MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
NỘI DUNG
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
1. Khái niệm và các đặc trưng.
2. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển.
II. Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
1. Tình hình chung.
2. Đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3. Sự thụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam.
III. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
1. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế giai đoạn từ nay đến năm 2005.
2. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước: 195 triệu USD năm 1995, 263 triệu USD năm 1996, 317 triệu USD năm 1998. Trong giai đoạn 1988-2000, các doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách tổng cộng khoảng 1749 triệu USD, đây là một con số thực sự có ý nghĩa, góp phần làm giảm bớt tình trạng thâm hụt và nâng cao khả năng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước.
Số liệu về doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước của khu vực FDI:
Bảng 5: Doanh thu và nộp NSNN của khu vực FDI
Đơn vị : triệu USD
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Doanh thu
228
505
1026
2063
2743
3851
3910
4600
5500
Nộp NSNN
-
-
128
195
263
315
317
271
260
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Ta sẽ đi xem xét cụ thể hơn vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế nước ta trong những năm vừa qua:
Đối với ngành công nghiệp
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực FDI luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này đạt được từ 25,1% năm 1995; 26,73% năm 1996; 28,9% năm 1997 đã tăng lên 31,98% năm 1998; 34,73% năm 1999 và 35,5% năm 2000.
Tỷ trọng khu vực FDI trong GTSX công nghiệp (%)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ trọng
26.2
26,4
26,2
25,1
26,7
28,9
32
34,7
35,5
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng ở một số năm như sau: 77,8% (năm 1995); 78% (năm 1996); 77,7% ( năm 1997) và 81,4% (năm 1998). Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra, với các mức cụ thể như sau: 99,7% năm 1995; 99,7% năm 1996; 99,8% năm 1997 và 99,8% năm 1998.
Trong công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18,1% (năm 1995); 20,1% (năm 1996); 22,9% (năm 1997) lên 25,3% (năm 1998). Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp FDI như sau: 71% trong ngành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ (trong đó 100% trong sản xuất và lắp ráp xe máy, ô tô); 44,3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES; 67,6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22,2% trong sản xuất thiết bị điện, điện tử; 20,1% trong ngành sản xuất hóa chất; 19,1% trong ngành may mặc và 18,6% trong ngành dệt. Các số liệu trên chứng tỏ khu vực FDI có vai trò thực sự quan trọng trong ngành công nghiệp của nước ta và đang nắm giữ hầu hết các ngành ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Đối với ngành nông nghiệp
Tính đến nay, còn 298 dự án ĐTTTNN đang hoạt động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hóa. Vốn FDI còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH-HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản.. thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi...
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần rất lớn vào những thành tựu về tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đạt được trong thời gian qua và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước các giai đoạn tiếp theo.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
Trong các mục tiêu kinh tế vĩ mô, quan trọng hàng đầu là tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu có quan hệ mật thiết với nhau: tăng trưởng khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế; ngược lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng, nếu chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ phù hợp với những điều kiện kinh tế đất nước và quan hệ quốc tế của mỗi thời kỳ sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó ĐTTTNN là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng chiến lược CNH-HĐH của nước ta.
Bảng 6: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế
Năm
Tốc độ tăng trưởng so với năm trước (%)
Nông lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1991
2.18
7.71
7.38
1992
6.88
12.79
7.58
1993
3.28
12.62
8.64
1994
3.37
13.39
9.56
1995
4.80
13.60
9.83
1996
4.40
14.46
8.80
1997
4.33
12.62
7.14
1998
3.53
8.33
5.08
1999
5.23
7.68
2.25
2000
4.04
10.07
5.57
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế. Hai khu vực này luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn khu vực nông nghiệp, chỉ trừ năm 1998, nhịp tăng của dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội giảm xuống còn 5,08% và năm 1999 còn 2,25%, thấp hơn so với khu vực nông nghiệp mà nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp là do sự giảm sút luồng FDI đã ảnh hưởng đến vốn đầu tư, gián tiếp đến công ăn việc làm, thu nhập và như vậy làm giảm sức mua trong nước. FDI giảm kéo theo lượng khách du lịch (kết hợp với kinh doanh) giảm, gián tiếp làm giảm doanh thu ngành vận tải, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Điều này một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI.
Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, phân bố FDI thực hiện đến nay cho thấy: công nghiệp, xây dựng chiếm 48,5%; dịch vụ chiếm 47,5%. Tính đến ngày 15/03/2001, trong số các dự án FDI còn hiệu lực thì khu vực công nghiệp có 1715 dự án, với tổng vốn đầu tư 19430,413 triệu USD, chiếm 53,5% tổng vốn FDI cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638 dự án và lượng vốn đầu tư 14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nông lâm nghiệp có 348 dự án với số vốn đầu tư 2103,353 triệu USD, chiếm 5,77%. Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại, công nghiệp hóa: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp.
Những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào khu vực công nghiệp ngày càng gia tăng (khoảng 2/3 nguồn vốn đầu tư) đã nâng tỷ trọng khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp lên khoảng 34,7% vào năm 1999. Trong những năm 1996-1999, giá trị sản xuất công nghiệp ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá cao đạt mức 22,3% bình quân năm. Nguồn vốn FDI cũng góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, nâng tỷ trọng của ngành này trong GDP lên trên 42% vào những năm 1995-1997.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối, song tỷ trọng trong GDP giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn khoảng 25% vào năm 2000, tương ứng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5% và dịch vụ từ 38,6% lên 40,5%.
Bảng 7: Cơ cấu ngành kinh tế qua các năm (đơn vị %)
Cơ cấu ngành kinh tế
Năm 1990
Năm 1995
Năm 2000
(ước tính)
Thay đổi
sau 10 năm
Tổng số
100,0
100,0
100,0
Nông lâm ngư nghiệp
38,7
27,2
25,0
- 13,7
Công nghiệp và xây dựng
22,7
28,8
34,5
+ 11,8
Dịch vụ
38,6
44,0
40,5
+ 1,90
Nguồn : Tổng kết tình hình thực hiện chiến lược 10 năm (1991-2000) - Bộ KH & ĐT
Nhà nước ta đã có chính sách thu hút nhiều nguồn vốn khác nhau tài trợ cho các vùng chậm phát triển, vùng khó khăn. Xu hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước lan ra các vùng ngoài các vùng phát triển trọng điểm. Nếu trong những năm đầu khi có Luật đầu tư nước ngoài, ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% tổng vốn đầu tư, thì đến hết năm 1999 các tỉnh phía Bắc thu hút trên 30% số dự án với trên 35% vốn đầu tư. Đến nay đã có 59 trong tổng số 61 tỉnh và thành phố trực thuộc TW có dự án đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm trong 10 năm qua, nhanh nhất là Trung du miền núi phía Bắc, khoảng 19% năm, các vùng khác từ 15-17% / năm.
Bên cạnh đó, ĐTTTNN còn góp phần chủ yếu đẩy nhanh quá trình hình thành các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), vùng kinh tế trọng điểm, ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Đến cuối tháng 7/1998, Việt Nam đã có 54 KCN, KCX trong đó 48 KCN-KCX đã đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Đến hết tháng 6/1998 trong các KCN đã có 609 doanh nghiệp hoạt động với tổng vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120.000 lao động, đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 1998. ĐTNN đã góp phần hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm của 3 miền Bắc-Trung-Nam, mỗi vùng là một khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh, có tác dụng đầu tàu đối với kinh tế Việt Nam. Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ bước đầu có sự chuyển biến theo hướng khai thác thế mạnh của từng vùng, các vùng phát triển trọng điểm. Năm 1999, ba vùng kinh tế trọng điểm tạo ra khoảng 48% GDP, 69,2% giá trị gia tăng công nghiệp.
