Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ
Lời mở đầu 1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI ĐỐI VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN 4
1.1 Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi 4
1.1.1 Mục đích của bảo hiểm tiền gửi 4
1.1.2 Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 5
1.1.3 Nghiệp vụ chính của Bảo hiểm tiền gửi 5
a. Giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi 6
b. Hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả 7
c. Việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm 7
d .Quản lý và thanh lý tài sản đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản 8
1.2 Một vài nét cơ bản về phương pháp giám sát từ xa 8
1.2.1 Khái niệm 8
1.2.2 Phương pháp phân tích làm cơ sở cho việc giám sát 8
1.2.3 Nội dung giám sát từ xa 11
1.2.4 Xử lý sau giám sát 23
1.3.1 Một vài nét về hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 23
a. Cơ cấu tổ chức và mô hình hoạt động 23
b. Đặc trưng của quỹ tín dụng nhân dân 24
1.3.2 Vai trò của công tác giám sát từ xa trong Bảo hiểm tiền gửi đối với hệ thống QTDND 27
1.4 Công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia 28
1.4.1 Hoạt động giám sát từ xa, kiểm tra tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ( FDIC) 29
1.4.2 Hoạt động kiểm tra, giám sát tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi Đài Loan( CDIC) 31
Chương2 . THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM SÁT TỪ XA ĐỐI VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ TẠI CHI NHÁNH BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM KHU VỰC HÀ NỘI 33
2.1 Khái quát về giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi Chi nhánh khu vực Hà Nội 33
2.1.1 Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội các tỉnh mà Chi nhánh quản lý 33
2.1.2 Hoạt động của Chi nhánh bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội 35
2.1.3. Một số các kết quả chủ yếu mà Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội đã đạt được 41
2.2 Hoạt động của phòng giám sát và thu phí. 44
2.2.1 Đặc điểm và hoạt động của phòng giám sát và thu phí 44
2.2.2 Nhiệm vụ của phòng giám sát và thu phí 47
2.3 Thực trạng của công tác giám sát từ xa của Chi nhánh đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn quản lý 48
2.3.1 Giám sát về việc chấp hành các quy định về pháp luật của BHTGVN 48
2.3.2 Giám sát về việc chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng 54
2.3.3. Xử lý sau giám sát 66
2.4. Đánh giá kết quả và những hạn chế 67
2.4.1. Kết quả 68
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân 73
a. Những mặt còn tồn tại 73
b. Nguyên nhân 77
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY CÔNG TÁC GIÁM SÁT TỪ XA CỦA CHI NHÁNH BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM KHU VỰC HÀ NỘI ĐỐI VỚI QŨY TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ 79
3.1 Định hướng 79
3.1.1 Định hướng hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời gian tới 79
3.1.2 Định hướng hoạt động của chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội. 79
3.2 Giải pháp 80
3.3 Một số đề xuất kiến nghị 92
3.3.1 Đối với Ngân Hàng Nhà Nước Việt nam và chi nhánh NHNN Tỉnh, Thành phố 93
3.3.2 Đối với Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 94
3.3.3 Đối với BHTGVN 97
Kết luận 100
Phụ lục 1
Danh mục tài liệu tham khảo
107 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à hoạt động của đơn vị
Khi gặp khó khăn về chi trả
Khi có sự thay đổi về thành viên Hội đồng quản trị. Ban kiểm soát, Tổng giám đốc( Giám đốc)
Báo cáo năm của đơn vị gồm:
Bảng tổng kết tài sản năm hoặc báo cáo kiểm toán của đơn vị do cơ quan kiểm toán lập sau khi được Ngân hàng nhà nước cáâp nhận
Báo cáo kết quả hoạt động tài chính của đơn vị
Báo cáo khác khi có thông báo cụ thể
Giám sát việc tuân thủ các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng
Để thực hiện công việc giám sát này hiện nay bộ phận giám sát và thu phí làm theo quy chế giám sát số 217/2002/QĐ-HĐQT-BHTG của hội đồng quản trị trên cơ sở các báo cáo mà TCTG gửi cho Chi nhánh. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện đơn vị nào không đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hoạt động, bộ phận sẽ có những cảnh báo phù hợp;
Nội dung giám sát về tỷ lệ an toàn trong hoạt động Ngân hàng về cơ bản là không khác nhiều so với nội dung giám sát của NHNN hiện nay:
Giám sát về Vốn Điều lệ, vốn này tối thiểu phải bằng vốn pháp định theo quyết định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của Chính phủ, ví dụ đối với QTDND cơ sở thì VPĐ là 100 triệu VND
