MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . 1
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦACHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐẾN
NỀN KINH TẾ . 5
1. Cơ sở lý luận về chính sách lãi suất . 5
1.1. Lãi suất . 5
1.1.1. Định nghĩa và phân loại lãi suất . 5
1.2. Chính sách lãi suất của NHTW . 10
1.2.1. Khái niệm chính sách lãi suất . 10
1.2.2. Mục tiêu của chính sách lãi suất . 10
1.2.3. Công cụ và cơ chế truyền dẫn . 12
2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển kinh tế 14
2.1. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến lạm phát . 14
2.2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư 15
2.3. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu . 16
2.4. Tác động của lãi suất đến phân bổ nguồn lực . 17
3. Bài học kinh nghiệm: Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế . 18
3.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC)18
3.2. Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế . 18
Chương II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 2002 ĐẾN NAY . 23
1. Vài nét về chính sách lãi suất năm 2000 - 2001 . 23
2. Thực trạng tác động chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển kinh tế
Việt Nam từ 06/2002 đến nay . 25
2.1. Chính sách lãi suất giai đoạn 2002 - 06/2007 . 25
2.1.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2002 – 06/2007 . 25
2.1.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 2002-06/2007 . 26
2.1.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 28
2.2. Giai đoạn nửa sau 2007 đến nửa đầu 2008 (07/2007 - 06/2008) . 31
2.2.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2007 – 06/2008 . 31
2.2.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2007 -06/2008 . 32
2.2.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 33
2.3. Giai đoạn nửa sau 2008 đến nửa đầu 2009 (07/2008 - 06/2009) . 37
2.3.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2008 – 06/2009 . 37
2.3.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2008 – 06/2009 . 38
2.3.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 39
2.4. Giai đoạn cuối 2009 – 6 tháng đầu năm 2010 (07/2009 – 06/2010) . 43
2.4.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2009 – 06/2010 . 43
2.4.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2009 – 06/2010 . 44
2.4.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 46
3. Đánh giá chung về tác động của chính sách lãi suất đến ổn định và phát
triển kinh tế ở Việt Nam từ2002 đến nay . 50
3.1. Những kết quả đạt được . 50
3.2. Những tồn tại và hạn chế . 51
3.3. Nguyên nhân những tồn tại và hạn chế . 53
Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . 56
1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và thế giới 2010 - 2015 . 56
1.1. Dự báo tình hình kinh tế thế giới 2010 - 2015 . 56
1.2. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam 2010 – 2015 . 57
2. Mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm 2015. 60
3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định
vàphát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay . 61
3.1. Giải pháp trước mắt, điều hành chính sách lãi suất khôi phục kinh
tếthời kỳ hậu khủng hoảng . 61
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất trong dài hạn . 66
3.2.1. Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính
dài hạn . 66
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh
hoạt vàkịp thời . 72
3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác . 81
KẾT LUẬN . 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 85
PHỤ LỤC . 88
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3780 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quý III/2009 nền
kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa thật sự chắc chắn và không
đồng đều ở các khu vực. Quý I/2010 chứng kiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu là 5%29.
Tuy nhiên những lo ngại về khủng hoảng tài chính và nợ công ở các nước EU đã gây ra
những lo ngại về suy thoái kép ở khu vực này. Thương mại và luồng vốn quốc tế giảm
nhưng có xu hướng tăng dần. Cho đến cuối tháng 9 năm 2009, lạm phát trên toàn thế
giới vẫn ở mức thấp, một số nước thậm chí còn rơi vào thiểu phát.Sau đó, lạm phát có
dấu hiệu tăng dần ở hầu hết các quốc gia, giá cả hàng hóa tăng cùng với đà phục hồi
kinh tế.
Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu tốt hơn so với
nhiều nước khác. GDP tăng 5,32% trong năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%19.
