MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Nội dung bài viết:
Phần I : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại.
I - Tín dụng và các loại tín dụng.
1 - Khái niệm
2 - Đặc điểm
3 - Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng.
4 - Chức năng và vai trò của tín dụng.
5 - Các loại tín dụng.
II - Ngân hàng thương mại và vai trò của tín dụng.
1 - Ngân hàng thương mại
2 - Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng.
3 - Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTM.
Phần II : Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
I - Tổng quan về hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
II - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
1 - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
1.1- Quy mô và cơ cấu tín dụng.
1.2- Chất lượng hoạt động tín dụng.
2 - Những vấn đề tồn tại cần khắc phục.
Phần III : Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
I - Giải mở rộng hoạt động tín dụng.
II - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
III - Những kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan hữu quan.
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Vốn tự có: đây là lượng vốn thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Tài sản nợ khác (nguồn vốn khác): loại này lúc có lúc không, ngân hàng này có ngân hàng khác có thể không có.
Bằng hoạt động huy động vốn, ngân hàng đã nắm trong tay phần lớn của cải xã hội về mặt giá trị
Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Nghiệp vụ kho quỹ: đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng. Để đảm bảo chi trả cho khách hàng khi có một luồng tiền rút ra ngân hàng phải thực hiện dự trữ bao gồm dự trữ bắt buộc (gửi tại ngân hàng trung ương), và dự trữ vượt quá (tồn quỹ nghiệp vụ ngân hàng).
- Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động cơ bản và chủ yếu của bất kỳ NHTM nào. Đại bộ phận số tiền đi vay hay huy động được là để cho vay nền kinh tế. Khoản mục này có tích luỹ kém nhất, độ rủi ro vỡ nợ cao, do đó ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ các khoản cho vay, chiếm 2/3 thu nhập của các NHTM.
- Đầu tư: các ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án, đầu tư vào chứng khoán.
- Tài sản có khác: đây là hoạt động sử dụng vốn mang tính chất không thường xuyên như tài trợ, quảng cáo, các vốn hiện vật như các toà nhà ngân hàng, các trang thiết bị. . .
Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài các hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, Ngân hàng thương mại còn đứng giữa các khách hàng thực hiện các dịch vụ hoặc thực hiện “lệnh” của các khách hàng:
- Chuyển tiền: theo lệnh của khách hàng chuyển tiền cho người thứ ba ở một địa phương nào đó.
- Thanh toán không dùng tiền mặt: qua các hình thức như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng L/C, séc. . .
- Cung cấp các dịch vụ tài chính: mua bán hộ tài sản, quản lý danh mục đầu tư. . .
2 . Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.1 . Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng quan hệ tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ, bao gồmtiền mặt và bút tệ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, với tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
2.2 . Vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.2.1 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tập trung, điều hoà lượng cung - cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động của tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ các người tiết kiệm sang những nhà đầu tư, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
Hoạt động tín dụng giúp tận dụng những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đưa vào sản xuất kinh doanh do đó nó góp phần thúc đẩy quá trình chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn là công cụ chhủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực then chốt, các vùng kinh tế kém phát triển. Đồng thời nó tạo lượng tiền cung ứng, phát triển kinh tế đối ngoại, góp phần bình ổn giá cả và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.
2.2.2 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động của NHTM.
Đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế cần phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hoá hoạt động cho vay, đầu tư, đa dạng hoá khách hàng và thời hạn vay để ngân hàng có thể đứng vững trong cơ chế thị trường.
3 . Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM.
3.1 . Hiệu quả hoạt động tín dụng.
Theo các nhà Ngân hàng thì hoạt động tín dụng được coi là có hiệu quả khi đảm bảo ba yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi nợ đúng hạn và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng khi tiến hành cho vay thì khoản vay đó phải mang lại thu nhập cho ngân hàng, bảo đảm trang trải được chi phí trả lãi huy động hoặc đi vay, chi phí ngân hàng và rủi ro, cùng với khả năng trả nợ của khách hàng và sự cân xứng từ phía nguồn. Hiệu quả hoạt động tín dụng được đánh giá thông qua:
- Quy mô tín dụng :
+ Doanh số cho vay.
+ Dư nợ tín dụng.
- Chất lượng tín dụng :
+ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ.
+ Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động.
3.2 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM.
Chất lượng của công tác thẩm định dự án.