Giám sát tỷ lệ cho vay trung và dài hạn
Giám sát về góp vốn cổ phần
Giám sát về mua sắm tài sản cố định
Giám sát về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Giám sát về kết quả kinh doanh
Giám sát trích lập dự phòng ( chất lượng tín dụng)
Các chỉ tiêu giám sát từ xa của BHTGVN được xây dựng trên cơ sở chỉ tiêu đánh giá chung về hoạt động của TCTD. Căn cứ để giám sát từ xa là bảng cân đối kế toán, Báo cáo thống kê của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và nhập dữ liệu từ các Báo cáo kiểm tra của hệ thống và nguồn cung cấp số liệu của Ngân hàng Nhà nước. Nội dung giám sát từ xa là phân tích, đánh giá đầy đủ tình hình hoạt động của từng tổ chức tín dụng, đánh giá mức độ tuân thủ các quy định về bảo hiểm tiền gửi, tham khảo kết quả xếp hạng tổ chức tín dụng của NHNN để bổ sung cho việc xác định những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
Qua giám sát từ xa, Chi nhánh đã nắm vững kịp thời tình hình tài chính của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và đưa ra chủ trương và kiến nghị thích hợp;
2.2.2 Nhiệm vụ của phòng giám sát và thu phí
Trong quá trình giám sát và kiểm tra đối với TCTGBHTG, nếu thấy phát hiện các tổ chức này vi phạm các quy định nêu trên, phòng sẽ yêu cầu TCTGBHTG phải có biện pháp khắc phục ngay những vi phạm, đồng thời yêu cầu giải trình nguyên nhân gây nên tình trạng đó;
Trong trường hợp xét thấy hoạt động của TCTGBHTG có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, có thất thoát lớn về vốn và tài sản, hoặc có tác động xấu nghiêm trọng tới các TCTD khác thì Chi nhánh có phối hợp với Chi nhánh NHNN đồng thời yêu cầu tổ chức có biện pháp chấn chỉnh kịp thời;
Mặt khác phòng đã phối hợp chặt chẽ với các phòng, bộ phận khác của Chi nhánh, đặc biệt là bộ phận kiểm tra để nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động ngân hàng của TCTGBHTG;
Như vậy, công tác giám sát của phòng được coi như một kim chỉ nam cho hoạt động của các TCTGBHTG, công tác giám sát được coi như là một công việc đi trước và tìm ra những điểm yếu, những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động Ngân hàng của TCTGBHTG và từ đó báo trước cho tổ chức này để họ biết trước được những rủi ro mà mình sắp gặp phải và cần phải khắc phục những rủi ro đó, nếu không hậu qủa của nó là vô cùng to lớn;
Tóm lại hoạt động giám sát của BHTGVN có thể coi là hoạt động đắc lực, góp phần vào việc giúp các TCTGBHTG có thể kiểm soát được rủi ro của mình;
Với nhiệm vụ như trên, chúng ta thấy rõ một điều, hoạt động của bộ phận có vai trò vô cùng quan trọng đối với cả bản thân Chi nhánh và đặc biệt là đối với TCTGBHTG.
2.3 Thực trạng của công tác giám sát từ xa của Chi nhánh đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn quản lý
2.3.1 Giám sát về việc chấp hành các quy định về pháp luật của BHTGVN
Đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi
Theo cơ chế quản lý của BHTG Việt Nam, các TCTGBHTG là bắt buộc đối với tổ chức có huy động tiền gửi cá nhân bằng Việt Nam Đồng. Do vậy số lượng các TCTD đặc biệt là QTDND mà Chi nhánh Hà Nội quản lý không phải là ít. Để thực hiện việc giám sát hoạt động của các tổ chức này công việc trước tiên mà bộ phận giám sát cần làm đó là giám sát việc đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức này;
Trong quá trình hoạt động, tuy không lâu song Chi nhánh cũng đã thực hiện một cách rất đầy đủ, nghiêm túc trong vấn đề giám sát việc đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi của các QTDND cơ sở trên địa bàn;
Với số liệu dưới đây chúng ta có thể thấy được tình hình chấp hành đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi của các QTDND cơ sở trong thời gian qua;
Bảng 3: Số QTDND cơ sở không tự giác đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi:
Đơn vị: QTDND
Qúy
Năm
I
II
III
IV
2002
*
0
1
-
2003
1
0
0
-
(Nguồn báo cáo giám sát BHTG Chi nhánh khu vực Hà Nội năm 2002-2003)
Ghi chú: (-) Không có đơn vị nào mới thành lập
(*) Chi nhánh chưa đi vào hoạt động
Với việc giám sát chặt chẽ, sự nhắc nhở kịp thời của Chi nhánh thì trong thời gian qua công tác này cũng đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Nhìn vào bảng số liệu cho thấy mặc dù trong thời gian qua có đã có một số QTDND cơ sở ra đời song đã tự giác đăng ký tham gia, điều này cho thấy các QTDND ngày càng ý thức được sự xuất hiện và tồn tại tất yếu của Bảo hiểm tiền gửi, đặc biệt là sự ra đời của Chi nhánh Hà Nội.
