện nay, tồn tại 3 phương thức thanh toán phổ biến là phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu và phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Cả ba phương thức đều có những mặt mạnh, mặt yếu khác nhau đối với từng bên tham gia vào các giao dịch. Thật vậy, Quyền lợi và nghĩa vụ của nhà xuất khẩu và nhập khẩu thay đổi theo từng phương thức thanh toán nhưng thanh toán bằng L/C là đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu nhất. Cho nên nhiều nhà nhập khẩu Việt Nam đã tin tưởng chọn NHĐT&PT Hà Nội là nơi phát hành L/C của họ. Theo tổng kết của NHĐT&PT Hà Nội (Bảng2), tuy trong năm 2002 tỉ lệ L/C nhập khẩu trong tổng nguồn thu từ thanh toán quốc tế có giảm đi chút ít, song lại được đánh giá là một năm thành công với doanh số thu được lớn nhất từ khi có hoạt động thanh toán quốc tế tới nay, khoảng 102,5 triệu USD. Trong năm 2002 NHĐT&PT Hà Nội được NHĐT&PT Việt Nam đánh giá là Ngân hàng hàng đầu trong hoạt động thanh toán bằng chứng từ trong hệ thống Ngân hàng đầu tư. 2.2.2. Thanh toán hàng xuất khẩu bằng L/C Ngược lại với thanh toán L/C nhập khẩu, thanh toán L/C xuất khẩu quá nhỏ bé. Kim ngạch L/C xuất khẩu năm 2000 đạt 0,31 triệu USD, đến năm 2002 chỉ đạt 5,38 triệu USD( bằng 4,14% so với tổng doanh số thanh toán quốc tế) Quan sát bảng ta thấy, Năm 1998 và 1999 giá trị L/C xuất khẩu rất bé thậm chí năm 1999 doanh số còn giảm đi, luận giải về vấn đề này sẽ có rất nhiều nguyên nhân khác nhau song về phương diện nào tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu năm 1997 có tác động tới Việt Nam. Đồng tiền các nước Châu á mất giá đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam lên giá, vì vậy khi đồng tiền lên giá nó sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hơn là xuất khẩu. Bảng 4: Biến động của doanh số L/C xuất khẩu giai đoạn 1998-2002 Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Doanh số L/C xuất khẩu(triệu USD) 0.18 0.21 0.31 1.68 5.38 Lượng tăng giảm tuyệt đối so với năm trước (triệu USD) - 0.03 0.2 1.37 3.7 Lượng tăng giảm tương đối so với năm trước(%) - 17.01 181.82 441.94 220.24 Lượng tăng giảm so với kỳ gốc năm 1998( lần) - 1.17 1.72 9.33 29.89 Tỷ trọng L/C xuất khẩu trong tổng doanh thu từ thanh toán quốc tế(%) 0.81 0.61 0.46 1.62 4.14 (* Nguồn: Theo báo cáo của Phòng Nguồn Vốn kinh doanh NHĐT&PT Hà Nội) Tuy nhiên khi ta quan sát biểu đồ thì xu hướng chủ đạo là gia tăng. Đặc biệt trong năm 2002 thanh toán L/C xuất khẩu đạt mức kỉ lục 5,38 triệu USD tăng 220% so với năm 2001, lượng tăng tuyệt đối là 3,7 triệu USD, tăng khoảng 29,8 lần so với năm 1998 . Tuy năm 2001 có mức tăng trưởng 441,9% song lượng gia tăng tuyệt đối chỉ là 1,37 triệu USD kém xa so với lượng tăng của năm 2002.(Do năm 2000 doanh số thu được thấp) Có được sự tăng trưởng thần kỳ đó do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn do sự tăng trưởng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, mua bán ngoại tệ, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng vào hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ, quy trình nghiệp vụ gọn nhẹ, một cửa.... Tuy nhiên, ta có thể xem xét một nguyên nhân quan trọng đó là: Do sự tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua từ 2000 - 2002. Bảng 5: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thời kỳ từ 2000-2002 Năm 2000 2001 2002 Dầu thô(nghìn tấn) 15.423,5 16731,6 16853 Dệt may(triệu USD) 1891,9 1975,4 2710 Thuỷ hải sản(triệu USD) 1478,5 1777,6 2024,1 Gạo ( nghìn tấn) 3476,7 3729,5 3241 Cà phê(nghìn tấn) 733,9 931,2 711 Chè(nghìn tấn) 55,6 68,2 75 Nguồn: Thời Báo kinh tế Việt Nam số 1 năm 2003 Các mặt hàng như