Đà tăng này được tiếp tục duy trì trong hai quý đầu năm 2010 với dự đoán GDP tăng
6,16% so với cùng kỳ20. Động lực tăng trưởng kinh tế và niềm tin thị trường vẫn được
duy trì. Tiêu dùng cuối cùng tăng trưởng khá. Xuất khẩu 2009 giảm, nhưng đến nay tăng
trưởng xuất khẩu đã phục hồi, bằng khoảng 30% tốc độ tăng trưởng hàng năm của giai
đoạn trước khủng hoảng. Nguồn vốn FDI giảm mạnh so với năm 2008 nhưng đang có xu
hướng tăng trở lại. Lạm phát giảm xuống 6,88% năm 200919 và mặc dù có một số dấu hiệu
đáng lo ngại về khả năng bùng phát lạm phát cuối năm 2009, đầu năm 2010, nhưng cho
tới nay mức tăng CPI vẫn ở mức vừa phải. Gói kích cầu năm 2009 cộng thêm với kế hoạch
ngân sách vốn đã phình to, dẫn đến bội chi ngân sách lớn hơn nhiều so với những năm trước,
mức thâm hụt chung cho cả năm 2009 là 8,4% GDP20.
4
4
2.4.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2009 – 06/2010
Cuối năm 2009, NHNN đã điều hành linh hoạt các công cụ của CSLS, tiếp tục
nới lỏng một cách thận trọng nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua suy thoái. Từ tháng
12/2009 cho dến hết quý II/2010, CSLS được điều chỉnh theo hướng thắt chặt nhằm
ngăn chặn nguy cơ lạm phát quay trở lại và bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD.
Công cụ lãi suất
Lãi suất VND diễn biến khá phức tạp và có xu hướng tăng trong nửa cuối của
năm 2009. Trong đó lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh từ 7%/năm lên 8%/năm
(25/11/2009) và tiếp tục duy trì mức lãi suất này đến hết tháng 6/2010. Lãi suất tái chiết
khấu được tăng từ 5% lên 6%, lãi suất tái cấp vốn từ 7% lên 8%/năm (25/11/2009).
Bên cạnh đó ngày 26/02/2010 NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN
cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản
vay trung dài hạn. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia
đình của khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp vụ phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Biểu đồ 13. Lãi suất của Ngân hàng nhà nước (Nguồn: NHNNVN)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
4
5
Tiếp nối mục tiêu kích thích nền kinh tế, cuối năm 2009, NHNN tiếp tục duy trì
tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VND dưới 12 tháng ở mức
3%, 12-24 là 1%. Đến hết năm 2009, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng được duy trì
ở mức 1,2%/năm. Ngoài ra, lãi suất tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại tệ đối với các
TCTD và của kho bạc nhà nước tại NHNN cũng duy trì ở 0,1% /năm.
Ngày 18/1/2010, NHNN đã điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các
TCTD
23. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn có kỳ hạn dưới 12
tháng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp dụng
cho các NHTMNN (không bao gồm NHNN&PTNT), NHTMCP, ngân hàng 100% vốn
nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương ứng từ 7% và
3% xuống còn 4% và 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Nghiệp vụ thị trường mở
Năm 2009, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt thị trường mở với kỳ hạn, lãi suất
hợp lý để kiểm soát chặt chẽ khối lượng vốn khả dụng, tiền cung ứng, ổn định lãi suất và
đảm bảo an toàn thanh khoản của các TCTD. Bên cạnh đó NHTW cũng thực hiện hoán
đổi ngoại tệ để hỗ trợ VND cho các ngân hàng mở rộng tín dụng, đồng thời ổn định tỷ
giá và giảm bớt tình trạng mất cân đối về nguồn, sử dụng nguồn ngoại tệ trong hệ thống
ngân hàng. Số thành viên tham gia NVTTM tiếp tục tăng, tính đến cuối năm 2009 có 61
thành viên và kết thúc quý I/2010 số thành viên tham gia đã lên tới con số 63.