Giám sát việc theo dõi nộp phí
Tính từ khi ra đời và tiếp quản địa bàn quản lý từ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thì tình hình nộp phí bảo hiểm của các QTDND cơ sở cho Chi nhánh đã có bước chuyển đáng kể, từ việc theo thói quen nộp phí cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, hay nộp qua Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, hiện nay hầu hết các TCTGBHTG trên địa bàn đã nộp phí trực tiếp cho Chi nhánh Hà Nội;
Bên cạnh các QTDND chấp hành rất nghiêm quy định này thì vẫn tồn tại một số qũy vẫn nộp chậm phí;
Bảng 4: Số QTDND cơ sở nộp chậm phí:
Đơn vị: QTDND cơ sở
Qúy
Năm
I
II
III
IV
2002
-
54
5
17
2003
1
4
2
16
(Nguồn báo cáo giám sát BHTG Chi nhánh khu vực Hà Nội năm 2002-2003)
Chỉ tính riêng trong Qúy IV/2003, có tới 16 đơn vị nộp chậm phí, trong đó: ( Bảng 5):
Địa bàn
Hà nội
Bắc Giang
Bắc Ninh
Phú Thọ
Vĩnh Phúc
Hà Tây
Hòa Bình
Đơn vị
2
1
3
4
1
3
2
(Nguồn báo cáo giám sát BHTG Chi nhánh khu vực Hà Nội Qúy IV/2003)
Với kết cấu của bảng số liệu cho ta thấy số lượng QTDND cơ sở chậm nộp tiền phí cho bảo hiểm vẫn còn tương đối cao, dù Chi nhánh đã có biện pháp cảnh báo, đốc thúc các qũy nộp đúng hạn. Tuy nhiên vẫn có nhiều qũy không chỉ vi phạm một lần nộp phí chậm mà còn nhiều lần vi phạm. Qua tìm hiểu cán bộ Chi nhánh phát hiện thấy có tình trạng này là do cả nguyên nhân khách quan( dịp nộp phí vào cuối năm tài chính, chậm trễ do bưu điện, chuyển nhầm đơn vị, khó khăn về tài chính…) lẫn chủ quan ( thái độ của cán bộ, ban lãnh đạo của các quỹ…)
Cần phải nhận thấy rằng đối với các nguyên nhân chủ quan nêu trên thì BHTG nên có những biện pháp vừa mền dẻo nhưng đúng luật nhanh chóng chấm dứt tình trạng này.
Về mức phạt đối với trường hợp nộp phí chậm, hiện nay Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang tính đồng loạt theo công thức:
Số tiền phạt = 0.001 số tiền nộp chậm số ngày nộp chậm;
Giám sát về việc nộp báo cáo thời kỳ
Theo định kỳ mỗi đơn vị cần phải gửi báo cáo cho BHTG theo đúng quy định. Nếu trong trường hợp mà TCTGBHTG gửi báo cáo chậm hoặc là gửi báo cáo thiếu, hoặc không gửi báo cáo thì đơn vị đó coi như đã vi phạm quy định về gửi báo cáo của BHTG Việt Nam;
Ngay từ khi mới khai trương, học tập kinh nghiệm của các Chi nhánh BHTG ra đời trước ( cụ thể là Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), Chi nhánh Hà Nội đã có công văn hướng dẫn cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế của các TCTGBHTG trên địa bàn, nên từ chỗ có thói quen không nhất thiết phải gửi báo cáo cho BHTG Việt Nam thì ngay từ Quý II/2002 đa số các TCTGBHTG khu vực đã gửi báo cáo cho Chi nhánh;
Bảng 6: Số báo cáo nộp chậm trong năm 2003
Đơn vị: Số báo cáo
Quý
I
II
III
IV
Số lượng
213
135
224
224
(Nguồn báo cáo giám sát BHTG Chi nhánh khu vực Hà Nội năm 2002-2003)
