-Trong hệ thống tài chính, song song với hệ thống ngân hàng đã tồn
tại lâu đời với vai trò chủ yếu là kênh dẫn vốn ngắn hạn thì h ệ thống các
tổ chức đầu tư tài chính phi ngân hàng đang và sẽ trở thành một kênh dẫn
vốn dài hạn quan trọng phục vụ cho nhu cầu đầu tư của dân chúng và huy
động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Các tổ chức đầu tư này chủ yếu bao
gồm các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và bảo hiểm xã hội, và các quỹ
đầu tư tín thác.
- Thế mạnh của các tổ chức đầu tư tài chính này bắt nguồn từ khả
năng huy động vốn lớn, dài hạn, trình độ quản lý đầu tư, phân tích cũng
như đánh giá đầu tư chuyên nghiệp nhờ chuyên nghiệp hóa cao. Điều này
không chỉ tạo ra mức lợi nhuận và rủi ro tối ưu cho nhà đầu tư mà còn
giúp tăng hàng hóa cho thị trường và bảo vệ quyền lợi của nha đầu tư tốt
hơn nhờ khả năng tham gia mạnh mẽ vào quản trị doanh nghiệp mà họ
đầu tư.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn chính
vì vậy mà họ sẵn sàng mua hoặc vay tiền để mua hàng hóa tiêu dùng lâu
bền, có giá trị lớn như : mua xe, mua nhà, xây dựng, sửa chữa nhà, mua
sắm thiết bị vật dụng gia đình, hay thực hiện các kỳ nghỉ xa xỉ …. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao, thu nhập của người tiêu
dùng có khuynh hướng giảm cùng với cái nhìn bi quan hơn về nền kinh tế
khiến cho các quyết định mua sắm hàng hóa lâu bền thường không có khả
năng thực hiện hoặc bị trì hoãn, cầu của những loại hàng hóa này bị giảm
đi rất nhiều. Trong thời kỳ mở rộng các doanh nghiệp thường mở rộng sản
xuất kinh doanh, đầu tư các dự án mới chính vì vậy mà những ngành này
thường phát đạt hơn trong giai đoạn mở rộng. Nhưng cầu hàng hóa của
những nhóm ngành này cũng sẽ giảm mạnh trong giai đoạn suy thoái khi
46
các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất hoặc hạn chế triển khai các dự án đầu
tư mới.
Bằng lý do trên ta có thể lý giải sự phản ứng khác nhau của hai
nhóm ngành này trước tác động của môi trường kinh doanh. Ngoài ra ta có
thể thấy hai nhóm ngành này có mức độ nhạy cảm khác nhau đối với lãi
suất ( Interest Sensitivity ). Khi các doanh nghiệp mở rộng đầu tư họ cần
phải phải huy động vốn, do vậy lãi suất là một yếu tố cấu thành chi phí,
nên nó là một yếu tố quan trọng cần cân nhắc khi quyết định đầu tư. Khi
các cá nhân, gia đình mua nhà, mua xe hay các vật dụng có giá trị lớn họ
thường cần phải vay tiền, lãi suất là một yếu tố cần cân nhắc khi đưa ra
quyết định tiêu dùng. Chính vì vậy các công ty thuộc nhóm ngành Cylical
tương đối nhạy cảm với lãi suất. Nó thường hoạt động tốt hơn trong những
giai đoạn lãi suất thấp và gặp nhiều khó khăn trong những giai đoạn lãi
suất cao. Ngược lại các công ty thuộc nhóm Stable ít nhạy cảm hơn với lãi
suất vì chắc ít ai phải vay tiền ngân hàng để mua : Coca- cola, dầu gội
đầu hay dao cạo râu……
Nhóm cổ phiếu năng lượng ( Energy Stocks ):
Các công ty năng lượng cung cấp năng lượng cho cả nhà sản xuất
và người tiêu dùng. Các công ty năng lượng cũng chịu ảnh hưởng bởi chu
kỳ kinh doanh nhưng nó chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi xu hướng giá năng
lượng thế giới : Nhóm này bao gồm : các công ty sản xuất dầu thô, các
công ty dầu nội địa, các công ty dầu quốc tế….
