Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay

NHTM Việt Nam tham gia vào TTCK thông qua việc thành lập các công ty chứng khoán như CTCK của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam; CTCK của Ngân hàng ACB; CTCK của Ngân hàng Công thương CTCK của NHNN & PTNT; CTCK Thăng Long thuộc NHTM cổ phần quân đội.

NHTM là bộ phận quan trọng của các phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ, vừa là người tham gia bỏ thầu, vừa là người trúng thầu chủ yếu. Tính đến hết ngày 31/12/2001 TTGDCK HCM đã tiến hành 16 đợt đấu thầu TPCP với tổng giá trị trúng thầu 2756,63 tỷ.

Cũng như các nước khác, Việt Nam sử dụng hệ thống NHTM để thực hiện việc thanh toán đối với các giao dịch chứng khoán. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được UBCKNN chọn làm Ngân hàng chỉ định thanh toán. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán của các Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động kém hiệu quả do phải tuân theo rất nhiều các thủ tục thanh toán. Không chỉ vậy, theo quy định, các thành viên tham gia thanh toán đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng chỉ định thanh toán và chuyển tiền thanh toán vào tài khoản này trước thời hạn thanh toán. Các thành viên lưu ký lại có thể chọn các Ngân hàng thanh toán khác nhau, không thuộc hệ thống của Ngân hàng chỉ định thanh toán. Cho đến nay, về nguyên tắc để thực hiện việc chuyển tiền khác hệ thống, các NHTM phải tham gia bù trừ tại các chi nhánh NHNN tại các địa phương. Trên thực tế, các công việc và các chứng từ thanh toán hầu hết còn phải thực hiên thủ công. Hơn nữa, tại các địa bàn khác nhau, các chi nhánh NHNN tổ chức các phiên thanh toán bù trừ cũng khác nhau. Tại thành phố lớn có hai phiên mỗi ngày, trong khi ở các địa phương khác thì chỉ diễn ra một phiên mỗi ngày. Với cách thức hoạt động như trên làm cho hoạt động thanh toán diễn ra rất chậm chạp và thiếu an toàn.

 

doc88 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c chủ thể khác tham gia TTCK bên cạnh doanh nghiệp niêm yết, như UBCKNN, các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư về cơ bản đã quản lý và nắm bắt kịp thời những thông tin về công ty niêm yết, chứng khoán niêm yết những thông tin về thị trường, thực hiện đầy đủ các quy tắc và quy trình niêm yết chứng khoán, giao dịch, kinh doanh chứng khoán, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán... do đó đã đảm bảo cho sự vận hành thông suốt của thị trường trong thời gian qua và cũng đem lại những hiệu quả nhất định cho nền kinh tế. Thực tế, các chuyên gia tài chính nước ngoài đều cho rằng TTCK Việt Nam ra đời là một thành công. Người ta có thể chứng minh nhận xét này bằng các con số. Kể từ khi TTGDCK Tp HCM ra đời đến ngày 15/7/2002, khối lượng giao dịch bình quân tăng từ 7 triệu/phiên lên 5 tỷ đồng/phiên. Số lượng Công ty niêm yết tăng từ 2 lên 17 công ty. Số lượng nhà đầu tư tăng từ khoảng 2.000 người lên trên 12.000 người, trong đó có 91 nhà đầu tư là tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị niêm yết tính đến ngày 10/7/2002 là 4.141,4 tỷ đồng, trong đó: giá trị niêm yết của 17 loại cổ phiếu là 878,1 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 21,2%, giá trị niêm yết trái phiếu của Ngân hàng ĐT&PT là 157,6 tỷ đồng chiếm tỷ lệ là 3,8%, còn lại là trái phiếu chính phủ 3.108,7 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 75%. