Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường, mọi quyết định đưa ra của doanh nghiệp đều có tác động quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Do vậy, để đứng vững trên thị trường, mỗi doanh nghiệp nói chung và các cá thể nói riêng phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn luôn phàn nàn về sự bất bình đẳng nhưng cũng phải tự nhìn nhận lại chính bản thân hoạt động của mình, để khi các quan điểm của Ngân hàng và của doanh nghiệp gặp gỡ nhau, đó là: doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, có hiệu quả, đáp ứng được những điều kiện tối thiểu của Ngân hàng và Ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay. Bởi Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp dạng đặc biệt, cũng hoạt động kinh doanh để sinh lời và đảm bảo an toàn cho mình. Vì vậy, đứng trên một góc độ nào đấy cả Ngân hàng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải "hiểu rõ" nhau hơn khi đó Ngân hàng vừa có thể cho vay để tăng dư nợ và có hiệu quả đồng thời doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có đủ vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp, Ngân hàng cùng phát triển.

doc78 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HNN và điều kiện hoạt động kinh doanh của SGDI và đặc điểm của khách hàng vay. 2.2.1.5. Các biện pháp bảo đảm tiền vay * Cho vay có bảo đảm bằng tài sản - Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng - Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba - Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay * Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản - Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của Chính phủ - Cho vay cá nhân, hộ gia đình nghèo có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội. 2.2.2.Thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHĐT& PTVN Cho vay là một hình thức tín dụng và với kinh tế ngoài quốc doanh hình thức cấp tín dụng chủ yếu của SGD cũng là cho vay. Vì vậy, việc tìm hiểu tình hình hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD được thực hiện thông qua hoạt động cho vay đối với thành phần này. Để thấy được thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD cần xem xét tình hình tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh dựa trên các con số cụ thể sau: 2.2.2.1 Tình hình cho vay NQD . Trong những gần đây, hoạt động cho vay của SGD đối với kinh tế ngoài quốc doanh đang tăng lên chứng tỏ SGD đã chú trọng đến thành phần này.Tuy nhiên, sự tăng lên về doanh số cho vay không đáng kể. Có thể thấy rõ tình hình này thông qua việc phân tích các số liệu sau: Bảng 2: Doanh số cho vay NQD phân theo đối tượng khách hàng Đơnvị:triệuđồng Chỉ tiêu Năm2002 Năm2003 Năm2004 Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền % -KTQD 6213236 95,3 7375200 94,7 8169718 93,1 -KTNQD 306424 4,7 412762 5,3 605489 6,9 +CTyTNHH 178339 58,2 262517 63,6 398412 65,8 +DNTN 65268 21,3 91220 22,1 149556 24,7 +Cácđốitượng khác 62817 20,5 59025 14,3 57521 9,5 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004 Qua bảng 2 cho thấy, doanh số cho vay giữa KTQD và KT NQD đang có chiều hướng thay đổi, doanh số cho vay KT NQD mặc dù chiểm tỷ trọng thấp hơn nhiều so với KTQD nhưng tăng cả về tương đối và tuyệt đối.Cụ thể: Tăng từ con số 306424 trđ tức 4,7% năm 2002 lên 412762 trđ năm 2003với tỷ trọng 5,3% và đạt mức 605489 trđ tức đạt 6,9% năm 2004. Sự tăng lên của tỷ trọng cho vay bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, năm 2003và năm 2004 là năm mà nền kinh tế Việt nam khá ổn định, giữ vững được mức độ tăng trưởng cao. Điều đó làm cho mức sống người dân tăng lên, chính sách kích cầu của Nhà nước đạt hiệu quả rõ rệt, nhu cầu mua sắm, sản xuất hàng hoá và tiêu dùng tăng mạnh mẽ dẫn đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bán được hàng, quay vòng vốn nhanh, tăng khả năng thanh toán và giữ vững uy tín