Số phiên giao dịch được thực hiện năm 2009 là 329 phiên, trong đó số phiên mua
chiếm 80% với 261 phiên. Tổng khối lượng trúng thầu đạt 996.980,5 tỷ đồng, xấp xỉ
mức trúng thầu của năm 2008. Tuy nhiên khối lượng mua cao hơn năm 2008 và gấp gần
9 lần khối lượng bán kỳ hạn. Bên cạnh đó, lãi suất NVTTM được điều chỉnh phù hợp
với cung cầu vốn và lãi suất cơ bản của NHNN hơn, với mức lãi suất trúng thầu bình
quân trong giao dịch mua và bán tương ứng là 7,3%/năm và 7,21%/năm.
Bước sang quý I/2010, NHNN vẫn tiếp tục nỗ lực bơm tiền qua kênh thị trường
mở, với 100 phiên mua và khối lượng giao dịch đạt 320.573 tỷ đồng. Trong tháng
2/2010, mỗi ngày NHNN hỗ trợ thanh khoảng cho các NHTM từ 12.000 – 15.000 tỷ
4
6
đồng, đồng thời nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường 2 phiên/ngày. Lãi suất hình
thành qua những phiên đấu thầu ổn định ở 8%/năm, bằng với lãi suất tái cấp vốn hiện
hành, tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 14 ngày. Tuy nhiên đến tháng 3, lượng tiền Ngân hàng
Nhà nước “bơm” qua thị trường mở liên tục giảm mạnh. Khối lượng đăng ký trong quý
I/2010 chỉ chiếm một nửa khối lượng NHNN chào mua. Từ tháng 4/2010 NHNN bắt đầu
tăng cường hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại trở lại qua nghiệp vụ thị trường
mở với lượng vốn hỗ trợ đang duy trì ở mức cao.
Trong tháng 5/2010, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức thành công 3 phiên phát hành
trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn từ 3 - 5 năm, huy động được 8.125 tỉ đồng, lãi suất
10,9%/năm trong đó đối tượng mua trái phiếu Chính phủ phần lớn là các TCTD.
2.4.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế
Tác động đến lạm phát
Tác động của các biện pháp nới lỏng tiền tệ nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế
thực hiện từ đầu năm 2009 đã làm tăng khối lượng tiền cung ứng và thúc đẩy tăng
trưởng tín dụng. TPTTT theo đó tăng liên tục qua các tháng trong năm. Tính đến ngày
31/12/2009, TPTTT (tính theo M2) ước tăng xấp xỉ 26,0% so với tháng 12/2008. Điều
này đã thúc đẩy nhu cầu vay tốn đầu tư và tiêu dùng 6 tháng cuối năm 2009. Cầu tăng
thêm cộng với sự phục hồi giá cả quốc tế và sự mất giá của tiền đồng đã gây áp lực lớn
làm tăng giá trong nước. CPI cuối năm 2009 tăng mạnh đưa CPI cả năm lên mức
6.88%
14
. CPI quý I/2010 tăng 9,6% đã làm lung lay mục tiêu lạm phát 7% năm 2010 mà
Quốc hội đưa ra. Tuy nhiên sang quý II/2010, các chính sách bình ổn giá và thắt chặt
tiền tệ đã bắt đầu phát huy tác dụng, các biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động tín dụng
nhằm kiểm soát lạm phát của NHNN đã làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại,
cung tiền giảm dần làm cho CPI bình quân tháng đã sụt giảm từ 1,35% xuống còn
0,21%
14
4
7
Biểu đồ 14. Các cân đối tiền tệ (thay đổi so với cùng kỳ, đv: %)
(Nguồn: Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 10/06/2010, tr19 –WB)
Tác động đến đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng
Việc duy trì các mức lãi suất ở mức thấp trong một thời gian dài cùng với tác
động của chính sách kích cầu năm 2009 đã khiến cho dư nợ tín dụng tăng trưởng, làm
cho nhu cầu đầu tư và sản xuất tăng mạnh. Giá các mặt hàng nguyên liệu, máy móc thiết
bị trên thế giới giảm càng khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đẩy mạnh sản xuất.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đã tăng 15,3% so với năm 2008, và bằng 42,8%
GDP. Trong đó khu vực FDI chiếm 25,7%, chỉ giảm 5,8% so với cùng kỳ.