Qua tìm hiểu, được biết hầu hết các thông tin về TCTGBHTG mà BHTG Việt Nam nói chung và Chi nhánh khu vực Hà Nội nói riêng hiện nay có được đều qua các báo cáo nhận được từ các đơn vị TGBHTG, nhưng số lượng các báo cáo nhận được còn tương đối chậm, thậm chí còn liên tục chậm. Để giải quyết tình trạng này Chi nhánh đã gửi công văn trực tiếp xuống các quỹ, các cán bộ được phân công theo dõi đã thường xuyên liên lạc điện thoại, xuống trực tiếp đôn đốc( qua kiểm tra trực tiếp), đồng thời cũng đã có công văn đến Chi nhánh NHNN các Tỉnh, Thành phố đề nghị phối hợp cùng đôn đốc, nhắc nhở các TCTGBHTG này chấp hành đúng quy định của pháp luật. Song bên cạnh các đơn vị vi phạm đã có biện pháp nhanh chóng gửi báo cáo cho Chi nhánh thì tình trạng nộp báo cáo chậm theo quy định của BHTGVN vẫn diễn ra;
Những vi phạm này cũng có nguyên nhân của nó, về mặt khách quan đó là do đơn vị chưa làm báo cáo kịp trong những trường hợp nhầm lẫn về số liệu kế toán hoặc do kênh truyền dẫn thông tin ( gửi qua chi nhánh NHNN) hoặc do sự chậm trễ của bưu điện. Bên cạnh đó còn có những đơn vị cố tình chậm trễ không gửi báo cáo cho Chi nhánh mặc dù cán bộ giám sát đã nhắc nhở trực tiếp.
Về khía cạnh này, tôi thấy đối với các tổ chức vi phạm, đặc biệt là vi phạm nhiều lần và liên tục cần có một cơ chế xử phạt hành chính, vì cơ chế xử phạt này sẽ có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao ý thức chấp hành đối với các tổ chức tham gia BHTG.
Giám sát việc tính và nộp phí
Việc tính phí bảo hiểm hiện nay ở Việt Nam được tính theo hàng qúy với tỷ lệ 0.15% trên số dư tiền gửi bình quân bằng VND của qũy;
Công thức tính phí bảo hiểm tiền gửi như sau:
Trong đó:
P là số phí bảo hiểm tiền gửi mà TCTGBHTG phải nộp
So là số dư tiền gửi được bảo hiểm đầu kỳ thu phí
S1 là số dư tiền gửi được bảo hiểm cuối tháng thứ nhất của kỳ thu phí
S2 là số dư tiền gửi được bảo hiểm cuối tháng thứ hai của kỳ thu phí
S3 là số dư tiền gửi được bảo hiểm cuối tháng thứ ba của kỳ thu phí
Trong thời gian qua thì hầu hết các TCTGBHTG đã tính và nộp phí tương đối đầy đủ theo quy định, điều đó cho thấy các đơn vị này đã có sự quan tâm, chú trọng tới việc bảo hiểm khoản tiền gửi tại đơn vị. Tuy nhiên, xuất phát từ việc BHTG là hình thức khá mới mẻ đối với hầu hết các tổ chức kinh doanh tiền tệ tại Việt Nam nên việc chấp hành quy định này vẫn còn nhiều vướng mắc, đòi hỏi Chi nhánh cần phải tư vấn cụ thể và tỷ mỉ hơn nữa cho các TCTGBHTG, thậm chí việc hướng dẫn này cần được thực hiện cả bằng văn bản lẫn việc cử cán bộ phải xuống tận cơ sở;
Việc phát hiện sai phạm trong vấn đề này cũng đã được cán bộ Chi nhánh tìm hiểu khá rõ ràng và chi tiết:
- Đối với quá trình tính phí bảo hiểm tiền gửi: Việc tính phí bảo hiểm phải dựa trên cơ sở số dư bình quân của các khoản tiền VND của các cá nhân:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn;
+ Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân;
+ Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia BHTG phát hành;
Còn đối với các loại chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu vô danh do TCTG phát hành thì không thuộc đối tượng bảo hiểm;
Mặc dù các quy định, thông tư đã nêu rõ loại tiền gửi được bảo hiểm như trên, song trong quá trình giám sát các cán bộ Chi nhánh vẫn phát hiện ra một số sai sót nhất định của các QTDND cơ sở được lập đi, lập lại như không nộp tiền phí bảo hiểm cho khoản tiền gửi của tổ chức mang tên các nhân, không nộp phí cho khoản tiền gửi của một các nhân trên 30 triệu hay các quỹ còn tính lộn số, tính sai số học, làm tròn số quá mức cho phép, không tính tiền gửi các nhân không kỳ hạn vào số dư thuộc đối tượng bảo hiểm;