Theo thống kê các công ty năng lượng thường thu được tỷ suất lợi
nhuận cao khi giá dầu tăng cao và lợi nhuận thấp hơn khi giá dầu thấp.
Ngược hầu hết các doanh nghiệp khác đều gặp rất nhiều khó khăn khi giá
nhiên liệu tăng cao, vì chi phí nhiên liệu luôn chiếm một tỷ lệ tương đối
lớn trong cơ cấu chi phí của tất cả các ngành.
Trên cơ sở các nhóm ngành như trên và sự phản ứng khác nhau của
các nhóm ngành này trước những biến động của chu kỳ kinh doanh và các
biến số vĩ mô khác. Nhà đầu tư có thể theo đuổi các chiến lược khác nhau
đối với yếu tố nhóm ngành.
Chiến lược chủ động ( Active Strategy )
47
Chiến lược chủ động đối với yếu tố thị trường được gọi là chiến lược
xoay vòng theo nhóm ( Group Rotation ), nhà đầu tư theo đuổi chiến lược
này được gọi là Group Rotator . Nhà đầu tư sẽ phân tích dự báo về triển
vọng phát triển về những yếu tố thuận lợi hay nguy cơ các ngành (
Industry ) hay nhóm cổ phiếu ( Group ). Từ đó họ sẽ điều chỉnh tăng tỷ
trọng của ngành hoặc nhóm cổ phiếu có cơ hội tăng trưởng và giảm tỷ
trọng của ngành và nhóm cổ phiếu có nguy cơ rủi ro cao . Ví dụ nếu như
có dự báo về thời kỳ mở rộng ( expansion ) của chu kỳ kinh doanh nhà
đầu tư sẽ tăng tỷ trọng của nhóm cổ phiếu chu kỳ để tăng lợi nhuận và
ngược lại nếu có dự báo về giai đoạn thu hẹp ( Contraction ) nhà đầu tư
sẽ giảm tỷ trọng của nhóm cổ phiếu Cylical và tăng tỷ trọng của nhóm cổ
phiếu ổn định nhằm hạn chế rủi ro.
Khi dự báo về xu hướng giảm xuống của lãi suất nhà đầu tư có thể
tăng tỷ trọng của nhóm cổ phiếu Cylical trong danh mục đầu tư, ngược lại
khi dự báo về xu hướng tăng lên của lãi suất nhà đầu tư sẽ giảm tỷ trọng
của nhóm cổ phiếu Cylical trong danh mục đầu tư.
Hay khi dự đoán giá dầu có khuynh hướng tăng cao, nhà đầu tư có
thể tăng tỷ trọng của nhóm các công ty năng lượng và giảm tỷ trọng của
các nhóm khác.
Chiến lược thụ động ( Passive Strategy ) :
Ngược lại nhà đầu tư nào thấy rằng mình không đủ khả năng để dự
báo về sự thay đổi của các nhóm cổ phiếu hay các ngành họ sẽ theo đuổi
chiến lược thụ động đối với nhóm ngành.
Có những nhà đầu tư thực hiện chiến lược khớp chỉ số tương đối
theo nhóm ngành, bằng cách thay vì xây dựng DMĐT hoàn toàn giống
với chỉ số như đã nêu ở phần trước, họ sẽ xây dựng DMĐT trong đó tỷ
trọng của các nhóm ngành sẽ gần tương ứng với tỷ trọng của các nhóm
ngành trong chỉ số chuẩn. Điều này sẽ làm cho sự tăng giảm của DMĐT
do yếu tố chu kỳ kinh doanh và các biến số vĩ mô khác như : lạm phát, lãi
suất, giá dầu …. Sẽ tương ứng với sự tăng giảm của chỉ số do tác động của
các yếu tố trên.