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam Lê Thị Băng Tâm thì quy mô của tổng giá trị giao dịch còn quá nhỏ bé, chỉ chiếm 0,37% GDP. Cuối cùng, sự ra đời và hoạt động của TTCKVN trong thời gian qua là bước tập dượt, làm quen cho cả cơ quan quản lý nói riêng trong điều hành hoạt động thị trường và công chúng nói chung trong việc tìm hiểu, đầu tư vào chứng khoán và TTCK. Những vấn đề cần hoàn thiện để hội nhập Thị trường chứng khoán Viêt Nam. a) Hàng hóa và tình hình giao dịch chứng khoán Thực tiễn hoạt động của thị trường TTCK Việt Nam trong gần hai năm qua cho thấy số lượng chứng khoán được niêm yết là rất ít ỏi. Tính đến ngày 30/5/2002 mới chỉ có 17 loại cổ phiếu và 7 loại trái phiếu. Không những thế, việc giao dịch hầu như chỉ diễn ra với cổ phiếu còn trái phiếu dường như không nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư. Điều này hoàn toàn trái ngược với mục tiêu, dự định của Nhà nước là lấy trái phiếu Chính phủ làm hàng hóa chính của thị trường. Nguyên nhân của tình trạng này là tỷ lệ sinh lời của trái phiếu do Chính phủ quy định thường nhỏ hơn là lãi suất bình quân của thị trường làm cho việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường gặp không ít khó khăn. Tính đến tháng 6/2001, TTGDCK đã tiến hành 5 đợt đấu thầu trái phiếu nhưng không thành công, nguyên nhân là do lãi suất bỏ thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo. Để khắc phục tình trạng đó, Bộ Tài chính đã ban hành quy định mới trong đấu thầu trái phiếu Chính phủ bao gồm nâng cao lãi suất chỉ đạo và cho phép mức lãi suất trúng thầu dao động trong khoảng 0,3% so với lãi suất chỉ đạo. Đến cuối tháng 8/2001, Trung tâm mới chỉ đấu thầu thành công hai đợt vào ngày 28/7/2001 và 17/8/2001 với thời hạn trái phiếu Chính phủ là 5 năm, lãi suất là 6,5%/năm và 6,6%/năm (CP1 - 0100, CP2 - 0200) với tổng giá trị niêm yết 600 tỷ đồng. Người tham gia bỏ thầu quan trọng và chủ yếu là các NHTMQD và đối tượng trúng thầu cũng là những Ngân hàng này. Lý do là nguồn vốn huy động qua hệ thống Ngân hàng trong thời gian qua là rất lớn đồng thời đang trong tình trạng ứ đọng, nên vốn được sử dụng để tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ mặc dù lãi suất trái phiếu Chính phủ thấp hơn so với lãi suất thị trường. Như vậy câu hỏi đặt ra đối với Bộ Tài chính là khi mà lãi suất cho vay của Ngân hàng được xác định theo phương thức thỏa thuận, tình trạng ứ đọng vốn của Ngân hàng được giải quyết thì trái phiếu Chính phủ sẽ bán cho ai. Trên thị trường thứ cấp, trái phiếu Chính phủ được giao dịch với khối lượng nhỏ, chiếm bình quân khoảng 6,68% giá trị giao dịch thị trường qua các phiên giao dịch được thực hiện và số lượng trái phiếu giao dịch khoảng từ 1 đến 10 đơn vị mỗi phiên (1 đơn vị giao dịch trái phiếu = 10 trái phiếu). Bảng:Khối lượng giao dịch trái phiếu Chính phủ (Đơn vị tính: VND, đến ngày 31/12/2001) Mã trái phiếu Khối lượng GD Tổng giá trị 1. CP CP1 - 100 810 82.928.000 2. CP - CO 101 200 20.360.000 3. CP1 CO - 101 750 73.585.000 Nguồn: Báo cáo UBCKNN, tháng 2/2002. Như vậy có thể thấy, giao dịch trái phiếu Chính phủ dường như "đóng băng". Nguyên nhân của hiện tượng này như đã nói ở trên đó là sự cứng nhắc trong lãi suất trái phiếu hơn nữa ở Việt Nam, người mua trái phiếu Chính phủ chưa coi đó là một hoạt động đầu tư kinh tế, chưa nhận thức được vai trò của trái phiếu Chính phủ trong hoạt động đầu tư CK. b) Các chủ thể tham gia trên TTCK . b.1. Chủ thể phát hành. Nước ta đang trong quá trình đổi mới DNNN qua con đường cổ phần hóa. Tính đến ngày 19/5/2001 nước