Cuối năm 2009, sang đầu năm 2010, mặc dù NHNN đã có những biện pháp quản
lý chặt chẽ hoạt động tín dụng để hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng, khiến
cho dư nợ tín dụng giai đoạn này giảm, nhưng đầu tư trong nước vẫn không hề giảm,
ngược lại còn tăng 13,4% so với cùng kỳ. Đặc biệt khu vực FDI đã tăng 11,8%, chiếm
26,5% tổng đầu tư toàn xã hội.
Chính sách kích cầu kết hợp với xu hướng giảm mạnh của giá cả hàng hóa quốc
tế cũng giúp đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập siêu tăng mạnh trong cả bốn
quý vừa qua. Ngược lại, tiết kiệm giai đoạn này lại có xu hướng giảm.Các NHTM gặp
rất nhiều khó khăn trong huy động vốn. Mặc dù lãi suất huy động thực tế đã lên tới 12 –
13% (kể cả chi phí khuyến mại…) nhưng trong ba tháng đầu năm 2010, vốn huy động
4
8
của các NHTM và TCTD chỉ tăng 1,45% so với cuối năm trước, và bằng ½ mức tăng dư
nợ cho vay, càng tạo áp lực huy động vốn.
Việc sử dụng linh hoạt công cụ nghiệp vụ thị trường mở cuối năm 2009, đầu năm
2010 của NHNN đã giúp khắc phục khó khăn thanh khoản cho các NHTM, từng bước
điều chỉnh giảm dần mặt bằng lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị
trường, đưa mức tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm về mức ổn định hợp lý, ước tính
khoảng 10,52%. Điều này cũng xóa đi những lo ngại về lãi suất cho vay vốn quá cao
(phổ biến từ 16 – 18% trong quý I/22010) và lượng vốn tín dụng đưa ra thấp (chỉ tăng
tăng 2,95% so với cuối 2009) sẽ làm ảnh hưởng xấu, làm hạn chế sự phát triển sản xuất,
và làm giảm đầu tư. Việc tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu Chính phủ
trong tháng 5/2010 là những tín hiệu tích cực chuẩn bị cho việc hạ dần lãi suất huy động,
đồng thời kéo lãi suất cho vay đi xuống.
Tác động đến phân bổ nguồn lực
Việc tiếp tục duy trì trần lãi suất của NHNN trong một thời gian dài (đến hết ba
tháng đầu năm 2010) đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tín dụng trong nước. Lãi suất
không phản ánh được quan hệ cung – cầu trên thị trường, các TCTD tìm cách lách “trần
cho vay” bằng các khoản phí và yêu cầu phiền hà đối với khách hàng khiến việc tiếp cận
nguồn vốn đối với các doanh nghiệp là rất khó khăn. Bên cạnh đó những bất cập trong
cơ chế “lãi suất trần” đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động của các TCTD. Nguồn
vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi nhu cầu vốn vay trung – dài hạn là rất lớn,
điều này có thể làm rủi ro mất cân đối kỳ hạn vốn tăng. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng
tín dụng nóng cuối năm 2009 có thể tạo ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng tài sản và tỷ
lệ nợ xấu (tỷ lệ nợ xấu trung bình là 1,9% cuối năm 2009; của NHTMNN là 2,08%;
NHCP là 1,77%
20
).
Sau khi thông tư số 07/2010/TT-NHNN được áp dụng, lãi suất đã dần được trả về
cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn và mang lại
lợi ích cho các TCTD (đem lại doanh thu, cơ hội kinh doanh...), và cho các doanh
4
9
nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý, hiệu quả hơn…) và tăng
cường hiệu quả phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế.