Về quy định phạt nộp chậm phí, Chi nhánh đang thực hiện theo của thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 của NHNN ngày 16/3/2000 và quyết định số 76/2001/QĐ-HĐQT của BHTGVN ngày 2/10/2001, đó là Chi nhánh bảo hiểm phạt theo một trong các mức sau:
Cảnh cáo đơn vị tổ chức vi phạm lần đầu do nguyên nhân khách quan;
Phạt tiền theo mức 0.06%/ ngày trên số phí tính thiếu đối với tổ chức vi phạm lần đầu;
Phạt tiền theo mức 0.08% trên ngày trên số phí tính thiếu đối với tổ chức vi phạm lần 2;
Phạt tiền 0.1% trên ngày trên số phí tính thiếu đối với tổ chức vi phạm nhiều lần hoặc cố tình tính thiếu số phí phải nộp;
Theo quy định trên, đối với các trường hợp tính sai phí phải nộp thì các đơn vị tham gia phải nộp phạt cảnh cáo, song hiện nay Chi nhánh vẫn chưa thực hiện việc phạt theo quy định này mà việc phạt chỉ được áp dụng cho những đơn vị nộp chậm phí, còn những đơn vị tính sai phí hoặc không biết cách tính thì cán bộ Chi nhánh đã có những hướng dẫn cụ thể cho cán bộ của các tổ chức tham gia tính lại cho đúng với quy định của BHTGVN( lý do là hoạt động BHTG như đã nói rất mới mẻ đối với Việt Nam). Trong thời gian tới Chi nhánh nên tính phạt phí theo đúng quy định của Nhà nước về BHTG.
- Đối với quá trình nộp phí bảo hiểm:
Trong quá trình giám sát phát hiện thấy cả những QTDND nộp thừa phí Chi nhánh thường trừ vào quý sau. Theo tôi việc nộp phí thừa của các tổ chức tham gia BHTG ở đây cũng phải được coi như là đã vi phạm về quy định nộp phí, vì thực chất việc nộp phí thừa hầu hết là do nguyên nhân các tổ chức tham gia bảo hiểm đã tính sai phí phải nộp.
Bảng 7: Số phí các QTDND nộp thừa thiếu phí trong năm 2003
Ghi chú: (-) thể hiện số phí thiếu.
(+) thể hiện số phí thừa
Đơn vị: đồng
Qúy
Đơn vị
I
II
III
IV
Hà nội
-1.740
-57.745
+13.608
+7.962
Phú Thọ
+43.631
-22.578
+44.833
-33.610
Hà Tây
-103.345
-791989
+130.731
-6.446.823
Bắc Giang
-3.262
+7.375
+33.456
+5.360
Bắc Ninh
+75.587
+225.228
-282
+396.138
Vĩnh Phúc
-111.107
-25.635
-514
-821.936
Hòa Bình
0
-615.011
0
0
Tổng
-100.236
-792.942.572
-573.372
-446.086
(Nguồn Báo cáo giám sát BHTG khu vực Hà nội năm 2003)
Chỉ tính riêng trong năm 2003 thì số lượng đơn vị nộp phí thiếu cũng không nhỏ, mặc dù đã có sự đôn đốc, nhắc nhở của cán bộ Chi nhánh. Trong qúy II, qúy III việc nộp phí thiếu tăng cao hơn hẳn cả về số lượng đơn vị vi phạm lẫn số tiền vi phạm, sang quý IV thì đặc biệt hơn cả đó là tỉnh Hà Tây- đây là một tỉnh có số lượng QTDND cơ sở khá đông đảo vì vậy đòi hỏi Chi nhánh, đặc biệt là các cán bộ phụ trách tỉnh Hà Tây nên có những biện pháp nhắc nhở nhanh chóng, kịp thời hơn nữa;
Việc giám sát chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG là một nội dung mang tính chất hành chính đối với các tổ chức tham gia, song thiết nghĩ phải có những biện pháp xử lý hành chính như vậy thì trong công tác giám sát sau này sẽ có tác dụng thực sự, nhằm hạn chế một cách tối đa nhất những tình trạng vi phạm trên.