gạo, cà phê tuy sản lượng có giảm nhưng bù lại giá cả của các mặt hàng này tăng lên rất mạnh trong năm 2002. Cũng theo đánh giá của TBKTVN số 1 năm 2003, giá gạo trên thị trường thế tăng 9% tới 16% sau 5 năm liên tục giảm. Giá gạo Việt Nam bán ở mức 187 USD/tấn( giá FOB, 5% tấm) và 167 USD/tấn( FOB, 25% tấm) tăng 18% đến 20% so với năm 2001. Đối với mặt hàng cà phê, chỉ trong 4 tháng cuối năm 2002 giá cà phê tăng mức kỉ lục đạt 780USD/tấn, tính chung cho cả năm giá cà phê Robusta đạt 560 USD tăng 9% so với năm 2001(đây là loại cà phê Việt Nam xuất khẩu). Thêm vào đó các mặt hàng như dệt may tăng trưởng liên tục năm 2002 đạt hơn 2,7 tỷ USD, tăng hơn 800 triệu USD so với năm 2001, thuỷ sản đạt mức hơn 2 tỷ USD( Khi Việt Nam ký hiệp định thương mại Việt- Mỹ, riêng thị trường Mỹ kim ngạch dệt may đạt tới hơn 975 triệu USD). Các mặt hàng dầu thô tăng giá do tâm trạng lo ngại chiến tranh vùng Vịnh, các nước OPEC quyết định hạn chế sản xuất dầu... Trong bối cảnh đó các khách hàng xuất khẩu quen thuộc của NHĐT&PT Hà Nội như Tổng công ty lương thực miền Bắc, tổng công ty chè, một số công ty xuất nhập khẩu dầu mỏ...đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình khi thị trường thế giới đầy thuận lợi. Tuy nhiên giá trị của các mặt hàng thường là nông sản phẩm chưa qua chế biến nên giá trị của hàng hoá thấp. Bởi vậy, giá trị thanh toán L/C cũng ở mức thấp mà thôi. 2.3. Những thành tích chủ yếu và hạn chế trong hoạt động thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội. 2.3.1. Những thành tích a - Hoạt động thanh toán quốc tế đã được NHĐT&PT Hà Nội quan tâm đầu tư đúng mức, được NHĐT&PT Việt Nam thống nhất quá trình tổ chức phối hợp công tác giữa các phòng ban và qui trình thanh toán quốc tế trong toàn hệ thống. Trên cơ sở áp dụng tiêu chuẩn ISO9001 NHĐTPT Việt Nam. NHĐTHà Nội đã có bước kế thừa phát triển hơn nữa quy trình trên. Thông qua việc sắp xếp, tổ chức, kiện toàn lại cơ cấu một cách hợp lý, từ đó phát huy đủ khả năng của từng người, từng phần tử trong hệ thống. Với việc đạt được mục tiêu “sử dụng đúng người, giao đúng việc”, NHĐT&PT Hà Nội đã và đang tạo nên tính "trồi " mạnh mẽ của mình, tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng đối với các NHTM lớn khác trên địa bàn thủ đô. Bảng 6 : Doanh số thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội giai đoạn 1998-2002 Đơn vị : triệu USD Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Doanh số thanh toán L/C 17.11 27.56 56.99 86.71 108.88 Chuyển tiền điện 3.2 5.11 8.22 12.48 16.5 Thanh toán nhờ thu 1.2 1.5 2 4.5 5.5 Doanh số thanh toán quốc tế 22.11 34.17 67.21 103.7 129.9 (* Nguồn: Theo báo cáo của Phòng Nguồn Vốn kinh doanh NHĐT&PT Hà Nội) Minh chứng cho điều đó, kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội có được trong giai đoạn 1998-2002 là khả quan và hết sức tự hào. Doanh số thanh toán quốc tế không ngừng tăng trưởng với quy mô và tốc độ ngày càng tăng. Doanh thu tăng bình quân 26,94 triệu USD với tốc độ bình quân rất cao là 51,9%. Tỉ lệ tăng trưởng cao hơn so với chỉ tiêu của toàn hệ thống khoảng 25%. b - Tạo được cơ sở lòng tin đối với khách hàng trong và ngoài nước Có thể nói NHĐTPTHà Nội là một trong những NHTM quốc doanh lớn và có uy tín của hệ thống NHĐT&PT Việt Nam so với các NHTM quốc doanh của các hệ thống khác, cũng như của một chi nhánh NHĐT khác trên địa bàn thủ đô. Bảng 7: Biến động phí dịch vụ giai đoạn 1998-2002 Đơn vị : USD Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Phí dịch vụ 36713 52332 116240 216920 255323 Lượng tăng giảm tuyệt đối so với năm trước 0 +15619 +63908 +100680 +38403 Lượng tăng giảm tương đối so với năm