với SGD. Từ thực tế đó, SGD cũng bắt đầu chú trọng hơn và ngày càng cho vay nhiều hơn đối với KTNQD. Thứ hai, đứng trước môi trường cạnh tranh ngày càng lớn với các NHTM trên cùng địa bàn, cùng với việc được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao nên SGD đã có những bước đột phá và mạnh dạn hơn khi cho vay đối với KTNQD. Bên cạnh đó, chất lượng thẩm định dự án vay vốn đạt hiệu quả cao, chính sách kinh tế mở cửa nhưng chưa phải là tự do hoá nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong môi trường kinh tế ít biến động hơn. SGD và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kết hợp chặt chẽ trong quá trình cho vay và thu hồi vốn, giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng phải theo sát tình hình doanh nghiệp và đôn đốc các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên, xét tổng thể KTQD vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số cho vay còn KTNQD chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn. Điều đó cho thấy rằng, KTNQD thường có những dự án thiếu tính khả thi, khả năng quản lý yếu kém, thị trường đầu ra bấp bênh nên SGD rất hạn chế cho vay. Bên cạnh đó còn những vướng mắc ở thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản. Bảng số liệu còn cho thấy cơ cấu cho vay giữa các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi rõ rệt: Doanh số cho vay đối với các công ty TNHH luôn chiếm tỷ trọng cao nhất và tăng dần qua các năm cả về số tương đối và tuyệt đối.Cụ thể: tăng từ con số 178339 (58,2%) năm 2002 lên 262517(63,6%) năm 2003 và 398412(65,8%) năm 2004.Còn doanh số cho vay đối với DNTN và các đối tượng khác luôn chiếm tỷ trọng thấp hơn mặc dù có chiều hướng gia tăng qua các năm. Điều này có thể được lí giải do một số nguyên nhân: Số lượng các công ty TNHH mọc lên như nấm, tính đến 31/12/2004,có khoảng 3250 công ty được thành lập, nhu cầu sử dụng vốn lại rất cao.Mặt khác, nước ta dang đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nên số doanh nghiệp được cổ phần hóa ngày càng nhiều, tới gần 800 doanh nghiệp. KTNQD nước ta càng ngày càng có nhu cầu về vốn lớn để mử rộng sản xuất, phục vụ không những cho nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu. Bên cạnh việc không ngừng mở rộng của KTNQD, phải kể đến một thuận lợi của SGD do có vị trí gần với các doanh nghiệp lớn,làm ăn có hiệu quả nêncó cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn ngân hàng. Một số khách hàng còn nợ quá hạn cho vay từ trước năm 2002 trở về trước tập trung ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Việc SXKD của các hộ này gặp nhiều khó khăn, một số làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ, tài sản không phát mại được. Chính vì những lý do đó mà cho vay vốn hộ sản xuất ở Hà nội gặp nhiều khó khăn, nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng tài sản thế chấp không đủ tính pháp lý để có thể dùng làm tài sản đảm bảo tiền vay hoặc dự án sản xuất kinh doanh chưa đủ sức thuyết phục. Nhu cầu vay vốn hiện nay lớn nhưng ở Hà nội, các hộ vay vốn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, tài sản thế chấp thì không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà nên đã hạn chế việc cho vay của SGD đối với đối tượng này. Nếu phân theo thời hạn thì có thể thấy doanh số cho vay đối với KTNQD thông qua bảng số liệu sau: Bảng3:Doanh số cho vay NQD phân theo thời hạn Đơnvị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền % Ngắn hạn 232882 76 321954 78 490446 81 Trung, dài hạn 73542 24 90808 22 115043 19 Tổng số 306424 100 412762 100 605489 100 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004 Bảng số liệu trên cho thấy: Doanh số cho vay ngắn hạn đối với KTNQD luôn chiếm tỷ trọng cao và liên tục tăng qua các năm.Cụ thể:tăng từ 232882 năm 2002 (76%) lên 321954 năm 2003(78%) và 490446 năm 2004(81%).Ngược lại, doanh số cho vay trung dài