Trước khi tiến hành cho vay đối với một dự án, việc đầu tiên rất quan trọng là phải tiến hành thẩm định dự án. Qua đó ngân hàng mới có thể đánh giá được tính khả thi và hiệu quả của dự án, tránh những rủi ro, tổn thất cho ngân hàng.
Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án để quyết định xem có đầu tư hay không. Do vậy, phải vận dụng tổng hợp những hiểu biết về KHTN, KHXH, công nghệ ngân hàng và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước để xem xét đánh giá, phân tích về quy mô, thiết bị, quy trình công nghệ, và hiệu quả kinh tế xã hội.
Thẩm định dự án còn là cơ sở để ngân hàng xác định số tiền cho vay, lãi suất, thời gian cho vay, mức thu hồi nợ hợp lý tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu.
Lãi suất tín dụng.
Lái suất tín dụng là giá cả của tín dụng hay giá phải trả cho quyền sử dụng vốn. Lãi suất tín dụng đóng vai trò đòn bẩy kinh tế nhạy bén đối với doanh nghiệp, cá nhân và ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược, hoạt động của họ. Trong hoạt động tín dụng lãi suất quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng tới hoạt động của khách hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Lái suất cho vay của NHTM thường được tính dựa trên cơ sở lãi suất đầu vào cộng với một tỷ lệ nhất định đủ để trang trải chi phí hoạt động và đảm bảo cho ngân hàng có lãi. NHTM huy động vốn tự nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn đều có mức lãi suất nhất định.
Ảnh hưởng của yếu tố rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là hiện tượng bên vay vốn không trả được nợ khi đến hạn. Có rất nhiều nguyên nhân khiến khách hàng không trả được nợ:
- Nguyên nhân khách quan: do thiên tai, do biến động của thị trường, do sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá. . . Rủi ro thiên tai là rủi ro bất khả kháng đối với người vay, làm người vay thiệt hại nặng không trả được nợ. Rủi ro do biến động của thị trường, biến động lãi suất hay tỷ giá là do biến động tình hình kinh tế, chính trị do thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước dẫn đến những biến động gây bất lợi cho khách hàng.
- Nguyên nhân chủ quan: là những nguyên nhân từ phía ngân hàng hay do khách hàng gây ra. Do việc sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng, ngoài ra còn do sự quản lý yếu kém đối với vốn vay quản lý kinh doanh kém cũng là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Về phía ngân hàng, do việc thẩm định dự án không chính xác, không phát hiện ra sai lầm của khách hàng trong việc tìm hiểu thị trường để tư vấn cho khách hàng, hoặc do cán bộ tín dụng cố tình hay thiếu kinh nghiệm nên khó tránh khỏi rủi ro khi cho vay.
Nói chung, rủi ro là điều mà bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể gặp phải, nhưng nếu hiểu rõ nguyên nhân gây rủi ro thì ta có thể có biện pháp hạn chế và tìm cách xử lý thích hợp.
Ảnh hưởng của các chính sách kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài luật doanh nghiệp, luật ngân hàng thì trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quy định của Nhà nước về tỷ giá hối đoái, quy trình nghiệp vụ, lãi suất.
Ngoài ra ngân hàng còn chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các chính sách, quy chế, quy định điều chỉnh hoạt động của khách hàng vay vốn như chính sách thuế, chính sách XNK, chế độ kế toán, kiểm toán… Các chính sách này tác động đến kết quả kinh doanh của khách hàng từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng.
PHẦN II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
I. TỔNG QUAN HỆ THỐNG NHTM Ở VIỆT NAM.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, ngành ngân hàng có vai trò quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Sau gần nửa thế kỷ hoạt động, trong đó có thời gian dài hoạt động dưới chế độ tập trung với nhiệm vụ phục vụ xây dựng miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước và phát triển kinh tế xã hội sau chiến tranh. Đầu thập kỷ 90, khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngnàh ngân hàng sớm đổi mới hoạt động từ một cấp sang hai cấp với sự ra đời của hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính tín dụng khác. Trong đó các NHTM đã thực sự trở thành một hệ thống, tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng hoạt động đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Hiện nay hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có hàng trăm ngân hàng thuộc đủ các thể loại như NHTM quốc doanh (NHNN & PTNT, NHĐT & PT, NHCT, …), ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.