trước(%) 100 +42.54 +122.12 +86.61 +17.70 (* Nguồn: Theo báo cáo của Phòng Nguồn Vốn kinh doanh NHĐT&PT Hà Nội) Theo như đánh giá mới nhất năm 2002 của NHĐTPTVN, NHĐT&PT Hà Nội đứng thứ 2 trong toàn hệ thống xét trên phương diện tăng trưởng doanh số kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Phí dịch vụ mà NHĐT&PTHà Nội thu được ngày càng tăng. Năm 2000 tăng 63.980 USD với tốc độ 122,2 % so với năm 1999. Năm 2001 tăng 100.680 USD nhưng tốc độ tăng chỉ đạt 86,61%. Năm 2002 tăng 38.403 USD tuy nhiên tốc độ tăng chỉ là 17,7%. Giải thích cho điều này thì có rất nhiều những nguyên nhân khác nhau. Song quy tụ lại, uy tín của NHĐT&PT Hà Nội trong hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đang ngày một được khẳng định. Chắc chắn trong tương lai không xa, khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới. Tên tuổi của NHĐT&PT Hà Nội sẽ là một thương hiệu “ Made in Vietnam” có uy tín đối với bạn bè trong nước và quốc tế. c, Đội ngũ cán bộ Thanh toán viên tại HSC NHĐT&PT Hà Nội. Đội ngũ cán bộ ở đây có những con người đã gắn bó lâu năm với hoạt động thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội, từ những buổi sơ khai ban đầu. Họ là những người có trình độ, năng lực về chuyên môn, nhiệt tình cao trong công việc nhất là có rất nhiều kinh nghiệm. Trong 3 năm trở lại đây, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế đã có những sự bổ sung về nhân sự hết sức kịp thời. Tuy, lớp cán bộ mới của NHĐT&PT Hà Nội còn trẻ, kinh nghiệm công tác chưa dài, song họ đã chứng tỏ được khả năng của mình đối với lãnh đạo cơ quan, lãnh đạo trên NHĐT&PT Việt Nam. Thể hiện qua sự tin tưởng của Kiểm soát viên Trung ương vào độ chính xác, đầy đủ của các bức điện mà Phòng Kinh tế đối ngoại và thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội đảm nhiệm. Đến 98% các bức điện mở L/C, thông báo L/C,...sau khi được soạn trong mạng nội bộ IBS nó sẽ chuyển sang T5 và được đẩy trực tiếp qua cổng SWIFT quốc tế( Trừ những mẫu điện MT750 hoặc MT999, thông báo L/C có bất đồng thì NHĐT&PT Việt Nam sẽ giữ lại để kiểm tra một lần nữa, sau đó đẩy đi cổng SWIFT quốc tế. 2.3.2. Những hạn chế và tồn tại a- Số lượng khách hàng và đối tượng khách hàng chưa phong phú Hiện nay, khách hàng mở L/C hoặc thanh toán L/C xuất khẩu thường là các khách hàng quen thuộc của NHĐT&PT Hà Nội. Các khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Nhà nước, các tổng công ty 90, 91 như tổng công ty chè, tổng công ty lương thực miền Bắc,... Do đó, có thể thấy thu nhập từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C ở NHĐT&PT Hà Nội phụ thuộc khá chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này. Trong trường hợp xấu khi hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của họ gặp khó khăn, chắc chắn nó sẽ gây ra những thiệt hại cho thu nhập của Ngân hàng. b - Chưa mở rộng và phát triển nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất Đây là một trong những loại hình dịch vụ khá phổ biến của các NH trên thế giới. Tuy nhiên loại dịch vụ này lại chưa được mở rộng ở Việt Nam do nó còn chứa đựng khá nhiều rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ này. Theo quyết định số 34/1998/TTQT của NHĐT&PT Việt Nam về Hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất cho ta thấy một số nét chính: +Loại hình chiết khấu là chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất có truy đòi +Bộ chứng từ chiết khấu được hiểu là bộ chứng từ hàng xuất khẩu do nhà xuất khẩu lập, đầy đủ và hoàn toàn phù hợp với điều kiện và điều khoản của L/C tương ứng +Số tiền chiết khấu không được vượt quá 95% giá trị hoá đơn ( đối với L/C trả