ta có 683 DNNN được cổ phần hóa có thể nói đây là một nguồn cung hàng hóa (cổ phiếu) đáng kể cho thị trường. Nhưng thực tế, số cổ phiếu niêm yết trên thị trường chính thức của Việt Nam chỉ có 17 loại cổ phiếu của 17 công ty cổ phần. Số công ty cổ phần còn lại chưa đủ các điều kiện niêm yết hoặc không muốn niêm yết cổ phiếu. Chỉ xét riêng về điều kiện vốn điều lệ thì chỉ có 81 Công ty có vốn trên 10 tỷ, còn lại 602 Công ty có vốn dưới 10 tỷ đồng trong tổng số 683 công ty cổ phần. Như vậy, số cổ phiếu từ các công ty cổ phần hầu hết đều cung cấp cho thị trường “ngầm”, ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Sự thiếu hụt về hàng hóa, đặc biệt là cổ phiếu, trên thị trường chính thức vừa qua một phần là do các Công ty đủ tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu nhưng cũng không muốn niêm yết. Hiện tượng này là do: Thứ nhất, các công ty chưa nhận thức được đầy đủ những lợi ích khi tham gia TTCK . Thứ hai, nhu cầu về vốn lớn của các công ty chưa phát sinh. Thứ ba, các công ty không muốn có những thay đổi trong tỷ lệ sở hữu, cấu trúc cổ đông và công tác quản lý doanh nghiệp. Thứ tư, không muốn bị các đối thủ cạnh tranh kiểm soát, thôn tính công ty qua con đường mua cổ phiếu của công ty trên TTGDCK. Thứ năm, việc niêm yết cổ phiếu đồng nghĩa với việc công bố thông tin rộng rãi về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, phải thực hiện chế độ kiểm toán nghiêm ngặt. Như vậy doanh nghiệp mất lợi thế hơn so với hầu hết các doanh nghiệp khác không phải thực hiện hoạt động trên. Không chỉ ít về số chủ thể niêm yết cổ phiếu trên thị trường chính thức mà còn ít cả về số lượng các chủ thể phát hành các loại chứng khoán. Trên thị trường chính thức chỉ có 17 loại cổ phiếu , trái phiếu của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam và trái phiếu của Chính phủ. Trên toàn thị trường, những công ty hay các chủ thể phát hành trái phiếu cũng không nhiều. Luật công ty 1990 đã quy định việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần, nhưng trên thực tế chưa có doanh nghiệp nào phát hành trái phiếu theo luật này. Chỉ tới khi Nghị định 120/CP ngày 17/9/1994 được ban hành kèm theo quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN, thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới hình thành. Khi đó một số công ty thuộc ngành xi măng như Hoàng Thạch, Anh Sơn Nghệ An..., Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), công ty cổ phần Công nghệ thông tin (EIS), một số doanh nghiệp khác thuộc ngành điện, giao thông và xây dựng có kế hoạch xin phát hành trái phiếu. Các trái phiếu của các doanh nghiệp kể trên hầu hết được phát hành theo hình thức riêng lẻ với số lượng hạn chế (trừ trái phiếu của EIS là phát hành theo phương thức bảo lãnh). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng các công ty không phát hành trái phiếu để huy động vốn đó là các doanh nghiệp không quen với hình thức huy động vốn mới này đồng thời hầu hết các doanh nghiệp nước ta trước kia thuộc quyền sở hữu của Nhà nước đã quen vay vốn và được cấp vốn từ Ngân hàng. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp không có cơ hội phát triển. b2. Các nhà đầu tư: TTCK là thể chế thị trường bậc cao, mới xuất hiện ở Việt Nam song đã thu hút được sự quan tâm của công chúng. Tính đến ngày 15/7/2002 có hơn 12.000 tài khoản trên TTGDCK TPHCM. Nếu nhìn vào con số tuyệt đối của số lượng tài khoản thì đây không phải là một con số nhỏ nhưng nếu so với tổng số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam (tức là số người có thể có thu nhập) thì tỷ lệ này còn rất nhỏ. Như vậy, CK & TTCK mặc dù cũng thu hút được sự quan tâm của công chúng nhưng vẫn dừng lại ở giới hạn nhỏ. Đặc biệt là những người thực sự đầu tư và có ý định đầu tư cũng không phải là nhiều. Nguyên nhân của hiện tượng này về cơ bản là do: đây là loại thị trường mới ở Việt Nam, việc tham gia vào thị trường cũng không đơn giản như tham gia vào các loại thị trường hàng hóa thông thường khác mà cần phải có những kiến thức nhất định về CK &TTCK. Không những thế, để có thể kinh doanh có hiệu quả, đòi hỏi nhà đầu tư phải có đầu óc phân tích, luôn phải cập nhật thông tin về loại hàng hóa mà mình đang đầu tư và tất cả những thông tin khác có thể ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán. Với yêu cầu cao như vậy thì phần lớn công chúng Việt Nam chưa có đủ kiến thức để tham gia thị trường, thậm chí có những bộ phận dân cư không biết chứng khoán là gì, những lợi ích có thể có được khi tham gia thị trường. Trên đây là những vấn đề với nhà đầu tư "tiềm năng". Còn đối với những nhà đầu tư hiện hành, tình hình cũng không thật khả quan. Trong số hơn 12.000 tài khoản trên Trung tâm GDCK TPHCM thì chỉ có gần 3000 tài khoản thường xuyên giao dịch chiếm khoảng 25%. Như vậy, nguyên nhân gì dẫn đến tình trạng số tài khoản còn lại không giao dịch? Vì hàng hóa không hấp dẫn? Số lượng quá ít? Theo chúng tôi nguyên nhân ở chỗ tài khoản mở ra chỉ để giải quyết vấn đề tâm lý "tôi có tài khoản giao dịch CK" đồng thời cũng mang tính chất tìm hiểu về TTCK. Các nhà đầu tư còn lại thường xuyên giao dịch trên thị trường cũng không phải đều là những người am hiểu sâu sắc về chứng khoán, những người có được kiến thức đó chỉ chiếm số ít. Khi kinh doanh CK, nhiều nhà đầu tư không quan tâm đến những biến đổi của thị trường, không quan tâm đến sự điều tiết thị trường của UBCKNN thể hiện qua biên độ dao động giá. Ví dụ như tính đến phiên giao dịch thứ 129 (ngày 6/6/2001), tức là trước ngày Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố việc áp dụng biên độ dao động giá mới (7%), giá của cổ phiếu HAP luôn tăng ở mức kịch trần trong 45 phiên liên tục, giá phiếu REE tăng trong 18 phiên, của SAM tăng trong 17 phiên. Trước tình hình đó biên độ dao động giá được nới rộng đến 7% để giảm sự tăng giá của CK vì khi đó các nhà đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm cao hơn về quyết định của mình. Nhưng có những nhà đầu tư kỳ vọng thu nhập cao do giá tăng, không quan tâm đến biên độ dao động và vẫn đặt giá ở mức kịch trần để mua với khối lượng đặt mua tăng mạnh, thậm chí nhiều nhà đầu tư còn cho rằng "cứ khớp lệnh được coi như là thành công". Không chỉ vậy, nhiều nhà đầu tư thực hiện lệnh mua hay bán, đều phụ thuộc vào những nhà đầu tư lớn khác, "bán cùng bán, mua cùng mua" hoặc quan tâm đến tin đồn hơn là thông tin về các chủ thể phát hành CK. Tóm lại, về phía nhà đầu tư, vấn đề lớn đối với họ là những kiến thức về phân tích chứng khoán, phân tích thị trường để dự đoán sự biến động của giá cả để đưa ra những quyết định đầu tư. b.3. Nhà nước. Nhà nước tham gia vào TTCK với vai trò là người định hướng, kiểm tra, giám sát hoạt động của thị trường thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động được thông suốt, đem lại hiệu quả cao. Với vai trò đó, hệ thống văn bản pháp qui càng đầy đủ, đồng bộ sẽ càng tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng cho