hạn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ là 24% năm 2002, năm 2003giảm còn 22% và năm 2004chỉ con19%. Điều này dược lí giải do một số nguyên nhân sau: Về phía KTNQD với đặc điểm là nguồn vốn nhỏ và hoạt động kinh doanh mang tính không ổn định nên thường xuất phát vốn lưu đọng lớn.Vì vậy, chủ yếu đi vay vốn ngắn hạn để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động cho việc mua sắm nguyên vật liệu, trả lương công nhân viên. Mặt khác, về phía ngân hàng, không muốn cho vay trung dài hạn do hoạt động của KTNQD hoạt động còn nhiều bất cập, ít nhiều có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng .Vì vậy, với ngân hàng, việc giảm thiểu cho vay trung dài hạn đối với KTNQD luôn gắn liền với lợi ích của ngân hàng. Điều đó không có nghĩa là kinh tế ngoài quốc doanh được "ưu ái” vay vốn trung dài hạn mà tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh vẫn chủ yếu là tín dụng ngắn hạn, với hạn mức được tính chung cho cả doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh như sau: HMTD = (Chi phí sản xuất cần thiết trong kỳ: Vòng quay vốn lưu động)- Vốn tự có và coi như tự có- Các khoản huy động khác Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần/ Tài sản lưu động dự trữ bình quân Qua quá trình áp dụng thực tế trong việc xác định hạn mức tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn phát sinh một số vướng mắc và dẫn đến cách tính trên có bất cập so với thực tế. Theo công thức trên vòng quay VLĐ dựa vào trong một số yếu tố là Tài sản lưu động dự trữ bình quân trong năm, thực tế trong kinh doanh các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải thời điểm nào dự trữ Tài sản lưu động cũng bằng nhau, mà có quý cao, quý thấp, nên hạn mức tín dụng ở công thức trên chỉ là hạn mức tín dụng bình quân trong năm. Trong khi đó mục 7 điều 3 quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo quy định 284/2002/QĐ-NHNN ngày 25/8/2002 của Thống đốc Ngân hàng có nghi "Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trong một thời gian nhất định mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng". Hoặc tại khoản 2 điều 16 quy định" cho vay theo hạn mức tín dụng là tổ chức tín dụng và khách hàng xác định đã thoả thuận theo một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chi phí sản xuất kinh doanh. Trong quá trình thực hiện xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng vay vốn theo hạn mức nếu sử dụng công thức trên (hạn mức bình quân) và quản lý hạn mức trong quy trình vay vốn thì trong những thời điểm nhất định sẽ không đáp ứng nhu cầu vốn cho đối tượng khách hàng này buộc phải điều chỉnh hạn mức tín dụng, đặc biệt là trong thời điểm nhu cầu vốn dự trữ tăng cao trong năm. 2.2.2.2.Tình hình thu nợ NQD Cùng với việc cho vay thì công tác thu nợ cũng là công việc được SGD đặt ra một cách nghiêm túc và đạt được một số kết quả khả quan. Nhìn chung, tình hình thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở SGD là tương đối cao.Có thể thấy rõ tình hình này qua bảng số liệu sau: Bảng 4:Doanh số thu nợ NQD phân theo đối tượng khách hàng Đơn vị:Triệu đồng Chỉ tiêu Năm2002 Năm2003 Năm2004 Số Tiền % Số Tiền % ST % -KTQD 5778482 95,4 6895812 94,6 7638686 93 -KTNQD 278627 4,6 393620 5,4 574954 7 +CtyTNHH 164390 59 252704 64,2 376595 65,5 +DNtưnhân 56840 20,4 88958 22,6 143769 25 +Đốitượngkhác 57397 20,6 51997 13,2 54620 9,5 Tông cộng 6057109 100 7289432 100 8213640 100 Nguồn: Báo cáo tín dụng 2002-2004 Cụ thể: Doanh số thu nợ KTNQD mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ so với KTQD song lại tăng dần về tương đối qua các năm, tăng từ 278627 Trđ(năm2002) lên 393620 Trđ(năm 2003), và 574954 Trđ (Năm 2004).