ngay) và 85% giá trị hoá đơn( đối với L/C trả chậm) ... Qui định này của NHĐT&PT Việt Nam là khá chặt chẽ và phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam( là một quốc gia đang phát triển do vậy năng lực sản xuất kinh doanh, uy tín, khả năng tài chính của hầu hết các doanh nghiệp còn chưa cao) nên việc chưa áp dụng phổ biến hình thức nghiệp vụ này là chính xác. Song một điều mà chúng ta cần nhìn nhận là có phải nghiệp vụ này quá phức tạp và đầy rủi ro hay không?. Chắc chắn là nó đã và đang được thực hiện song ở phạm vi hạn chế( đối với những khách hàng quen thuộc). Bất cập hiện nay ở chỗ ngoài việc khách hàng cam kết thực hiện chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi, phải trả phí chiết khấu, Ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải có tài khoản đảm bảo nợ vay cho số tiền chiết khấu đó. Về phương diện nào đó, việc yêu cầu khách hàng có tài khoản đảm bảo nợ vay sẽ giảm uy tín của Ngân hàng trong giao dịch thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ. Bởi lẽ, đối với Ngân hàng, họ chỉ đóng vai trò trung gian trong quan hệ giữa người Mua và người Bán mà thôi. Ngân hàng sẽ nhân danh khách hàng của mình thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người Bán. Để nhận được tiền từ NHPH người Bán sẽ phải xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những kinh doanh và điều khoản của L/C, và Ngân hàng chỉ quan tâm đến bề mặt của chúng mà thôi. Do vậy, nếu xác định là bộ chứng từ hoàn hảo, sau khi thực hiện chiết khấu NHCK có thể xuất trình với NHPH, chắc chắn Ngân hàng nước ngoài sẽ phải hoàn trả tiền cho Ngân hàng Việt Nam. Nếu bị từ chối thì đó là do lỗi nghiệp vụ của Ngân hàng là chính. Vậy nên xu hướng mở rộng nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất cần phải được NHĐT&PT Hà Nội quan tâm, và đầu tư thực hiện để ngày càng nâng cao uy tín, tạo điều kiện thực hiện cho nhà xuất khẩu, góp phần tăng trưởng doanh thu cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C của Ngân hàng. c- Mức kí quĩ chưa thật hợp lý Mức ký quĩ mà NHĐT&PT Hà Nội áp dụng khá linh hoạt song kí quĩ bằng vốn vay ở đây cũng khá phổ biến. Theo quyết định số 30/1998/TTQT về Quy chế nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Việt Nam trong đó qui định tỉ lệ kí quĩ: Vốn tự có 100%: Tuỳ theo độ tín nhiệm, khả năng thanh toán của từng khách hàng giám đốc chi nhánh quyết định tỉ lệ kí quĩ tối thiểu bằng 20% trị giá L/C Mở L/C bằng vốn vay NHĐT: Mức kí quĩ tối thiểu 5%, trường hợp mở L/C bằng vốn vay Ngân hàng thường xuyên, khách hàng có độ tín nhiệm cao có thể được miễn, giảm kí quĩ theo qui định của giám đốc chi nhánh. Trường hợp mở L/C bằng vốn vay trung, dài hạn theo kế hoạch Nhà nước có giá trị trên 1 triệu USD( hoặc tương ứng bằng ngoại tệ khác) thì mức kí quĩ thấp hơn theo quyết định của giám đốc chi nhánh Trường hợp khác mở L/C bằng vốn Ngân sách, mức kí quĩ tối thiểu 5% Mở L/C bằng nguồn vốn khác đã được bảo đảm( Như bảo lãnh của Ngân hàng quốc doanh, hợp đồng tín dụng với các Ngân hàng có tín nhiệm) mức tối thiểu 5% Mở L/C bằng vốn hỗn hợp( vốn vay và vốn tự có) mức kí quĩ tối thiểu bằng vốn tự có Mở L/C bằng vốn ODA mức kí quĩ là 0% Vấn đề đưa ra một tỉ lệ kí quĩ cho từng hình thức mở L/C, cho từng đối tượng khách hàng của NHĐT&PT là khá chặt chẽ. Nó phản ánh đúng với tình hình thực tế hiện nay, với một số tiền kí quĩ nhất định, khách hàng sẽ phải quan tâm đến việc thực hiện nghĩa vụ của mình hơn tức là nâng cao tinh thần trách nhiệm cho khách hàng. Đồng thời giúp cho Ngân hàng giảm bớt rủi ro, tổn thất trong hoạt động nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên, mức