các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành cũng như các cơ quan quản lý của Nhà nước dễ dàng trong việc quản lý thị trường. Tuy nhiên đối với Việt Nam, đặt trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội đang có nhiều cải cách trong đó bao gồm cả hệ thống pháp luật, thì những vấn đề còn tồn tại trong các văn bản pháp luật xung quanh lĩnh vực CK & TTCK, một vấn đề rất mới ở Việt Nam, là điều không thể tránh khỏi. Có thể kể ra những bất cập như sau: Thứ nhất, cơ chế quản lý tài chính của các tổ chức tham gia TTCK, bao gồm: TTGDCK, các tổ chức tham gia kinh doanh và làm dịch vụ về CK, các tổ chức phát hành CK... là chưa phù hợp. TTCK Việt Nam ra đời từ tháng 7/2000 nhưng những văn bản liên quan trực tiếp đến cơ chế quản lý tài chính của các tổ chức tham gia TTCK đã có từ những năm 1990 đến nay và chúng không còn phù hợp với thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam nữa. Sự đi trước một bước của các văn bản pháp luật là hợp lý, tuy nhiên, các văn bản đó vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ, giá trị pháp lý thấp. Cơ chế quản lý tài chính đối với TTGDCK vẫn theo lối cũ, còn mang nặng tính chất quản lý áp đặt, gần với cơ chế quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu, chưa phù hợp với mô hình tổ chức hoạt động của một TTGDCK lần đầu xuất hiện ở Việt Nam. Thứ hai, các quy định về giải quyết tranh chấp còn thiếu. Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán được đề cập đến trong một vài văn bản (Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Nghị định 48/1998/NĐ - CP về CK & TTCK), nhưng mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc, chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Thứ ba, các quy định liên quan của pháp luật hình sự còn sơ sài. Đến nay, bộ luật hình sự của nước ta chưa có quy định về tội phạm trong lĩnh vực CK ngoài chương "các tội xâm phạm trật tự kinh tế" có một số tội danh và hành vi của tội này sẽ được thực hiện một cách tương tự trong lĩnh vực CK, như tội đầu cơ, tội kinh doanh trái phép. Thứ tư, những quy định liên quan đến cá nhân và tổ chức nước ngoài tham gia vào TTCK. Tương tự như nhiều nước khác, Việt Nam cũng mở cửa TTCK cho phép bên nước ngoài tham gia hoạt động, đồng thời việc mở cửa này cũng kèm theo những quy định hạn chế, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán trong nước có cơ hội lớn mạnh và đảm bảo an toàn của TTCK, hạn chế sự tác động bên ngoài. Đó hoàn toàn là chủ trương đúng. Điều đáng nói ở đây là sự nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Nghị định 48/1998/NĐ-CP, quyết định số 288/QĐ - NHNN5 ngày 2/2/1993 của Thống đốc NHNN, Quyết định 139/1999/QĐ - TTg ngày 10/6/1999 và Quyết định số 145/1999/QĐ - TTg ngày 28/6/1999 đã đều ghi nhận quyền của cá nhân, tổ chức nước ngoài được mua bán CK trên TTCK Việt Nam và 12 lĩnh vực mà các DNNN được phép bán cổ phần cho người nước ngoài. Tuy nhiên các quyết định này chưa có sự nhất quán về tỷ lệ số cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ, theo quyết định số 288/QĐ - NHNN5, tổng số cổ phần của tất cả các cổ đông nước ngoài nắm giữ tối đa 30%, trong đó một cổ đông nước ngoài được góp tối đa là 10%, theo quyết định số 139/1999/QĐ - TTg, các cá nhân, tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó 1 tổ chức nước ngoài nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân nước ngoài nắm giữ tối đa 3%. Ngoài ra các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 40% tổng số trái