Tác động đến tỷ giá và ngoại thương
Với chính sách hỗ tợ lãi suất và kích cầu sản xuất, nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh
trong năm 6 tháng cuối năm 2009. Nhập siêu tăng nhưng không được bù đắp bằng các
nguồn thu ngoại tệ khác đã kéo theo cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối trở nên căng
thẳng hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, việc duy trì mức lãi suất thấp trong thời gian dài
gây ra những kỳ vọng của thị trường là tiền đồng có thể bị phá giá đã dẫn đến tình trạng
thiếu ngoại tệ đặc biệt trầm trọng từ tháng 5 đến tháng 7, và một lần nữa vào tháng
11/2009. Những động thái trên đã gây nên áp lực đáng kể đối với tỉ giá. Tiền đồng luôn
được giao dịch ở tỉ giá sàn của biên độ giao dịch trong một thời gian dài và chênh lệch
giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỉ giá thị trường tự do tăng từ 3 – 6% tùy từng thời kỳ.
Biểu đồ 15. Sự yếu đi của tiền đồng giai đoạn cuối 2009 – đầu 2010
(Nguồn: Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 12/2009, tr16 – WB)
Từ tháng 3/2010 trở lại đây, những dấu hiệu khả quan cho thấy nguồn thu ngoại
tệ (từ kiều hối, FDI, FPI, du lịch…) đều tăng, cùng với các biện phát tăng cường xuất
5
0
khẩu và thắt chặt tiền tệ của NHNN áp lực tỷ giá đã giảm xuống, thị trường ngoại hối trở
lại tương đối ổn định.
3. Đánh giá chung về tác động của chính sách lãi suất đến ổn định và phát
triển kinh tế ở Việt Nam từ2002 đến nay
3.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, chính sách điều hành lãi suất của NHNN trong thời kỳ nghiên cứu đã
ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế vĩ mô từng giai đoạn cụ thể của nền kinh tế.
Trong thời gian vừa qua, bám sát theo diễn biến và mục tiêu kinh tế vĩ mô - tiền
tệ, NHNN đã từng bước chuyển đổi cơ chế lãi suất thỏa thuận sang cơ chế trần lãi suất
và áp dụng lãi suất thỏa thuận cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp nhằm thực
hiện lộ trình tự do hóa lãi suất. Trong đó, cơ chế trần lãi suất 150% lãi suất cơ bản thực
sự đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bình ổn lãi suất trong điều kiện lãi suất biến
động bất lợi, đặc biệt ở thời điểm (tháng 6/2008) khi mà nhu cầu vốn tín dụng tăng
nhanh, áp lực tăng lãi suất lớn, trong khi đó lại phải đảm bảo duy trì lãi suất thấp hợp lý
để ổn định vĩ mô và kích thích kinh tế.
Việc hoạch định và điều chỉnh chính sách lãi suất dần phù hợp với nguyên tắc thị
trường. Trong quá trình thực thi chính sách điều hành lãi suất, NHNN đã chú trọng tới
các yếu tố khác ngoài lãi suất thị trường như lạm phát, tỷ giá hối đoái, thanh khoản, rủi
ro, kỳ hạn và quan hệ cung – cầu vốn thị trường.
Thứ hai,các công cụ thực thi chính sách lãi suất gián tiếp bao gồm nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu bước đầu đã được sử dụng
tương đối hiệu quả.Kẻ từ tháng 5/2008 đến nay (sau khi NHNN áp dụng cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản), có thể thấy nghiệp vụ thị trường mở là công cụ được sử dụng hiệu
quả nhất, đóng vai trò như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của NHNN. Việc
điều hành công cụ thị trường mở đã được thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt trên
cơ sở theo dõi sát diễn biến vốn khả dụng, diễn biến kinh tế- tiền tệ, bám sát mục tiêu
điều hành CSTT, góp phần đáng kể vào kết quả thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát,
đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, NHNNcũng đã tích cực sử dụng
5
1
công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đóng vai trò làm lãi suất trần - sàn
trên thị trường liên ngân hàng.Khung lãi suất trên cùng với lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở được NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường vận động phù hợp với mục
tiêu của chính sách lãi suất.