kí quĩ bằng vốn vay của Ngân hàng thấp hơn mức ký quỹ mở L/C bằng vốn tự có. Đó là điểm chưa phù hợp, bởi vì : Ngân hàng cho phép các doanh nghiệp mở L/C bằng vốn vay, đồng thời Ngân hàng lại cũng yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ bằng chính khoản vốn vay đó. Cho nên, chưa hoàn toàn nâng cao được trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác thanh toán, do thực chất, doanh nghiệp chưa hề bỏ một đồng vốn của họ ra để đảm bảo cho hoạt động thanh toán diễn ra “xuôi chèo mát mái” mà đó đều là tiền vay từ Ngân hàng. 2.4. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động TTQT bằng L/C tại NHĐT&PT Hà Nội 2.4.1 Nhóm nguyên nhân khách quan a- Hành lang pháp lí cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ nói riêng còn thiếu và chưa đồng bộ. Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998, song vấn đề ban hành các Nghị định văn bản pháp quy để thi hành luật còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa hoàn chỉnh. Riêng hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam chưa có một văn bản riêng nào điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia, chưa có riêng một quy chế, hệ thống các văn bản pháp lý hướng dẫn thựchiện giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Còn nhiều trường hợp khác cũng do thiếu hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng mà nhiều khi NH cũng gặp những rủi ro không nhỏ do thiếu căn cứ mang tính luật pháp để giải thích cho hoạt động của mình như: Trường hợp một doanh nghiệp ký quỹ 100% trị giá L/C, nhưng trong lúc chờ nhận hàng thì người mở bị phá sản và bị bắt giam, vậy số tiền ký quỹ có bị phong toả để phân chia cho các chủ nợ theo luật phá sản không? Nếu số tiền bị thu giữ mà NH vẫn phải thanh toán cho người hưởng lợi vì bộ chứng từ xuất trình phù hợp với L/C (theo quy định của UCP 500) thì NH có được quyền sở hữu hàng hoá để bù đắp số tiền đã thanh toán cho bộ chứng từ hợp lệ không? Trong trường hợp người mua bị mất khả năng thanh toán, thậm chí còn có thể bị phá sản, mà khi mở L/C là bằng nguồn vốn vay NHPH là chủ yếu và một tỷ lệ ký quỹ nào đó, thì NHPH vẫn buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi vốn từ người mua được. Mặc dù NHPH có quyền sở hữu B/L theo lệnh để đi nhận hàng nhưng lại bị các cơ quan chức năng từ chối với lý do "NH chỉ là người bão lãnh chứ không phải người mua nên không nhận được hàng". Để nhận được hàng hoặc để bán lại cho bên thứ ba NHPH Việt Nam vẫn chưa có điều kiện cơ sở pháp lý nào làm đảm bảo do chưa có luật nào quy định về phát mại tài sản trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ. Sự phối kết hợp giữa các bộ ngành liên quan chưa chặt chẽ, chức năng của từng bộ, ngành, đặc biệt là chức năng của NH trong việc quản lý xuất nhập khẩu chưa được làm rõ cũng là một trở ngại cho hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. b- Các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong qúa trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điều chỉnh +Chính sách thương mại chưa ổn định đã gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Trước năm 1997 việc định hướng những mặt hàng được phép nhập khẩu bằng L/C trả chậm chưa được quan tâm đúng mức nên xảy ra tình trạng mở L/C trả chậm tràn lan. Có những mặt hàng, năm nay cho phép xuất, nhập nhưng năm sau lại không cho phép xuất, nhập nữa làm cho các doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất nhập khẩu với nước ngoài rơi vào tình trạng khó khăn. nhiều doanh nghiệp trong qúa trình kinh doanh đã không theo kịp những quy định thay đổi nên bị động, dự báo nhu cầu thị trường không sát dẫn đến