Điều này cho thấy hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều vay trả sòng phẳng, chỉ có một số ít phải gia hạn nợ và chủ yếu chỉ là gia hạn nợ theo từng thời điểm bởi uy tín là tiêu chí hàng đầu để các đối tượng này tiếp cận vốn ngân hàng nên họ phải cố gắng tối đa trong việc hoàn trả nợ ngân hàng đúng hạn, nếu không sẽ sớm bị loại khỏi cuộc chơi. Bảng số liệu còn cho thấy daonh số thu nợ tăng dần về tỷ trọng đối với Cty TNHH, DN tư nhân và giảm dần với các đối tượng khác.Cụ thể:năm 2002,thu nợ đối với CTy TNHH chiếm tỷ trọng 59% thì sang năm 2003, con số này tăng lên 64,2% và năm 2004 là 65,5%; Đối với DN tư nhân cũng vậy,tăng từ 20,4% năm 2002 lên 22,6% năm 2003 và 25% năm 2004;Còn đối với các đối tượng khác, giảm từ 20,6% năm 2002 xuống 13,2% năm 2003 và chỉ còn 9,5% năm 2004.Điều này có thể được lí giải do ngân hàng có quan hệ chủ yếu với các Cty TNHH, DN tư nhân do họ vay trả khá sòng phẳng, còn đối với các đối tượng khác thì lại rất dè dặt do họ còn nhiều yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên khả năng trả nợ ngân hàng rất kém. Như vậy, để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh thì ngân hàng trang bị đầy đủ những thông tin về các đối tượng để kịp thời xử lí các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là trong hoạt động quản lí các khoản vay. Nếu phân theo thời hạn, có thể thấy tình hình thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh của SGD qua việc phân tích bảng số liệu sau: Bảng 5: Doanh số thu nợ NQD phân theo thời hạn Chỉ tiêu 2002 2003 2004 ST % ST % ST % Ngắn hạn 213150 76,5 307024 78 462838 80,5 Trung, dài hạn 65477 23,5 86596 22 112116 19,5 Tổng số 278627 100 393620 100 574954 100 Nguồn:Báo cáo tín dụng 2002-2004 Bảng số liệu cho thấy doanh số thu nợ ngắn hạn tăng dần qua các năm cả về số tương đối và tuyệt đối.Cụ thể:tăng từ con số 213150trđ tương ứng với 76,5% năm 2002 lên 307024trđ tương ứng với 78% năm 2003và lên tới 462838trđ,chiểm tỷ trọng 80,5% năm 2004.Còn doanh số thu nợ trung và dài hạn mặc dù tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm dần về số tương đối qua các năm.Cụ thể:Doanh số thu nợ trung-dài hạn giảm từ 23,5% năm 2002 xuống còn 22% năm 2003 và 19,5% năm 2004.Điều này có thể được lí giải do mấy năm qua, doanh số cho vay ngắn hạn của SGD liên tục tăng về tương đối so với doanh số cho vay trung-dài hạn. Mặt khác, đối với kinh tế ngoài quốc doanh thì khả năng trả nợ ngắn hạn cao hơn trung- dài hạn. Như vậy,SGD cần có những biện pháp nhằm giữ được khách hàng, vừa thực hiện tốt công tác thu nợ, đặc biệt là thu nợ trung-dài hạn. 2.2.2.3. Tình hình Dư nợ NQD Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, dư nợ là chỉ tiêu hàng đầu mà bất kỳ một Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải quan tâm. Dư nợ phản ánh số tiền khách hàng còn nợ tại thời điểm 31/12. Hiện nay, các Ngân hàng quốc tế nói chung và Ngân hàng Việt Nam nói riêng đều dùng chỉ tiêu dư nợ phản ánh quy mô của tín dụng, qua đó phần nào phản ánh chất lượng tín dụng.Có thể thấy tình hình dư nợ đối với KTNQD tại SGD qua việc phân tích các bảng số liệu sau: Bảng 6: Tình hình dư nợ NQD phân theo thời hạn Đơnvị:triệu đồng Dư nợ 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 Số tiền % Số tiền % Số tiền % - Ngắn hạn - Trung, dài hạn 169640 58065 74,5 25,5 264780 76437 77,6 22,4 410573 100726 80,3 19,7 Tổng cộng 227705 100 341217 100 511299 100 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004 KTNQD trong những năm qua chưa phải là khách hàng chủ yếu của SGD, tuy còn nhiều khó khăn nhưng dư nợ của thành phần này tại SGD liên tục tăng qua các năm; trong đó, doanh số dư nợ ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn và tăng dần qua các năm so với dư nợ trung-dài hạn.Cụ thể: doanh số dư nợ NQD tăng từ con số 227705 trđ thời kỳ 31/12/2002 lên 341217trđ năm 2003 và lên tới 511299trđ năm 2004; trong đó: doanh số dư nợ ngắn hạn tăng từ 169640trđ tương ứng 74,5% năm 2002 lên 264780trđ năm 2003 tương ứng 77,6%, năm 2004 tăng lên 410573trđ tương ứng với 80,3%; Doanh số dư nợ trung và dài hạn mặc dù có tăng tuyệt đối nhưng lại giảm tương đối qua các năm. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: - SGD đang trong giai đoạn đầu chuyển từ hình thức hoạt động cấp phát theo chỉ tiêu Nhà nước sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Do vậy, SGD chưa thực sự mạnh dạn cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Những vướng mắc về thủ tục pháp lý cũng như những điều kiện vay vốn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã làm cho việc cho vay vốn đối với thành phần này mang tính rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp và việc phát mại tài sản cũng gặp nhiều khó khăn. - Bên cạnh đó những hạn chế này còn xuất phát từ chính bản thân kinh tế ngoài quốc doanh mà vấn đề vướng mắc nhất là hiệu quả hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, tính khả thi, hiệu quả của từng dự án của khu vực này còn thấp chưa tạo ra được sự thuyết phục đối với Ngân hàng. -Hơn nữa, hoạt động của KTNQD chưa đạt hiệu quả cao, đa số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng chất, xuất hiện nhiều công ty “ma”. Bên cạnh đó là sự quản lý yếu kém, quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu mang tính chất “gia đình”, việc hạch toán kế toán chưa đúng quy định, chưa mang tính đồng bộ, khoa học. Những doanh nghiệp có đủ điều kiện thế chấp vay vốn chẳng hạn thì khi vay được vốn họ không muốn cho cán bộ kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn của họ. Mặt khác, các doanh nghiệp này cũng không muốn thế chấp tài sản để vay vốn, họ chỉ muốn vay vốn dựa vào tình hình tài chính và số tiền sẽ thu được trong tương lai của họ nhờ bán sản phẩm.Với những vướng mắc như vậy, quan điểm của Ngân hàng và doanh nghiệp không đồng nhất với nhau nên việc cho vay vốn càng gặp khó khăn. -Từ nhiều năm nay, ở nước ta cho vay chủ yếu được thế chấp bằng nhà cửa, quyền sử dụng đất đai. Cơ sở để thế chấp quyền sử dụng đất đai là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng hiện nay việc cấp giấy chứng nhận còn chưa rõ ràng nhất là ở nông thôn việc giao đất cho xã viên tiến hành chậm, số hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ đạt 46%, điều đó gây khó khăn nhiều cho người vay vốn. -KTNQD thường chỉ được vay vốn ngắn hạn, còn vốn trung dài hạn rất ít. Tuy nhiên, không thể phủ nhận doanh số cho vay trung dài hạn luôn chiếm tỷ trọng cao ở SGD. Một số dự án được vay trung hạn và chiếm doanh số lớn trong tổng doanh số cho vay của khu vực này. Là một NHTM quốc doanh có uy tín, có quy mô tương đối lớn so với các NHTM khác nên SGD vẫn luôn duy trì và phát huy những thế mạnh của mình. Bên cạnh cho vay bằng VNĐ, SGD cũng đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng việc cho vay ngoại tệ ngắn hạn và trung hạn. Nguyên nhân dẫn đến việc cho vay dài hạn của KTNQD tại Sở giao dịch còn kém bởi lẽ họ không đảm bảo được các điều kiện vay vốn. Tỷ lệ dự án không được vay vốn do không đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết là không nhỏ, một số điều kiện mà các doanh nghiệp thường không thoả mãn được là: - Không bảo đảm vốn tự có bằng 30% tổng vốn đầu tư vào dự án - Thiếu tài sản thế chấp với đầy đủ giấy tờ hợp lý. - Tổ chức hạch toán không đúng theo pháp lệnh hiện hành. -Trình độ lập dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn kém, số liệu thiếu chính xác hơn nữa kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần hay biến động, kinh doanh không ổn định. Do vậy, SGD cũng thận trọng khi cho vay đối với thành phần này. 2.2.3.Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI-Ngân hàng DDT&PTVN. 2.2.3.1.Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Như đã đề cập ở trên, tỷ lệ này phản ánh khả năng đảm bảo an toàn cho các khoản rủi ro dự đoán của tổ chức tín dụng.Trong điều kiện hạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam,phần lớn các khoản rủi ro dự đoán đều được tập trung chủ yếu trong hoạt động cấp tín dụng.Vì vậy, tỷ lệ này gián tiếp cho thấy khả năng đảm bảo an toàn cho các khoản rủi ro dự kiến hoạt động tín dụng. Đối với SGD, tỷ lệ này năm 2002 là khoảng 2,3%,năm 2003 là 3%, đến năm 2004, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 3,2%.