Như vậy, bên cạnh vai trò là nguồn bổ sung vốn quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP, hoạt động ĐTTTNN còn có tác động tích cực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động xuất nhập khẩu và quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hóa sản xuất tại Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiện dự án đầu tư đã trở thành “cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được mở rộng.
Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của nước ta liên tục có sự tăng trưởng với tốc độ khá cao. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng 24% so với năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu/ GDP giai đoạn 1991-1999 cho thấy xu thế mở cửa của nền kinh tế Việt Nam ngày càng gia tăng. Đến năm 1999, tỷ trọng xuất khẩu so với GDP đạt mức 40,7%.
Bảng 8: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
(triệu USD)
2581
2985
4054
5449
7256
9145
9361
11540
14308
Xuất khẩu so GDP (%)
26,1
23,3
26,1
26,3
29,5
35
34,3
40.7
_
Tốc độ tăng trưởng (%)
23,7
15,7
35,8
34,4
33,2
26,6
1,9
23,3
24
Nguồn : Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT-XH
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 - Viện chiến lược phát triển
Nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của các doanh nghiệp có vốn FDI cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nước và cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước. Năm 1996, KNXK của các doanh nghiệp FDI tăng 78,6% so với năm trước, thì KNXK của cả nước tăng 33,2%, còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29,5%. Số liệu tương ứng của năm 1997 là: 127,7%; 26,6% và 14%; của năm 1998 là: 10,7%; 2,4% và 1,8%; năm 1999 là: 30,2%; 23% và 21,1%. Về số tuyệt đối, KNXK của các doanh nghiệp FDI đã tăng một cách đáng kể qua các năm. Nếu năm 1991 đạt 52 triệu USD, năm 1995 đạt 445 triệu USD, năm 1997 đạt 1790 triệu USD thì năm 1999 đạt 2590 triệu USD và năm 2000 đạt tới 3320 triệu USD. Như vậy, KNXK của các doanh nghiệp loại này đạt được trong năm 2000 gấp 7,4 lần của năm 1995 và gần bằng 64 lần của năm 1991.
Dưới đây là số liệu về tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI :
Năm
92
93
94
95
96
97
98
99
Tóc độ tăng(%)
115
129
37
25
79
128
11
30
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Về số tương đối, tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng KNXK của cả nước đang có xu hướng tăng lên. Năm 1992 chiếm 4,3%, năm 1996 chiếm 12,7% và đến năm 2000 đã chiếm 23,2% tổng KNXK của cả nước.
Bảng 9: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
(triệu USD)
112
269
352
445
920
1790
1982
2590
3320
So với cả nước (%)
4,3
9
8,7
8,1
12,7
19,6
21,2
22,4
23,2
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Như vậy, các doanh nghiệp ĐTTTNN đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ở nước ta. Kết quả đáng khích lệ đó một phần do nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, một phần do chính sách Nhà nước ngày một thông thoáng nhằm khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất và xuất khẩu. Khoảng gần 2/3 số dự án mới cấp phép trong hơn một năm nay là đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và đều gắn với mục tiêu xuất khẩu ít nhất từ 50% sản phẩm trở lên. Điều đó báo hiệu khả năng gia tăng xuất khẩu của nước ta nói chung, của khu vực doanh nghiệp FDI nói riêng trong những năm tới.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài với giải quyết công ăn việc làm,
nâng cao năng lực của người lao động
Hoạt động của các dự án ĐTTTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam.
Tính đến ngày 31-12-2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra cho Việt Nam khoảng 349.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan) - theo tính toán của Ngân hàng thế giới. Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Ngành công nghiệp nhẹ là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất, với hơn 15 vạn chỗ làm việc, chiếm gần 50% số lao động trong khối FDI. Đây là một kết quả nổi bật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảng 10: Giải quyết việc làm khu vực FDI (1000 người)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Số việc làm
220
250
270
296
349
Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT
Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD/ tháng (tương đương khoảng 980.000 đồng), bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc...đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Trong một số lĩnh vực còn yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn và ngoại ngữ. Các nhân viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tiếp thu được công nghệ quản lý hiện đại, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, có điều kiện cập nhật các kiến thức, phương tiện, công cụ mới trong quản lý kinh tế, có điều kiện làm quen và tự rèn luyện tác phong công nghiệp, sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị hiện đại.
Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào làm việc tại các doanh nghiệp loại này. Số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp FDI đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến.
Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay, chúng ta có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI.
Như vậy, thông qua việc thu hút và tạo ra thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động xã hội, ĐTTTNN đã góp phần đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cả về số lượng, tỷ trọng lẫn chất lượng, góp phần giảm các tệ nạn xã hội cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, tăng sự ổn định chính trị - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương.
* Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ,
nâng cao trình độ kỹ thuật của nền sản xuất
Khi đầu tư vào Việt Nam, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước ta vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý...(còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên Việt Nam và bên chủ đầu tư.
Về vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp FDI thuộc ngành công nghiệp nói riêng và trên toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng qua đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn và phân tích theo logic ta thấy rằng:
- Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Những thiết bị công nghệ mà họ đưa vào sử dụng tại các dự án đầu tư ở ta tuy có thể đã đến lúc cần thay thế ở nước họ, nhưng vì đi cùng với những thiết bị, công nghệ này thường là một số lượng nhất định tiền vốn phải bỏ ra, xuất phát từ sự gắn liền với lợi ích của mình như vậy nên khi chuyển thiết bị, công nghệ vào nước ta, bên nước ngoài cũng cân nhắc tính toán kỹ. chúng ta tin rằng họ chỉ chuyển vào những thiết bị công nghệ mà họ thấy còn phù hợp với trình độ và phát huy được hiệu quả tại Việt Nam, để chí ít họ cũng còn khả năng thu hồi được vốn và có lãi (tất nhiên ta không loại trừ những trường hợp cá biệt, ngoại lệ).
- Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn rất nhiều những thiết bị có trước đây tại Việt Nam.
Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước. Nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới như ngành bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí...Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp FDI tương đối đồng bộ và là các thiết bị có trình độ cơ khí hóa trung bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa. Một số dây chuyền được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài điện thoại kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử. Một số ít có các thiết bị tự động hóa hoàn toàn, sản phẩm thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính.
Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đồng thời hạn chế đến mức tối đa các loại hàng trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, sắt thép xây dựng, sứ vệ sinh, xi măng...
Chất lượng các loại sản phẩm của khu vực FDI hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
Một vấn đề có ý nghĩa nữa là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động, theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh...thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn FDI đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Như vậy, bên cạnh một số tồn tại, các công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ta. Các công nghệ này đã nhanh chóng tạo ra lợi nhuận, phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Nước ta có lợi thế so sánh về nguồn lực con người nên trước mắt, các công nghệ hiện đại có thể tác động không tốt đến công ăn việc làm nhưng về lâu dài, chúng ta cần phải có chính sách chú trọng tìm kiếm, đầu tư và thu hút các nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao để đưa nền sản xuất nước ta theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới.
Trên đây là những tác động chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế như ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái, phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng các mối quan hệ ngoại giao...
Cần phải hiểu rằng, FDI không thể là phương thuốc thần kỳ có thể giúp giải quyết hết tất cả các vấn đề còn tồn tại của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, và thậm chí nó còn gây ra nhiều tác động tiêu cực đang được xem xét và đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, trong sự tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ những năm vừa qua, FDI đã giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Những phân tích trên chưa thể đánh giá hết vai trò tích cực và tầm quan trọng của ĐTTTNN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên ta có thể khẳng định lại một điều đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp một phần tích cực và vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua, nó như một nguồn năng lượng quyết định khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng và phát triển. ĐTTTNN là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH, là một kênh đưa kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
3. Sự sụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam
Sau những năm phát triển mạnh mẽ, từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn. Nếu so với năm 1997 số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 30,01%. Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,52 triệu USD / dự án), bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999.
Đã có nhiều lý giải
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62044.doc