phát triển tràn lan như đối với các mặt hàng: Xi măng, thép, mía, gốm, sứ, gỗ...Một ví dụ khá cụ thể là trường hợp các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy trong nước. Theo kế hoạch từ đầu năm 2003 các doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước được cấp quota nhập 900.000 bộ linh kiện cho xe gắn máy. Tuy nhiên vào đầu tháng 2, dưới sức ép từ nhiều phía đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông gia tăng nhanh chóng, Chính phủ đã ra quyết định tăng thuế nhập khẩu. Thêm vào đó, theo qui định trong các văn bản về giao thông thì mỗi người chỉ được sở hữu một chiếc xe, ai muốn đăng ký xe phải có bằng lái ... và nhiều những qui định khác. Những qui định này đều phản ánh khá đúng những tâm tư tình cảm của nhân dân phù hợp với tình hình thực tế, song thực tế cho thấy vì không có thời gian chuẩn bị và đối phó với tình hình,mặc nhiên những qui định đang dồn các doanh nghiệp xe máy vào chỗ phá sản. Do giá đầu vào tăng đẩy chi phí lên cao, nhu cầu của người dân trong những tháng qua, đặc biệt đầu tháng 4 năm 2003 gần như đóng băng. Trong bối cảnh đó Ngân hàng cũng không đứng ngoài cuộc, bởi lẽ đối với mặt hàng xe máy, thông thường quota nhập khẩu được cấp vào đầu năm nên các doanh nghiệp trên cơ sở năng lực sản xuất, nhu cầu dân cư...để đưa ra quyết định nhập khẩu, mở L/C nhập khẩu. Vậy, nếu doanh nghiệp không thể tiêu thụ số linh kiện nhập khẩu trên trong khi L/C đã được mở và bên nước ngoài vẫn cứ thực hiện giao hàng, thì chắc chắn Ngân hàng Việt Nam phải thanh toán cho họ cho nên rủi ro xảy ra là điều không tránh khỏi. + Chính sách giá hối đoái: trong một thời gian dài từ 1993 đến 1997 tỷ giá hối đoái ổn định một cách cứng nhắc, không phản ánh đúng giá trị thực của đồng Việt Nam. Đến năm 1998, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa USD và VND. Theo tư vấn của một số chuyên viên cao cấp của Ngân hàng Thế giới thì đồng VND nên neo theo USD ở mức 1 USD ăn 17000 VND. Điều này sẽ phản ánh chính xác hơn thực trạng của nền kinh tế Việt Nam. Một đồng tiền được đánh giá thấp hơn sẽ hạn chế nhập khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Tuy nhiên việc giữ giá trị đồng VND ổn định và dần có xu hướng giảm trong thời gian tới sẽ thuận lợi cho hoạt động xnk. Một đồng tiền được đánh giá thấp hơn sẽ hạn chế nhập khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Tuy nhiên việc giữ giá trị đồng VND ổn định và dần có xu hướng giảm trong thời gian tới sẽ thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và hạn chế bớt rủi ro trong kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế của Ngân hàng. +Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh, mặc dù hiện nay đã có thị trường hối đoái nhưng hoạt động của thị trường này cũng còn kém sôi động, các thành viên tham gia vào thị trường này còn bị hạn chế, cung còn chưa đáp ứng đủ cầu, làm cho các ngân hàng thương mại khó cân đối nguồn ngoại tệ khi có nhu cầu để thanh toán L/C đã phát hành. c. Nguyên nhân từ phía khách hàng: Một là, Trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế và nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn yếu kém dẫn đến kỹ năng lập chứng từ của khách hàng chưa cao, hoặc thực hiện sai một khâu của qúa trình thanh toán, hoặc hành động không đúng theo UCP 500 và các thông lệ tập quán quốc tế khác. Do bước đầu tham gia vào qúa trình hội nhập thế giới, kiến thức kinh doanh xuất nhập khẩu và các kinh nghiệm chuyên môn của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức về tập quán buôn bán quốc tế, các kiến thức về tập quán của các quốc gia đối tác và đặc biệt về thanh toán quốc tế còn rất hạn