2.3.2 Giám sát về việc chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng
Khái quát về nguồn vốn và sử dụng vốn của các QTDND cơ sở
Để có thể nắm bắt được tình hình hoạt động của một tổ chức kinh doanh tiền tệ thì điều đầu tiên mà Tổ chức bảo hiểm cần phải biết là tổ chức đó đã huy động từ nguồn nào để thực hiện hoạt động kinh doanh. Mặt khác qua cơ cấu vốn của các QTDND ta còn thấy được cả nội dung biểu hiện cụ thể về chiến lược kinh doanh và phần nào hiểu ý đồ, năng lực điều hành của Ban lãnh đạo, xu hướng phát triển của qũy trong tương lai. Nếu tổ chức nào có cơ cấu vốn vững chắc thì thường kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng tốt các mục tiêu phát triển kinh tế;
Bảng 8: Nguồn vốn của các QTDND cơ sở
Đơn vị: triệu đồng
Qúy
Năm
Tổng nguồn vốn
TG thuộc đối tượng bảo hiểm
Vốn vay
Vốn khác
Số lượng
Tỷ lệ /VHĐ
Số lượng
Tỷ lệ /TNV
Số
lượng
Tỷ lệ /TNV
I
2003
744.196
519.875
99.29%
134.351
18,05%
38.060
5,11%
II
2002
495.484
361.539
73%
70.886
14,3%
39.232
7,9%
2003
831.068
547.334
92,98%
147.316
17,73%
40.966
4,93%
III
2002
637.563
439.844
68.99%
109.123
17,11%
88.596
13,9%
2003
919.200
558.894
85%
1.595.701
17,36%
45.585
4,96%
IV
2002
672.567
453.639
67,45%
126.569
18,82%
48.062
7,15%
2003
1.005.666
688.502
96,32%
182.420
18,14%
49.493
4,92%
(Nguồn báo cáo giám sát Chi nhánh BHTG khu vực Hà Nội năm 2002-2003)
Qua số liệu trên ta thấy, khối lượng tiền gửi tại các qũy ngày càng tăng, đặc biệt là vốn thuộc đối tượng được bảo hiểm, ở qúy đầu tiên của năm Chi nhánh mới tiếp quản là 361.539 triệu đến cuối qúy IV/2003 thì số lượng này đã tăng lên gần gấp đôi 688.502 triệu. Kết quả này có được là do nhiều nguyên nhân khác nhau:
+ Uy tín của các QTDND ngày càng tăng;
+ Khả năng phát triển kinh tế trong khu vực ngày càng cao;
…
+ Không thể phủ nhận vai trò của BHTG;
Rõ ràng rằng BHTG cũng đã góp phần vào việc giúp cho các QTDND huy động vốn được dễ dàng hơn, tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng sự ảnh hưởng của BHTG đối với huy động vốn của QTDND cũng như đối với đối tượng gửi tiền hiện nay thực sự là còn tương đối nhỏ, nhất là trong khi đối tượng khách hàng gửi tiền vào các QTDND lại hầu hết là các cá nhân, hộ nông dân ở các miền quê nông thôn nghèo. Thậm chí có rất nhiều đối tượng gửi tiền họ còn không biết BHTG là gì và tác dụng của nó là như thế nào đối với họ. Nói như vậy cũng có nghĩa là công tác tuyên truyền BHTG còn nhiều việc cần phải làm hơn nữa và cần thiết phải làm như thế nào để trong thời gian không xa BHTG có thể dần đi vào tâm niệm và có vị trí trong công chúng. Chúng ta cũng cần đặc biệt quan tâm đến đối tượng khách hàng của các QTDND, mặc dù các khách hàng này có khối lượng tiền gửi không lớn song số lượng người gửi lại khá đông, hơn nữa đây lại là những đối tượng mà BHTGVN hết sức quan tâm vì nó phù hợp với mục tiêu của BHTG là bảo vệ quyền, lợi ích của những người gửi tiền nhỏ, ít thông tin. Chỉ khi hầu hết những người gửi tiền tại các QTDND biết đến BHTGVN thì khi đó mới có thể nói rằng BHTG thực sự đã đi vào dân chúng, từ đó họ mới có ý thức tin tưởng vào việc những đồng tiền mà họ làm ra từ mồ hôi công sức của mình sẽ được bảo vệ một cách thực sự nếu được bảo hiểm và cũng chỉ khi đó BHTGVN mới thực sự trở thành một tổ chức không thể thiếu được đối với người gửi tiền cũng như đối với nền kinh tế.