Nước ta, do thị trường chứng khoán mới ra đời, phát triển chưa mạnh, chưa phát huy hết hiệu quả nên hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu, có vai trò tập trung, điều hòa vốn, đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân và cả Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, mặc dù các NHTM đã gặt hái được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại cần được nhanh chóng khắc phục.
II - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
1 . Thực trạng hoạt động tín dụng NHTM ở Việt Nam.
. Quy mô, cơ cấu huy động và cho vay.
Về khả năng tạo lập vốn:
Ngay từ khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời các NHTM đã chú trọng việc ổn định và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Các NHTM một mặt có các giải pháp đa dạng hoá hình thức huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, cạnh tranh; mặt khác áp dụng chính sách bảo vệ khách hàng, dịch vụ trọn gói : nhận tiền gửi, cấp tín dụng, mua bán ngoại tệ, thực hiện dịch vụ thanh toán… đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm tạo ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả.
Nhìn chung, tổng nguồn vốn NHTM trong mấy năm qua tương đối ổn định và có chiều hướng tăng, trong đó vốn của các NHTMQD chiếm phần lớn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 20 – 30% năm và đến những năm gần đây tốc độ này đã giảm do biến động chung của tình hình kinh tế khu vực và thế giới.
Về tình hình cho vay vốn:
Từ khi hình thành tới nay, các NHTM đã không ngừng tăng dư nợ cho vay nền kinh tế, nhằm đảm bảo vốn cho sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Cơ cấu cho vay cũng có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tỷ lệ vốn trung và dài hạn. Năm 1990, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm 19% tổng dư nợ tín dụng nhưng đến năm 1996 đã tăng lên 48%. Nguyên nhân là do trước đây, khi mới chuyển đổi cơ chế số doanh nghiệp, hộ kinh doanh ngoài quốc doanh còn ít nên tỷ lệ cho vay thành phần này còn thấp. Đến nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không ngừng tăng lên về quy mô cũng như số lượng nên đã nâng dần tỷ trọng vay vốn ngân hàng.
Bảng 2: Tình hình dư nợ tín dụng qua một số năm
Các chỉ tiêu
đơn vị
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Cho vay DNQD
%
81
90
81
65
64
57
52
Cho vay ngoài quyết định
%
19
1
19
35
36
43
48
Cho vay ngắn hạn
%
95
85
83
77
67
69
62
Cho vay trung hạn
%
5
2
4
14
18
24
25
Cho vay dài hạn
%
0
13
13
9
15
7
13
(Nguồn: Thị trường tài chính tiền tệ 5 - 1997)
Một điểm mới trong việc nới lỏng tín dụng là các NHTM mở rộng cho vay tiêu dùng và mua bán bất động sản. Hàng chục nghìn gia đình giáo viên, cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang được vay khoảng gần 10.000 tỷ đồng cho các nhu cầu xây dựng mới và sửa chữa nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng đắt tiền… Ngành ngân hàng cũng mở ra một lĩnh vực mới đó là cho vay tiền người đi xuất khẩu lao động.
Các NHTM đã cung cấp phần lớn vốn cho đầu tư phát triển các lĩnh vực then chốt, đòi hỏi nhiều vốn theo kế hoạch của Nhà nước. Các NHTM đã cho vay những khoản hợp vốn bằng ngoại tệ cho những dự án lớn: Nhà nước khí điện đạm Cà Mau có tổng số vốn đầu tư trên 5700 tỷ VND, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ. 6 NHTM đồng tài trợ 230 triệu USD cho dự án phân đạm Phú Mỹ. 3 TCTD đồng tài trợ 30 triệu USD cho Petro Việt Nam mua tàu chở dầu thô; 4 NHTMQD đồng tài trợ 95 triệu USD cho Dự án xi măng sông Gianh; dự án mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ và đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn được tài trợ 50 triệu USD… và hàng loạt dự án lớn khác thuộc lĩnh vực dầu khí, hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông, đóng tàu… tổng cộng vốn tín dụng trị giá trên 1 tỷ USD.
Về tốc độ cho vay vốn:
Trong mấy năm qua tốc độ cho vay của các NHTM còn thấp, chỉ chiếm khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng (1997 là 73,15%; 1998 là 71,2%); lượng vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng còn lớn, do vậy ngân hàng phải trả một khoản chi phí lớn chi lãi huy động trong khi không thu được lợi nhuận. Cho đến năm 1999 do tác động của giảm phát các ngân hàng đã hạ thấp lãi suất huy động vốn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm khơi thông nguồn vốn trong hệ thống NHTM, nhưng tốc độ cho vay tăng rất chậm.
Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999.
QuýI
QuýII
Quý III
Quý IV
Huy động
--------
9,3
19,3
--------
Cho vay
âm
6
8,5
10
(Nguồn : Chuyên san TBKT Việt Nam 98’ - 99’)
Như vậy, tốc độ cho vay tăng chậm trong khi lượng tiền gửi vào ngân hàng vẫn tăng, mà chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên ngân hàng không thể cho vay để giải toả vốn. Điều này là giảm thu nhập và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây đọng vốn tại ngân hàng nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chính sau:
Một là, do sự hạn chế của đầu ra. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có vốn tự có rất nhỏ so với quy mô hoạt động của nó, trong khi muốn vay vốn ngân hàng thì phải có các điều kiện về thủ tục, tài sản thế chấp, cầm cố, vì vậy các doanh nghiệp có vốn tự có nhỏ thì khả năng vay vốn bị hạn chế. Mặt khác, do thị trường tiêu thụ hàng hoá ở nước ta đã bão hoà mà các doanh nghiệp chưa có các biện pháp mở rộng thị trường mới. Trong khi đó, hàng hoá nước ngoài xâm nhập cạnh tranh quá khốc liệt trên thị trường nội địa làm cho các doanh nghiệp trong nước không thể mở rộng sản xuất vì thế không thể vay thêm vốn ngân hàng.
Hai là, do các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước mà ở đây là chính sách tiền tệ. Hiện nay chúng ta đang giảm lãi suất và quy định mức chênh lệch lãi suất là 0,3%. Lãi suất cho vay giảm liên tục, khoảng cách giữa hai lần điều chỉnh quá ngắn, làm cho các NHTM luôn luôn bị động, vốn huy động vào với lãi suất cao chưa kịp cho vay ra đã phải cho vay theo lãi suất giảm, dẫn tới bị thua lỗ.
Nhà nước thay đổi lãi suất buộc các Ngân hàng thương mại phải thay đổi kế hoạch kinh doanh, phải tính toán lại mức lãi suất cho phù hợp quy định Nhà nước. Và có thể các NHTM phải tìm một đầu ra thích hợp hơn là cho vay để khỏi bị hạn chế trần lãi suất. Đó cũng là nguyên nhân làm hẹp đầu ra của các Ngân hàng thương mại.
.Chất lượng hoạt động tín dụng.
Những năm qua, hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, doanh số Cho vay và tổng dư nợ liên tục tăng. Tuy nhiên để xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng thì ta cần xem xét chất lượng các khoản vay đó.
Hiện nay, bên cạnh các mặt đã làm được, hoạt động của hệ thống NHTM còn nhiều vấn đề bất cập làm cho quá trình kinh doanh gặp nhiều thách thức mới. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là mức dư nợ quá hạn rất lớn. Chất lượng tín dụng của các khoản vay rất thấp, nhất là các NHTM cổ phần đô thị, sau đó là các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần nông thôn. Tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam được công bố vào cuối năm 1998 là 13,6% tương ứng với khoảng 14.000 tỷ đồng tăng gấp đôi so với tỷ lệ một năm trước đó và cuối năm 2000 con số này là 9,2%.
Nếu xét riêng từng loại ngân hàng thương mại năm 1998 ta thấy:
Các NHTM cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và nợ khó đòi vào khoảng 10 % so với tổng dư nợ.
Các NHTM quốc doanh có mức dư nợ quá hạn chiếmkhoảng 11% và nợ khó đòi khoảng 8% so với tổng dư nợ.
Các NHTM cổ phần nông thôn mức dư nợ quá hạn chiếm khoảng 5,6% và nợ khó đòi là 0,7% so với tổng dư nợ.
Với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có các tỷ lệ rất thấp, nợ quá hạn chiếm khoảng 2,3%, còn nợ khó đòi chỉ khoảng 1,2% so với tổng dư nợ. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng trong nước là trên 15%, gấp 3 lần mức được coi là nguy hiểm.
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng NQH/VTC
88,1
95,5
85
61,9
75,7
62,3
46
Tổng NQH/Tổng dư nợ
13,7
11,1
6,0
7,8
9,3
9,5
10
Tổng NQH/ Tổng TS Có
6,0
6,6
5,5
4,4
5,5
5,4
5,5
Vốn tự có/ Tổng TS
6,8
6,9
6,9
7,1
7,2
7,9
11,8
(Nguồn : Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề 12 - 1998).