chế. Do vậy, trong qúa trình đàm phán hợp đồng ngoại thương cũng như trong qúa trình tổ chức thực hiện, dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng. + Đối với các khách hàng nhập khẩu, khi hoàn thành các thủ tục, tiến hành xin mở L/C thì NH mới phát hiện ra một số điều khoản bất lợi trong hợp đồng. Khi đó người bán nước ngoài hoàn toàn có quyền không chấp nhận sửa đổi, thậm chí nếu người bán có chấp nhận sửa đổi hợp đồng thì người mua cũng phải chịu toàn bộ các chi phí phát sinh. Thiếu kiến thức về kinh doanh ngoại thương và thanh toán quốc tế, thiếu kinh nghiệm trong đàm phán hợp đồng, dẫn đến việc doanh nghiệp bị đối tác nước ngoài ép những điều khoản bất lợi như: phải mở L/C xác nhận, trong khi họ không bị yêu cầu phải có bảo lãnh thực hiện hợp đồng; thoả thuận phía nước ngoài bao tiêu sản phẩm, nhưng không yêu cầu họ phải mở L/C đối ứng, để nước ngoài lừa bán máy cũ...Tại NHĐT&PT Hà Nội Thanh toán viên tư vấn cho khách hàng, khi người Mua nhận được yêu cầu từ phía đối tác nước ngoài phải mở L/C cho họ hưởng. L/C đó được soạn theo mẫu điện MT700 hoặc MT701, ở trường 73 có ghi “May add”. Khi thực hiện tư vấn, Thanh toán viên đã khuyến cáo với khách hàng rằng nếu ghi như Vậy sẽ gây bất lợi cho cả người mở L/C và cho cả Ngân hàng. Bởi lẽ, bên nước ngoài sẽ chủ động chuyển từ “May add” sang chế độ “Confirmed”. Như vậy, người hưởng lợi L/C sẽ cực kỳ thuận lợi, ngay sau khi họ gửi hàng cho bên Việt Nam họ có thể lập điện đòi tiền ngay Ngân hàng. Trong trường hợp này Ngân hàng sẽ phải thanh toán cho Ngân hàng nước ngoài cho dù hàng chưa cập cảng, rủi ro hàng mất, hàng thiếu và tranh chấp xảy ra người Mua phải chịu. Về phía Ngân hàng, khi phải thực hiện “Confirmed” nghĩa là chịu sự xác nhận của Ngân hàng thứ ba, chứng tỏ Ngân hàng không có uy tín và không được người Bán tin tưởng. Tuy NHĐT&PT Hà Nội đã tư vấn hết sức rõ ràng, đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao song khá đông các khách hàng đều không nghe theo tư vấn của Ngân hàng, dẫn đến những thiệt hại không đáng có. + Đối với khách hàng mới tham gia nghiệp vụ xuất khẩu, do những yêu cầu nghiêm ngặt của chứng từ trong thanh toán mà đặc biệt là chứng từ thanh toán theo phương thức L/C rất khó khăn để lập được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C. Trước hết L/C xuất khẩu do NH nước ngoài phát hành có văn phong khác nhau, trong khi đó trình độ ngoại ngữ của cán bộ thanh toán của doanh nghiệp có hạn, dẫn tới việc lập chứng từ không đúng theo yêu cầu của L/C. Nhất là đối với một số những mặt hàng xuất khẩu như gạo, hàng hải sản..., số lượng chứng từ mà L/C yêu cầu xuất trình tương đối nhiều và phức tạp. Từ những sai sót đơn giản như lỗi chính tả... đến những sai sót phức tạp như thiếu loại chứng từ, chứng từ lập sai với yêu cầu của L/C, hoặc không thống nhất với nhau... đều có thể đem lại rủi ro cho khách hàng và từ đó làm ảnh hưởng tới uy tín của NHĐT&PT Hà Nội. Do hiểu biết về nghiệp vụ xuất nhập khẩu chưa đầy đủ nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã không quan tâm đầy đủ đến một số điều kiện bất lợi trong hợp đồng cũng như trong L/C, thường xảy ra nhất là điều kiện giao hàng và thời hạn xuất trình chứng từ. Nếu khoảng thời gian cần thiết giữa ngày bắt đầu mở L/C và ngày giao hàng không tương xứng với chu trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không giao kịp hàng theo yêu cầu. Thời hạn cần thiết để lập và xuất trình chứng từ, luân chuyển chứng từ đến ngân hàng nước ngoài cũng cần phải được tính toán hợp lý mới có thể đảm bảo cho việc đòi ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0231.doc
Tài liệu liên quan