Thứ ba, mục tiêu giữ ổn định lãi suất nhằm góp phần thực hiện chủ trương chống
suy giảm kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô về cơ bản đã thành công nhờ chính sách điều
hành lãi suất thận trọng.
Thông qua cơ chế dẫn truyền, các cân đối vĩ mô quan trọng của nền kinh tế đặc
biệt là tăng trưởng và lạm phát đã diễn biến theo chiều hướng tích cực mặc dù phải sau
một thời gian triển khai thực hiện, chính sách lãi suất mới phát huy tác dụng. Cho đến
nay, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu khả quan hơn.Kinh tế trong nước tăng trưởng tuy
không cao nhưng cũng nằm ở mức độ tương đối khi mà các nền kinh tế trên thế giới
thậm chí có nhiều quốc gia còn đang tăng trưởng âm hoặc rất thấp.Trong điều kiện bối
cảnh kinh tế nhiều biến động khó lường và phức tạp do chịu ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế toàn cầu thì việc sử dụng các công cụ chính sách lãi suất khi thì thắt chặt khi thì
nới lỏng cho ta thấy sự can thiệp quyết liệt của NHNN cũng như sự quyết tâm của toàn
hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát ở một con số. Ngoài ra, thị trường tài
chính tuy chưa thực sự ổn định nhưng đã khởi sắc và hoạt động của các ngân hàng có
nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục.
3.2. Những tồn tại và hạn chế
Nhìn chung, các chính sách điều hành lãi suất NHNN đưa ra đã đạt được những
thành công nhất định trong kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tài chính và góp phần
tăng trưởng suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, những tác động trái chiều của chính sách này
cũng còn ảnh hưởng không nhỏ tới các chủ thể tham gia thị trường, thông qua đó tác
động tới nền kinh tế. Những tồn tại hạn chế trong điều hành chính sách lãi suất hiện nay
như sau:
Thứ nhất, việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN còn mang nặng tính
hành chính.Trong thời gian vừa qua, mặc dù đóng vai trò là một trong những công cụ
5
2
quan trọng trong việc bình ổn và định hướng thị trường trong điều kiện kinh tế bất ổn
nhưng công cụ lãi suất cơ bản đi đôi với cơ chế trần lãi suất vẫn là công cụ can thiệp trực
tiếp đối với lãi suất kinh doanh của NHTM. Chính vì vậy mà nó không tránh khỏi những
hạn chế nhất định. Lãi suất không còn phản ánh đúng cung – cầu thị trường khi mà các
NHTM tìm cách lách luật để tăng lãi suất cho vay vào thời điểm cuối năm 2009, đầu năm
2010 là một minh chứng cho thấy lãi suất cơ bản đã mất dần tác dụng vốn có của nó là
hướng dẫn lãi suất thị trường.
Việc điều hành chính sách lãi suất còn thể hiện tính hành chính ở chỗ quyết định
của NHNN về việc tăng tính thanh khoản cho các NHTM và việc kêu gọi tinh thần trách
nhiệm của các ngân hàng (đặc biệt là NHTMQD) thường đóng vai trò rất quan trọng. Vì
thế, mặc dù trong quý I/2010, là quý mà các phương tiện thanh toán thường phải cung
ứng rất mạnh để đáp ứng nhu cầu chi tiêu bằng tiền cao trong dịp Tết nguyên đán và lãi
suất cơ bản chỉ được điều chỉnh tăng nhẹ (từ 7% - 8%), nhưng tình trạng mở rộng tín
dụng của các ngân hàng đã được kiềm chế rất mạnh, do các NHTM lo ngại không đạt
được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 25% mà NHNN đề ra.
Thứ hai, việc sử dụng các công cụ trong điều hành chính sách lãi suất vẫn còn
nhiều hạn chế, chưa chủ động và kém linh hoạt. Trong suốt một thời gian dài kể từ khi
được áp dụng lần đầu tiên (năm 2000) đến trước khi khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn
ra, lãi suất cơ bản gần như không có vai trò gì trong việc đinh hướng lãi suất thị trường.