Điều này phản ánh khả năng tự đảm bảo trong khắc phục rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng của SGD-NHĐT & PTVN còn hạn chế. Nguyên nhân chính là do nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng là quá thấp và chưa tương xứng với sự phát triển quy mô hoạt động của Ngân hàng hiện đại theo thông lệ quốc tế(đây là tình trạng chung của các NHTM hiện nay).Đồng thời, nó cũng cho thấy, về mặt vĩ mô, tổng thể hoạt động của ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.Tuy nhiên, thực hiện quyết định 149QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu lại ngân hàng,SGD đã tiến hành rà soát và đánh giá lại các tiềm ẩn rủi ro để xử lí dứt điểm làm trong sạch bảng tổng kết tài sản,tiến dần dến mô hình ngân hàng hiện đại. 2.2.3.2.Tình hình nợ quá hạn Sự phát triển của Ngân hàng được đánh giá qua việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Nợ quá hạn là một chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất lượng tín dụng và cơ sở để nhìn nhận và tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng. Tình hình nợ quá hạn của Sở giao dịch được thể hiện qua bảng sau: Bảng 7:Tình hình nợ quá hạn qua các thời kỳ Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Số tiền 1.Dư nợ -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 227705 169640 58065 341217 264780 76437 511299 410573 100726 2.Nợ quá hạn -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 563 441 122 754 609 145 951 780 171 3.NQH/DN (%) -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 0,26 0,21 0,23 0,19 0,19 0,17 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004 Qua bảng trên cho thấy, tỷ lệ nợ quá hạn trên Tổng dư nợ của KTNQD chiếm tỷ lệ rất thấp và giảm dần qua các năm, chủ yếu là nợ quá hạn ngắn hạn.Cụ thể: tỷ lệ NQH/DN ngắn hạn đạt mức 0,26 % năm 2002 giảm xuống còn 0,23 % năm 2003 và 0,19 % năm 2004; Còn NQH/DN trung-dài hạn chiếm tỷ trọng thấp hơn, năm 2002 là 0,21%, năm 2003 giảm xuống còn 0,19% và chỉ còn 0,17% năm 2004. Điều này chứng tỏ rằng thành phần này vay trả khá sòng phẳng, hoạt động có hiệu quả hơn. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau: -Một phần do quan điểm của SGD cho rằng, những doanh nghiệp ngoài quốc doanh nào có nợ quá hạn thì uy tín cho vay sẽ bị giảm sút và thời gian tiếp theo sẽ không còn được tiếp tục vay vốn. Vì vậy, thời gian qua, các doanh nghiệp đến vay vốn ở SGD không nhiều nhưng đó là những doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, tạo được niềm tin đối với SGD. - Cùng với chất lượng thẩm định của cán bộ ngày được nâng cao và thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, được sự cộng tác của cả phía doanh nghiệp cũng như các bộ phận khác trong SGD. Do đó, tỷ lệ nợ quá hạn đang giảm dần, nợ quá hạn chỉ xảy ra ở những hộ, cá nhân vay tiêu dùng. Đây là dấu hiệu đáng mừng thể hiện những cố gắng vượt bậc trong công tác thu nợ đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD. 2.2.3.3.Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD. Nếu như với Nợ quá hạn thông thường, ngân hàng có thể giúp đỡ doanh nghiệp ổn định hoạt động bằng cách gia hạn nợ hay tài trợ tín dụng giúp doanh nghiệp vượt qua rủi ro thì với nợ khó đòi lại gây ra rủi ro cho ngân hàng, có thể dẫn đến trường hợp ngân hàng bị mất trắng vốn bởi nợ khó đòi có thể do nhiều nguyên nhân như:Có thể do doanh nghiệp làm ăn yếu kém rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, đổ vỡ phá sản do trình độ cán bộ còn hạn chế,... Như vậy có thể coi Nợ khó đòi là một trong những chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lượng tín dụng là tốt hay xấu.Có thể thấy rõ chỉ tiêu này qua việc phân tích bảng số liệu sau: Bảng 8.Tình hình Nợ khó đòi NQD qua các thời kỳ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Số tiền 1.Dư nợ -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 227705 169640 58065 341217 264780 76437 511299 410573 100726 2.Nợ khó đòi -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 239 187 52 299 238 61 388 328 60 3.NKĐ/DN (%) -Ngắn hạn -Trung- dài hạn 0,11 0,09 0,09 0,08 0,08 0,06 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004 Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ NKĐ/DN chiếm tỷ trọng rất thấp và giảm dần qua các năm về tương đối, tỷ lệ này đối với tín dụng ngắn hạn lớn hơn so với tín dụng trung-dài hạn. Cụ thể: giảm từ tỷ trọng 0,09% năm 2002 xuống còn 0,08% năm 2003 và đến năm 2004, chỉ còn 0,06% ; đối với tín dụng ngắn hạn, năm 2002, tỷ lệ này là 0,11%, giảm dần trong năm 2003 chỉ còn 0,09% và năm 2004 chỉ còn 0,08%.Qua đó cho thấy, mặc dù Nợ khó đòi vẫn còn nhưng với con số rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối cũng phần nào cho thấy tính sòng phẳng của kinh tế ngoài quốc doanh là tương đối. Điều này có thể dược lí giải bởi một số nguyên nhân sau: Khác với kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh muốn tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì một tiêu chí hàng đầu đó là tạo dựng uy tín đối với ngân hàng thông qua việc trả vay đúng hạn.Tuy nhiên, không thể tránh khỏi có một số doanh nghiệp do nhièu nguyên nhân chủ quan,khách quan mà rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán . Đứng trước thực trạng đó đồi hỏi SGD cần tìm mọi biên pháp làm giảm tỷ lệ này xuống tới mức tối đa có thể nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Chất lượng tín dụng tại SGD không chỉ được đánh giá qua các con số mang tính định lượng mà còn thể hiện phần nào qua các chỉ tiêu khác.Đó là việc triển khai tốt công tác quản trị điều hành, chiến lược phát triển phù hợp, quy trình nghiệp vụ khoa học,đảm bảo quản lí chặt chẽ quá trình cấp tín dụng, đã tạo lập uy tín vỡi nhiều khách hàng.Tuy nhiên, ngoài những mặt đạt được, việc hoạt động tại SGD vẫn không tránh khỏi những bất cập.Đó là sự hạn chế về trình độ, nghiệp vụ, cũng như còn lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật cần phải khắc phục. Tóm lại,thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, qua các con số cụ thể phần nào cũng đã phản ánh rõ tình hình tín dụng cũng như chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD.Bên cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại một số hạn chế nhất định cần được xem xét lại để có những giải pháp phù hợp,đúng hướng. 2.3.Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh 2..3.1. Những kết quả đạt được. Trong hai năm 2003 và 2004nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc, chặn được đà giảm sút, đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá. Chính phủ đã từng bước có những điều chỉnh về chính sách nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, trong đó có các Ngân hàng thương mại và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Song bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội vẫn bộc lộ những yếu kém làm ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế. Thêm vào đó, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng thương mại hiện nay đều nhận thức rằng khu vực ngoài quốc doanh là hướng ngỏ đầy tiềm năng cho việc chiếm lĩnh thị phần tín dụng. Đến nay, dù gặp nhiều khó khăn trong việc cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh nhưng SGD đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần này. -Doanh số cho vay,dư nợ và hoạt động thu nợ đối với KTNQD ở SGD đang có chiều hướng tăng cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Ngày càng thu hút nhiều hộ sản xuấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0515.Doc
Tài liệu liên quan