Một câu hỏi được đặt ra là trong những năm gần đây, ngành ngân hàng tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn, nhưng tại sao nợ quá hạn không giảm mà lại còn tăng?
Trước hết, ngành ngân hàng tập trung tiến hành thanh tra kiểm soát, đối chiếu các khế ước vay vốn và hồ sơ vay vốn… nên nhiều khoản cho vay trước đây đảo nợ, làm các thủ thuật che giấu nợ quá hạn, nay phải báo cáo thật, thực trạng tín dụng được bộc lộ rõ, nợ quá hạn gia tăng.
Thứ hai là, tình trạng ngân sách các cấp nợ vốn đầu tư các côngtrình ngày càng lớn, bên A không có tiền thanh toán cho bên B, còn bên B trước đó phải vay ngân hàng. Các khoản vay đó cũng lần lượt được chuyển thành nợ quá hạn.
Thứ ba là, lãi suất cho vay của ngân hàng giảm ở mức thấp, mức bình quân là 1,2%/tháng, thấp hơn so với vay ngoài hay vay quỹ TDND, nên người vay có tâm lý là thà để nợ quá hạn, với lãi suất phạt nợ quá hạn 150% thì vẫn thấp hơn vay ngoài.
Thứ tư là, thị trường bất động sản trì trệ, hàng loạt khách sạn, nhà hàng, khu căn hộ cho thuê, ế ẩm, không có khách, kéo theo nợ đọng vốn trong ngân hàng.
Cuối cùng là, hàng đống tài sản thế chấp liên quan đến các khoản nợ vay quá hạn ngân hàng không xử lý được. Ước tính trị giá tài sản thế chấp của các khoản nợ quá hạn cần được giải toả lên tới khoảng 10.000 tỷ đổng, trong đó riêng vụ Epco – Minh Phụng đã gần 7.000 tỷ đồng. Tài sản thế chấp không giải toả được để thu tiền về cho ngân hàng, nợ bị đóng băng.
2 . Những vấn đề tồn tại cần khắc phục.
Trong thời gian qua, các NHTM đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, hội nhập dần vào thị trường quốc tế… Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại một số mặt yếu kém cần khắc phục:
Một là, về nguồn vốn cho vay và sử dụng vốn : các NHTM trong nhiều năm qua đã có nhiều chính sách, giải pháp linh hoạt nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế. Nhưng tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động còn thấp (khoảng 30 - 40%). Đây là một khó khăn của các ngân hàng khi muốn mở rộng quy mô cho vay dài hạn. Mặt khác, các ngân hàng vẫn chưa sử dụng hết lượng vốn đã huy động được, hệ số sử dụng vốn còn thấp. Trong mấy năm gần đây, lượng vốn được sử dụng cho vay, đầu tư chỉ chiếm khoảng 40 - 50%. Đó là biểu hiện không tốt đối vớiht NHTM bởi lẽ khi ngân hàng không cho vay vốn huy động thì vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền và lãi tiền vay, trong khi không thu được lãi cho vay nên khó có thể bù đắp nổi chi phí gây ra tình trạng thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản ngân hàng.
Hai là, vấn đề nợ quá hạn và tài sản xiết nợ. Hiện tại hệ thống NHTM ở Việt Nam có mức dư nợ quá hạn quá lớn. Chất lượng các khoản vay của các NHTM thấp đặc biệt là các NHTM cổ phần. Dư nợ quá hạn khoảng 10% (1998), thêm vào đó việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Thời gian qua, việc xử lý tài sản thu hồi vốn được thực hiện rất chậm, kết quả không cao do nhiều vướng mắc về thủ tục kê biên phát mại, đánh giá giá trị tài sản. Đồng thời, các tài sản thế chấp lại khó chuyển nhượng, thanh lý vì thị trường bất động sản chưa phát triển. Do vậy, lượng vốn đọng trong các tài sản này khó có thể thu hồi ngay, làm cho các khoản nợ khó đòi không thể xử lý được.
Ba là, về đối tượng cho vay: Những năm qua khách hàng của các NHTM chủ yếu là các DNNN. Do có quyền được cấp tín dụng nên mặc dù làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nhưng ngân hàng vẫn phải cho vay. Trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm nhiều, vốn cho vay cá thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tới 50% dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng.