Ta có tỷ trọng phân bổ các nhóm ngành trong chỉ số S&P 500 như
sau :
48
NHĨM NGÀNH SỐ CTY
GIÁ TRỊ VỐN
HĨA TỶ TRỌNG
Energy ( Năng lượng ) 29 1,172,886 10.12%
Materials ( Vật liệu ) 31 353,032 3.05%
Industrials ( Cơng nghiệp
) 53 1,282,538 11.07%
Consumer Discretionary
( Hàng tiêu dùng lâu bền
và hàng khơng thiết yếu ) 89 1,197,648 10.34%
Consumer Staples
( Hàng tiêu dùng thiết
yếu ) 39 1,082,218 9.34%
Health Care
( Y tế và dịch vụ sức
khỏe ) 57 1,531,765 13.22%
Financials ( Tài chính ) 84 2,408,140 20.78%
Information Technology
Cơng nghệ thơng tin 78 1,810,833 15.63%
Telecommunications
Services
Dịch vụ viễn thơng 8 358,677 3.10%
Utilities ( Tiện ích cơng
cộng ) 32 388,260 3.35%
S&P 500 500 11,585,996 100.00%
Nguồn : Standard and Poor’ s
Trong các ngành trên nhóm được xếp là nhóm tăng trưởng ( growth
stocks ) bao gồm : công nghệ thông tin, y tế và dịch vụ sức khỏe, dịch vụ
viễn thông ), nhóm chu kỳ ( cylical stocks ) bao gồm : Vật liệu, công
nghiệp nặng, Consumer Diccretionary ( đây là các ngành sản xuất các
mặt hàng tiêu dùng lâu bền và có giá trị cao như xe hơi, thiết bị điện tử
cao cấp, hàng tiêu dùng hoặc dịch vụ đắt tiền, nghành công nghệ giải trí,
xuất bản… ), nhóm ổn định ( stable stocks ) gồm : hàng tiêu dùng thiết
yếu, tài chính, tiện ích công cộng.
Các nhà đầu tư có thể căn cứ theo các tiêu thức phân ngành và tỷ
trọng các ngành của chỉ số để xây dựng danh mục đầu tư của mình.
Cũng có những nhà đầu tư tùy theo mục tiêu của mình sẽ theo đuổi
chiến lược tập trung vào một ngành hay nhóm ngành nào đó. Những nhóm
ngành mà họ tập trung ưu tiên sẽ có tỷ trọng cao hơn so với tỷ trọng của
49
nhóm ngành đó trong chỉ số. Những nhóm ngành mà họ không ưu tiên sẽ
có tỷ trọng thấp hơn, còn những nhóm ngành khác có thể có tỷ trọng tương
đương hoặc chênh lệch không đáng kể
Ví dụ : Ta xem xét tỷ trọng phân bổ theo ngành Equity Growth
Portfolio do Morgan Stanley Institutional Fund quản lý, so với tỷ trọng
của các ngành trong chỉ số chuẩn của nó là Russell 1000 Growth
Ngành Tỷ trọng
của DMĐT
Tỷ trọng của
Russel 1000 Growth
Consumer Discretionary 45.73% 25.53%
Information Technology 17.74 % 21.73%
Health Care 11.18% 19.56%
Financial 10.06% 8.05%
Energy 7.91% 3.43%
Consumer Staples 2.51% 8.96%
Utilities 1.31% 1.90%
Materials 2.87% 2.75%
Nguồn : Morgan Stanley Institutional Fund
Ta thấy qũy theo đuổi chiến lược tập trung đặc biệt vào nhóm
ngành Consumer Discretionary tỷ trọng của nhóm này trong DMĐT là
45.73%, trong khi của chỉ số là 25.53%, Ngoài ra nhóm năng lượng (
Energy ) cũng cũng có tỷ trọng lớn hơn so với chỉ số. Các nhóm có tỷ
trong thấp hơn tỷ trọng trong chỉ số bao gồm : công nghệ thông tin, dịch
vụ y tế và hàng tiêu dùng thiết yếu.