Ngược lại, khi thời kỳ suy thoái đã đi qua, việc duy trì lãi suất cơ bản cùng trần lãi suất
trong một thời gian quá dài trong điều kiện thị trường tài chính đang từng bước tự do
hoá đã cản trở sự phát triển của các định chế tài chính, đi ngược lại nguyên tắc thị
trường.
Trong khi đó, việc thiếu nhất quán trong thực hiên CSLS cũng thể hiện ở nhiều
mặt. Sau khi đã cởi trói trần lãi suất cho vay cho các NHTM bằng quy định cho vay với
lãi suất thỏa thuận các khoản tín dụng trung và dài hạn thì NHNN vẫn giữ nguyên trần
lãi suất huy động không được vượt quá 12%. Mức trần này không đủ hấp dẫn người gửi
5
3
tiền, gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn để phục vụ nhu cầu tín
dụng.
Thứ ba, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa CSLS với chính sách kinh tế vĩ mô
khác. CSLS lả một bộ phận nằm trong CSTT và mục tiêu của CSLS nằm trong mục tiêu
chung của CSTT của mỗi quốc gia. Tuy nhiên thực trạng CSTT nói chung, CSLS nói
riêng trong mói quan hệ với CSTK thời gian qua cho thấy, mặc các chính sách này đã
được tận dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở
những tác động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. CSTT nói chung
linh hoạt hơn so với CSTK, NHNN có thể sử dụng các công cụ của CSTT nhằm điều tiết
cung tiền trong ngắn hạn, làm thay đổi lãi suất, từ đó điều chỉnh mức lạm phát, gây tác
động lên năng suất lao động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất
khó thay đổi CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế
hoạch ngân sách hàng năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với
CSTT.
Trong chừng mực nào đó, còn thiếu sự phối hợp trong quá trình điều hành hai
chính sách này, chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ
với chính sách lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các
khoản thu chi lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền
trước tác động của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ.
Từ tháng 6/2007 đến tháng 7/2008, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt để chống
lạm phát, nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm phát vì
thế không đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi.
Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì CSTK lại nới lỏng, khiến áp lực lạm phát và
lãi suất tăng.
3.3. Nguyên nhân những tồn tại và hạn chế
Thứ nhất, Năng lực điều hành của NHNN ở tầm vĩ mô chưa thật sự linh hoạt,
thích ứng kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế. Việc thu thập, phân tích thông tin
ở NHNN còn chậm. Thông tin chưa được công khai, minh bạch ở từng NHTM và ngay
5
4
cả ở NHNN hệ thống chỉ tiêu đánh giá cũng chưa đồng bộ với thông lệ quốc tế. Do đó,
NHNN thiếu cơ sở để đưa ra những dự báo và xác định khối tiền cần thiết cho nền kinh
tế.
Sự phối hợp các công cụ, các giải pháp chưa thật sự mang lại hiệu quả cao. Việc
sử dụng các công cụ của CSLS thường là đi sau những diễn biến thực tế, thường dựa
vào các dấu hiệu thị trường chứ chưa có những định hướng dài hạn có hiệu quả cũng
như các giải pháp mang tính đồng bộ.
Thứ hai, Thị trường tiền tệ chưa phát triển và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho
việc điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường. Thị trường tài chính Việt Nam đang
trong giai đoạn phát triển, song mức độ phát triển còn thấp, thị trường còn có sự phân
đoạn, vốn luân chuyển chưa thông suốt, giữa các thành viên thị trường thiếu sự gắn kết
chặt chẽ, rủi ro đạo đức nhiều... do vậy mà sự phản ứng chính sách còn méo mó, thiếu
đồng thuận. Thêm vào đó, năng lực giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý
còn hạn chế. Do vậy việc điều tiết lãi suất thị trường của NHNN là rất khó khăn.