Về sử dụng vốn của các QTDND cơ sở: Cho thấy hầu hết tỷ lệ nguồn vốn huy động của các qũy đều được sử dụng với mục đích cấp tín dụng theo đúng mục đích của việc thành lập các QTDND cơ sở (mục tiêu hỗ trợ cùng phát triển các thành viên trong qũy), thể hiện qua: Việc cho vay của các qũy trong thời gian vừa qua chủ yếu là cho vay các thành viên, ví dụ vào quý I/2003 tổng tài sản của các QTDND trên địa bàn là 744.296 triệu đồng, trong đó :
+ Cho vay thành viên là 637.450 triệu;
+ Cho vay khách hàng không phải là thành viên là 106.746 triệu đồng;
Ngoài ra trong quá trình phân tích cán bộ giám sát cũng cần phải quan tâm đến những hiện tượng giảm đột biến về tiền gửi, tài sản có khác tăng quá cao. Những vấn đề này tưởng như rất đơn giản, nhưng cũng chính từ điều đó dễ đưa các TCTD đến chỗ khó khăn;
Chỉ tiêu giám sát:
Trong quá trình này, phòng giám sát của Chi nhánh đã chú trọng phân tích những vấn đề được coi là hết sức quan trọng đối với việc bảo đảm an toàn của tổ chức tín dụng và đã có những kết quả bước đầu:
Vốn điều lệ
Đối với các QTDND cơ sở quy định tại nghị định số 82/1998/NĐ-CP của chính phủ ra ngày 03/10/1998 thì vốn pháp định là 100 triệu VND ;
Bảng 9: Tình hình vốn pháp định của các quỹ
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Qúy
2002
2003
II
III
IV
I
II
III
IV
Tổng VĐL
23.735
30.131
31.542
33.929
39.068
41.269
43.518
VĐL/qũy
140
180
190
202
230
241
254
( Nguồn: Báo cáo giám sát BHTG chi nhánh Hà Nội năm 2002-2003)
Để phục vụ cho công tác giám sát được tốt thì người cán bộ cần phải thấy được vị trí và vai trò quan trọng của vốn pháp định trong quá trình thành lập cũng như qúa trình kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Mặc dù chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của các QTDND, nhưng VĐL có vai trò vô cùng quan trọng: nó đảm bảo cho quá trình tồn tại và hoạt động của các qũy được an toàn, hơn nữa nó còn thể hiện quy mô hoạt động của chính bản thân tổ chức. VĐL được coi như là tấm đệm để chống đỡ rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức này. Như vậy vốn điều lệ là một chỉ tiêu vô cùng quan trọng và nó không thể thiếu được trong nội dung giám sát của BHTG;
Qua số liệu trên cho thấy: VĐL tăng đều đặn hàng qúy cả về tổng số lẫn số bình quân, tốc độ tăng VĐL cao hơn tốc độ tăng số quỹ trong địa bàn phản ánh quy mô hoạt động của các qũy này đang có xu hướng tăng, hoạt động đang có chiều hướng tốt hơn, hiệu quả hơn qua đó thể hiện phần nào các quỹ đã hạn chế được rủi ro xảy ra đối với mình;
Nhận thấy rủi ro của đối tượng tham gia BHTG là một trong các rủi ro lớn nhất đối với hoạt động và sự phát triển của BHTG. Một khi tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro trong kinh doanh thì nguy cơ bị mất khả năng thanh toán nợ là tương đối lớn và khi đó thì BHTG sẽ phải đóng vai trò là một người chủ nợ đối với tổ chức tham gia sau khi đã thực hiện việc chi trả thay cho tổ chức tham gia BHTG, điều này cũng có nghĩa là rủi ro từ các tổ chức tham gia BHTG đã “chạy” sang tổ chức BHTG;
Nói như vậy cũng có nghĩa là với kết quả mà các QTDND đạt được như ở trên đã thực sự trở thành một kết quả đáng mừng cho công tác giám sát của BHTG;
Trong thời gian qua, thì việc các đơn vị tham gia bảo hiểm vi phạm quy định VĐL đã giảm rất mạnh và tính đến thời điểm hiện nay thì hầu hết các quỹ đã tuân thủ một cách rất đầy đủ quy định này.
Đây thật sự là kết quả bước đầu đáng khích lệ về ý thức chấp hành của các qũy đối với BHTG và cũng thể hiện vai trò cảnh báo của bảo hiểm đối với đơn vị này: ví dụ như một QTDND cơ sở ở Hà Tây qúy 2/2002 VĐL chỉ đạt 82,6% nhưng sau khi có sự đôn đốc, nhắc nhở của chi nhánh thì ngay qúy 3/2002 VĐL đã đạt tới 102,86 triệu đảm bảo theo quy định.