Bốn là, về công tác thẩm định đánh giá: để có thể bảo toàn vốn vay cho khách hàng thì việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng. Muốn vậy, các khoản vay mới phải được thẩm định kỹ càng trước khi quyết định chuo vay cũng như phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Hiện nay, các cán bộ tín dụng không có điều kiện để thu thập thông tin về khách hàng, vì vậy chỉ dựa vào những số liệu do khách hàng cung cấp hoặc trên các phương tiện thông tin. Nhưng các thông tin này không đảm bảo tính chính xác cao dẫn đến sự đánh giá của ngân hàng sai lệch đi, gây khó khăn cho việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật của một số cán bộ tín dụng còn hạn chế, ngân hàng chưa có nhiều chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật để giúp cho việc đánh giá dự án nên kết quả thẩm định thiếu chính xác. Đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhiều khi cán bộ tín dụng quá dè dặt làm mất đi một mảng khách hàng lớn, làm hạn chế khả năng cho vay, giải toả vốn của ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, do môi trường kinh tế không ổn định, cơ chế quản lý vỹ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện. Các doanh nghiệp chuyển hướng vào điều chỉnh kế hoạch kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của chính sách và cơ chế của Nhà nước. Vì vậy, một số doanh nghiệp gặp khó khăn như áp dụng hàng hoá, chi phí, doanh thu không bù đắp được do chi phí bỏ ra dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán phát sinh nợ quá hạn cho ngân hàng.
Hai là, hệ thống văn bản pháp luật liên quan tuy đã cải thiện nhiều nhưng chưa thực sự khoa học, đồng bộ, chưa phù hợp với một trường cạnh tranh của cơ chế thị trường, đặc biệt là các quy định liên quan tới tài sản thế chấp, cầm cố, thủ tục, điều kiện cho vay rườm rà, phức tạp đã khiến cho ngân hàng phải từ chối những khoản cho vay vì không đáp ứng được điều kiện cho vay vốn.
Hơn nữa, các quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp chưa khoa học, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế và cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp được đầu tư sản xuất kinh doanh chủ yếu từ vốn vay của ngân hàng nhưng khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ thể đầu tiên được thanh toán nợ từ nguồn thanh lý tài sản của doanh nghiệp không phải là ngân hàng cho vay dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các pháp lệnh về kế toán, thống kê chưa đủ, chưa hiệu lực để bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán chính xác, kịp thời. Các số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp không phản ánh đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính thực tế của đơn vị.
Nguyên nhân từ bản thân các doanh nghiệp vay vốn:
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, kể cả các doanh nghiệp quốc doanh lẫn doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn tự có ít ỏi. Để hoạt động được các nhà kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay của ngân hàng, vì vậy một biến động nhỏ của thị trường, của lãi suất cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Vốn đã ít ỏi lại thêm tình trạng lạc hậu của máy móc, thiết bị khiến cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, cạnh tranh diễn ra gay gắt. Vì vậy sản phẩm sản xuất ra không liên tục được, thua lỗ trở thành hiện tượng phổ biến của các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Mặt khác, trình độ và năng lực điều hành, kinh nghiệm quản lý của một số doanh nghiệp còn hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao; một số doanh nghiệp khi vay họ lập phương án kinh doanh rất hiệu quả, chứng minh đầu vào, đầu ra rất khả thi nhưng do không tính toán hết những biến động của thị trường nên bị thua lỗ. Trong những món vay trung và dài hạn để nhập máy móc và thiết bị do không phát huy được tác dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả tiền vay cho ngân hàng. Hoặc một số trường hợp nhà doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh nhưng thiếu vốn hoạt động dẫn đến hiện tượng các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng vốn của nhau, thậm chí còn lừa đảo, bỏ trốn làm cho các doanh nghiệp vay vốn của các Ngân hàng thương mại không trả được nợ.
Nguyên nhân từ phía các Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy định, chế độ, thể lệ:
Qua công tác kiểm tra tín dụng vừa qua, các ngân hàng và chi nhánh đã chú ý tới thủ tục, hồ sơ cho vay nhưng vẫn còn nhiều hồ sơ cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản chưa đủ các chứng từ pháp lý, việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay chưa được coi trọng đúng mức, đặc biệt là khâu kiểm soát trong và sau khi rút tiền vay còn nhiều lúng túng dẫn đến các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp mở rộng & nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.doc