Thứ ba, còn nhiều khó khăn trong kiểm soát cung tiền do áp lực dòng vốn từ bên
ngoài chảy vào và những đặc điểm từ bên trong. Ở các nước đang phát triển như Việt
Nam, thị trường tài chính phát triển ở mức độ thấp, việc kiểm soát lạm phát thường thực
hiện thông qua việc kiểm soát cung tiền. Tuy nhiên do nền kinh tế bị đô la hóa cao (trên
30%), ngoài nhân tố MB do NHNN điều tiết tăng lên, nguồn ngoại tệ huy động trong
dân tăng hoặc dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều cũng tác động mạnh khiến M2 tăng
lên. Do vậy, đối với nền kinh tế đôla hoá NHTƯ kiểm soát M2 sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn nhiều so với nước không bị đôla hoá.
Thứ tư, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và đồng bộ giữa Bộ Tài chính
và NHNN trong thực thi CSTK và CSLS. Khi lạm phát leo thang, CSLS được điều
chỉnh theo hướng thặt chặt thì CSTK lại tiếp tục được nới lỏng, thâm hụt ngân sách tăng
chi đầu tư phát triển mở rộng…
5
5
Việc phối hợp thiếu đồng bộ này đã hạn chế rất lớn tác động của chính sách lãi
suất, không những không kiềm chế được lạm phát mà còn gây áp lực lớn lên TTTT và
gây ra xáo trộn trong thực thi CSTT quốc gia
Chi NSNN ngày càng lớn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao khiến nhu
cầu huy động vốn của Chính phủ càng lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy
động vốn của hệ thống NHTM. Ở một số thời điểm nhất định, do nhu cầu huy động vốn
cấp thiết, các đợt phát hành trái phiếu chính phủ đã phá vỡ quy luật cung cầu của TTTT,
gây sức ép nặng nề trong việc điều hành lãi suất của NHNN. Trước năm 2000, việc lãi
suất trái phiếu chính phủ cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng gây ra nhiều khó khăn cho
hệ thống NHTM trong việc huy động tiền gửi ngân hàng, gây áp lực buộc hệ thống
NHTM phải nâng lãi suất tiền gửi, gây ra xáo trộn trong thực thi CSTT quốc gia.
Thứ năm, NHNN có mức độ độc lập thấp. Luật NHNN chưa trao đầy đủ chức
năng và thẩm quyền cho NHNN với tư cách là một NHTW. NHNN chủ yếu điều hành
khối lượng tiền cung ứng trong phạm vi được Chính phủ cho phép trong năm. Tính cam
kết của NHNN đối với các mục tiêu không cao. Hàng năm NHNN đặt ra kiểm soát lạm
phát ở mức cụ thể, nhưng trên thực tế thường không đạt được mức lạm phát đó. Nhiều
các vấn đề về tổ chức và hoạt động của NHNN được giao cho Chính phủ qui định hoặc
viện dẫn tới các qui định khác của pháp luật. Quyền hạn của Thống đốc bị chia sẻ và thể
hiện khá mờ nhạt. Khả năng điều tiết thị trường tiền tệ còn hạn chế do NHNN chưa kiểm
soát được các luồng tiền tệ trong nền kinh tế như luồng ngoại tệ, các khoản thu chi ngân
sách nhà nước, hoạt động ngân hàng của các quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính phi
ngân hàng khác.
5
6
Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI
SUẤT NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và thế giới 2010 - 2015
1.1. Dự báo tình hình kinh tế thế giới 2010 - 2015
Theo WB, GDP của các nước đang phát triển được kỳ vọng tăng trưởng gấp 2 lần
các nước có thu nhập cao mỗi năm từ năm 2010 – 201530. Tuy nhiên, những bất ổn trên
thị trường tài chính hiện nay ở các nước châu Âu có thể khiến mức tăng trưởng thậm chí
thấp hơn mong đợi. Một kịch bản khác nữa được WB đưa ra là Chính phủ các nước có
thu nhập cao, đặc b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.pdf