phiếu của một tổ chức phát hành, trong đó một tổ chức nước ngoài nắm giữ tối đa 10% và một cá nhân nước ngoài nắm giữ tối đa 5%. Theo quyết định 145/1999/QĐ - TTg thì tổng số giá trị của các cổ phần bán cho nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ công ty. Trong trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần vượt quá 30% vốn điều lệ Công ty thì tổ chức đấu giá. Mặt khác, Chính phủ đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam, nhưng đến vẫn chưa có văn bản pháp qui nào quy định các nguồn vốn nước ngoài được đưa vào Việt Nam để kinh doanh chứng khoán. Chưa có các quy định trong việc chuyển đổi giữa đồng Việt Nam và các đồng ngoại tệ; các quy định về thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, các chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng chưa cụ thể. Thứ năm, bên cạnh những vấn đề trên, còn rất nhiều các quy định pháp luật cần phải thay thế, sửa đổi phù hợp với thực tiễn như các quy định về giải thể và phá sản công ty chứng khoán; quy định về phương thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu; cơ cấu thị trường; tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán... b.4. Các tổ chức tài chính trung gian. Các công ty chứng khoán. Trong thời gian qua, hoạt động của các CTCK đã đóng vai trò nhất định cho TTCK. Tuy nhiên, các công ty chứng khoán vẫn còn bộc lộ rất nhiều nhược điểm cần phải khắc phục. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Số tài khoản của các nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán ngày càng tăng, tính đến tháng 6/2001, tổng số tài khoản là 5847 tài khoản, tăng gấp 3 lần so với tháng 8/2000. Đây là dấu hiệu đáng mừng, nhưng nếu so sánh số lượng tài khoản tại các Công ty chứng khoán lại có sự mất cân đối nghiêm trọng. Có tới 82% toàn bộ số tài khoản được mở tại các công ty như Bảo Việt (1512TK), Sài Gòn (1101TK), Ngân hàng Đầu tư (1201TK) và ACB (995TK). Về việc lưu ký chứng khoán tại các Công ty chứng khoán, các công ty chứng khoán không thuộc Ngân hàng lại có khả năng hấp dẫn các loại cổ phiếu, còn các công ty chứng khoán thuộc Ngân hàng lại có khả năng hấp dẫn trái phiếu. Tính đến tháng 6 năm 2001, tổng số cổ phiếu lưu ký tại các CTCK là 13774620 cổ phiếu, trong đó 51% tại CTCK Sài Gòn, 10% tại CTCK Bảo Việt; 10% tại ACB và 8% tại công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển. Tổng số trái phiếu niêm yết lưu ký tại các CTCK là 11.302.140 trái phiếu trong đó 45% tập trung tại CTCK của Ngân hàng Công thương, 30% tại CTCK Thăng Long, 14% tại CTCK của Ngân hàng đầu tư và 10% tại CTCK Bảo Việt. Có sự mất cân đối trên là do việc triển khai hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán còn ở những mức độ khác nhau. Công ty chứng khoán Sài Gòn mặc dù có vốn điều lệ thấp nhất (6 tỷ) trong các công ty chứng khoán nhưng doanh thu từ hoạt động môi giới là 1114 triệu đồng. Trong khi đó CTCK Đệ Nhất với vốn điều lệ là 43 tỷ nhưng lại có doanh thu thấp nhất 148 triệu đồng (6/2001). Nhìn chung, hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán vẫn dừng ở mức thực hiện lệnh của khách hàng để hưởng hoa hồng, mức độ tư vấn còn hạn chế, chủ yếu là các thông tin về chủ thể phát hành, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá cả chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần không được thực hiện. Nghiệp vụ tự doanh. So với các nghiệp vụ khác thì nghiệp vụ tự doanh mang lại doanh thu lớn nhất cho Công ty chứng khoán. Nhưng hoạt