Chất lượng tài sản có
- Chất lượng tín dụng:
Giám sát nợ qúa hạn và chất lượng tín dụng chính là việc phân tích để theo dõi một cách thường xuyên, để nó không diễn biến nặng thêm và có biện pháp xử lý thích hợp. Nếu qũy tín dụng nhân dân nào có tỷ lệ NQH vượt quá 3% tổng dư nợ là phải nhắc nhở, nếu trên 10% là phải quan tâm theo dõi thường xuyên, phải báo động cho các qũy tín dụng có biện pháp chấn chỉnh trong cho vay, có biện pháp bám sát đơn vị vay để thu hồi vốn, nhằm giảm nợ quá hạn, xử lý những hành vi vi phạm của cán bộ liên quan.
Qua qúa trình giám sát của Chi nhánh, thấy rằng chất lượng tín dụng của các QTDND chi nhánh quản lý có chiều hướng ngày càng cao: nợ quá hạn thì giảm dần, trong khi nợ cho vay thì vẫn không ngừng tăng lên;
Bảng 10: Tình hình nợ quá hạn:
Quý
Năm
I
II
III
IV
2002
Tổng NQH (trđ)
-
3639
3708
3812
NQH bình quân /TDN
-
0.88%
0.7%
0.64%
2003
Tổng NQH (trđ))
1050
3833
3514
3267
NQH bình quân/TDN
0,625%
0.55%
0.47%
0.4%
( Nguồn: Báo cáo giám sát BHTG chi nhánh Hà Nội năm 2002-2003)
Như vậy, chất lượng tín dụng của các qũy đã có sự biến chuyển rõ rệt, đây là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận giám sát của Chi nhánh và NHNN tỉnh, thành phố đã tích cực đôn đốc trong thời gian qua. Sự chuyển biến tích cực này thể hiện cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối: Chỉ trong vòng hơn một năm mà tỷ lệ NQH trung bình của các qũy đã giảm hơn một nửa: Từ 0.88% xuống còn 0.4%, số lượng đơn vị có NQH cũng đã giảm hơn nhiều. Tuy nhiên, trong quá trình giám sát Chi nhánh cũng đã phát hiện những trường hợp NQH cao hơn 3% theo quy định của pháp lệnh Ngân hàng;
Bảng11: số QTDND vi phạm tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2003
đơn vị: QTDND
Đơn vị
I
II
III
IV
VĩnhPhúc
2
3
1
1
Phú Thọ
6
4
4
1
( Nguồn: Báo cáo giám sát BHTG Chi nhánh Hà Nội năm 2002-2003)
Theo số liệu trên thì từ qúy I/2003 đến qúy IV/2003 chỉ có 2 tỉnh là có NQH lớn hơn quy định đó là Phúc Thọ và Vĩnh Phúc, cá biệt có những qũy thường xuyên vi phạm tỷ lệ này.
Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn
Bằng công tác thực tế trên địa bàn, chuyên viên giám sát nhận thấy rằng hiện nay số lượng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở có tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn là rất ít: Trong xuốt các qúy từ Q2 đến Q4/02 về cơ bản là không có một đơn vị nào sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn;
Đến quý 1/03 đã có đơn vị sử dụng tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Song cũng ngay ở qúy này đã có đơn vị vi phạm, điều đáng chú ý là tỷ lệ vi phạm của các đơn vị này là khá cao;
Số đơn vị vi phạm theo quy định an toàn trong trường hợp này đều thuộc 2 tỉnh : Vĩnh Phúc và Bắc Giang;
Vào Q3 ở Vĩnh Phúc có 4 đơn vị sử dụng tỷ lệ thì cả 4 đơn vị đều vi phạm, đặc biệt có đơn vị tỷ lệ này lên tới 94%;
Qua Q4 có 18 đơn vị sử dụng thì 11 đơn vị vi phạm, tỷ lệ này cũng lên tới 90,01%;
Tuy nhiên, khi xem xét các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì phát hiện ra rằng hầu hết các đơn vị sử dụng tỷ lệ này và vi phạm lại là do sử dụng nguồn vốn ưu tiên nhận từ Chính phủ hoặc nhận cho vay trung và dài hạn từ TCTD khác;
Trên thực tế cho thấy với những khoản vay theo uỷ thác lại chưa được phản ánh một cách chi tiết và đầy đủ về số lượng trong bảng cân đối kế toán. Từ đó dẫn đến khó khăn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0310.doc