động tự doanh của các CTCK mới chỉ mang tính chất thăm dò thị trường, phương châm của các công ty chứng khoán là cẩn trọng và bảo toàn vốn, thực hiện hoạt động tự doanh với mục tiêu tích lũy kinh nghiệm là chính trong khi vốn điều lệ của các CTCK là khá lớn và đang trong tình trạng nhàn rỗi chủ yếu gửi tại Ngân hàng để hưởng lãi. Vai trò kiến tạo thị trường của các CTCK rất mờ nhạt. Nghiệp vụ tự doanh của CTCK không đủ mạnh để góp phần bình ổn thị trường và duy trì sự phát triển liên tục của thị trường. Hoạt động mua bán chứng khoán của CTCK theo lối nhỏ lẻ cò con, bằng cách mua các lô lẻ sau đó tập hợp thành các lô chẵn sau đó tiến hành khớp lệnh để hưởng chênh lệch giá. Rõ ràng với lối làm ăn như vậy thì vai trò kiến tạo thị trường của CTCK khó có thể thực hiện. Các nghiệp vụ khác. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư được đăng ký bởi 7 trong 8 CTCK nhưng việc triển khai thực hiện chỉ có 2 CTCK là Bảo Việt và Công thương. Không những thế doanh thu từ nghiệp vụ này còn rất nhỏ bé. Tính đến thời điểm 30/6/2001, doanh thu từ nghiệp vụ này của CTCK Bảo Việt là 38 triệu. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đến nay chưa có CTCK nào thực hiện mà các CTCK mới chỉ nhận làm đại lý phát hành, nhưng doanh thu đem lại cũng không đáng kể. CTCK Bảo Việt có doanh thu đạt 14 triệu (tính đến 30/6/2001). Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán diễn ra một cách bị động tức là khách hàng phải tìm đến công ty chứng khoán chứ các công ty chứng khoán không chủ động tìm kiếm khách hàng. Việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư nhiều khi được các công ty chứng khoán tập hợp từ các phương tiện thông tin đại chúng như các loại báo chí và các nguồn thông tin không chính thức khác và điều này dễ làm cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư sai lầm do sự thiếu chính xác và không thống nhất của thông tin được cung cấp. Các tổ chức khác: +) Các Ngân hàng Thương mại. NHTM Việt Nam tham gia vào TTCK thông qua việc thành lập các công ty chứng khoán như CTCK của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam; CTCK của Ngân hàng ACB; CTCK của Ngân hàng Công thương CTCK của NHNN & PTNT; CTCK Thăng Long thuộc NHTM cổ phần quân đội. NHTM là bộ phận quan trọng của các phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ, vừa là người tham gia bỏ thầu, vừa là người trúng thầu chủ yếu. Tính đến hết ngày 31/12/2001 TTGDCK HCM đã tiến hành 16 đợt đấu thầu TPCP với tổng giá trị trúng thầu 2756,63 tỷ. Cũng như các nước khác, Việt Nam sử dụng hệ thống NHTM để thực hiện việc thanh toán đối với các giao dịch chứng khoán. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được UBCKNN chọn làm Ngân hàng chỉ định thanh toán. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán của các Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động kém hiệu quả do phải tuân theo rất nhiều các thủ tục thanh toán. Không chỉ vậy, theo quy định, các thành viên tham gia thanh toán đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng chỉ định thanh toán và chuyển tiền thanh toán vào tài khoản này trước thời hạn thanh toán. Các thành viên lưu ký lại có thể chọn các Ngân hàng thanh toán khác nhau, không thuộc hệ thống của Ngân hàng chỉ định thanh toán. Cho đến nay, về nguyên tắc để thực hiện việc chuyển tiền khác hệ thống, các NHTM phải tham gia bù trừ tại các chi nhánh NHNN tại các địa phương. Trên thực tế, các công việc và các chứng từ thanh toán hầu hết còn phải thực hiên thủ công. Hơn nữa, tại các địa bàn khác nhau, các chi nhánh NHNN tổ chức các phiên thanh toán bù trừ cũng khác nhau. Tại thành phố lớn có hai phiên mỗi ngày, trong khi ở các địa phương khác thì chỉ diễn ra một phiên mỗi ngày. Với cách thức hoạt động như trên làm cho hoạt động thanh toán diễn ra rất chậm chạp và thiếu an toàn. +) Các tổ chức tài chính trung gian khác. Đến nay, TTCK Việt Nam chưa có các tổ chức định mức tín nhiệm. Đây là những tổ chức rất quan trọng vừa có vai trò thúc đẩy hoạt động của thị trường vừa bảo vệ nhà đầu tư tránh khỏi rủi ro. Sự tham gia của các công ty bảo hiểm rất ít ỏi chỉ có công ty bảo hiểm Prudential với tư cách là nhà đầu tư, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) thành lập công ty chứng khoán Bảo Việt để tham gia thị trường. Các quỹ đầu tư chứng khoán đã xuất hiện ở Việt Nam từ trước khi TTGDCK HCM ra đời, đó là các quỹ đầu tư chứng khoán của nước ngoài. Còn các quỹ đầu tư chứng khoán của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có. Các quỹ đầu tư nước ngoài sớm xuất hiện ở Việt Nam nhằm chiếm thị phần nhanh chóng song họ sớm thất vọng. Trong số 7 quỹ đầu tư chứng khoán ban đầu, đến nay đã có hai quỹ bỏ cuộc còn lại 5 quỹ là: Beta VN, Viet Nam Fund, Viet Nam frontier Fund, Templeton Viet Nam Fund và Viet Nam Enterprise Investments Ltd. Các quỹ đầu tư hoạt động không hiệu quả do những quy định hạn chế của pháp luật, TTCK Việt Nam còn nhỏ bé. c) Cấu trúc thị trường. Có thể thấy TTCK Việt Nam đang có sự mất cân đối, chúng ta mới chỉ có TTCK tập trung mà chưa có thị trường OTC, hay một thị trường tương tự cho các CTCP có mức vốn điều lệ nhỏ hơn 10 tỷ đồng .Mặc dù trong điều kiện của chúng ta hiện nay thì việc thành lập thị trường OTC là rất khó khăn. Nhưng cũng cần phải thấy rằng, việc thành lập thị trường này là một tất yếu khách quan, khi mà thị trường tự do phát triển rất mạnh. Đến nay, ước tính có khoảng 90 cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tự do, hoạt động liên tục cả ngày đêm, với đầy sự phức tạp và rủi ro. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp của Việt Nam đang gặp khó khăn lớn trong vấn đề huy động vốn. Vay vốn từ NHTM thì gặp phải hàng loạt thủ tục ràng buộc, từ TTCK thì TTCK tập trung chỉ dành cho những công ty có vốn điều lệ từ 10 tỷ trở lên. Để giải quyết vấn đề này, bên cạnh các giải pháp về hành chính, pháp luật, thì việc xây dựng thị trường OTC là cần thiết, tạo kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ TTCK tập trung phát triển. Những vấn đề đặt ra với Thị trường chứng khoán Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế vừa mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế, nhưng nó cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức buộc chúng ta phải chú ý giải quyết để phát triển thành công nền kinh tế. TTCK Việt Nam lại ra đời vào thời điểm mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và sâu sắc vì vậy tiến trình hội nhập đặt TTCK Việt Nam trước những cơ hội và thách thức hết sức to lớn. Nếu không có định hướng hoàn thiện và phát triển TTCK một cách đúng đắn thì chúng ta sẽ phải hứng chịu những hậu quả khôn lường. Những cơ hội cho Thị trường chứng khoán Việt Nam. a) Thu hút các nguồn lực bên ngoài và tạo điều kiện mở rộng đầu tư ra nước ngoài. TTCK Việt Nam được xây dựng với mục tiêu cơ bản ban đầu là tạo ra một kênh huy động vốn mới, c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35362.doc
Tài liệu liên quan