Trên đây chỉ là một số cách phân nhóm ngành cơ bản, trong quy
trình phân tích từ trên xuống ( quy trình phân tích top – down : phân tích
môi trường vĩ mô, thị trường –> phân tích ngành -> phân tích công ty ).
Các nhà đầu tư rất chú trọng đến việc phân ngành cụ thể và tiến hành
phân tích ngành. Họ thường dùng nhiều phương pháp và mô hình khác
nhau để phân tích về cơ hội, nguy cơ triển vọng phát triển và áp lực cạnh
tranh của từng ngành trước khi ra quyết định đầu tư.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
50
-Trong hệ thống tài chính, song song với hệ thống ngân hàng đã tồn
tại lâu đời với vai trò chủ yếu là kênh dẫn vốn ngắn hạn thì hệ thống các
tổ chức đầu tư tài chính phi ngân hàng đang và sẽ trở thành một kênh dẫn
vốn dài hạn quan trọng phục vụ cho nhu cầu đầu tư của dân chúng và huy
động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Các tổ chức đầu tư này chủ yếu bao
gồm các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và bảo hiểm xã hội, và các quỹ
đầu tư tín thác.
- Thế mạnh của các tổ chức đầu tư tài chính này bắt nguồn từ khả
năng huy động vốn lớn, dài hạn, trình độ quản lý đầu tư, phân tích cũng
như đánh giá đầu tư chuyên nghiệp nhờ chuyên nghiệp hóa cao. Điều này
không chỉ tạo ra mức lợi nhuận và rủi ro tối ưu cho nhà đầu tư mà còn
giúp tăng hàng hóa cho thị trường và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư tốt
hơn nhờ khả năng tham gia mạnh mẽ vào quản trị doanh nghiệp mà họ
đầu tư.
- Trong 3 loại hình tổ chức đầu tư tài chính chủ yếu nói trên, thì quỹ
hưu trí/ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm là hai loại hình có điều kiện phát
triển thuận lợi trước hết nhờ nguồn vốn sẵn có, nên cần được khai thác
phục vụ cho đầu tư một cách hiệu quả. Loại hình quỹ đầu tư tập thể và
kèm theo đó là công ty quản lý quỹ đòi hỏi nhiều thời gian để phát triển
do đây là loại hình mới đối với công chúng đầu tư, vốn đầu tư huy động
khó khăn và không sẵn có như quỹ hưu trí hay công ty bảo hiểm.
- Do đó, với hoàn cảnh Việt Nam, sẽ là hiệu quả hơn nếu Chính phủ
cho phép và tạo cơ chế để các quỹ hưu trí/ bảo hiểm xã hội và công ty bảo
hiểm tham gia tích cực và năng động hơn nữa vào đầu tư thị trường vốn.
Việc phát triển các quỹ đầu tư cũng cần chú trọng và có các biện pháp
khuyến khích về thuế cũng như cơ chế sử dụng đầu tư tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả đấu tư trên TTCK.
- Kinh nghiệm các nước đang và mới phát triển cho thấy, việc phát
triển các loại hình đầu tư tổ chức này cần có sự định hướng, hỗ trợ và
khuyến khích phát triển của Chính phủ. Kinh nghiệm Malaysia trong việc
hình thành các quỹ đầu tư huy động vốn trong dân nhưng có sự bảo trợ và
hỗ trợ của Chính phủ là rất đáng nghiên cứu áp dụng. Đây là kênh đầu tư
có tổ chức góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư trên TTCK
51
- Về chính sách thuế khuyến khích việc phát triển các quỹ đầu tư và
ngành quản lý quỹ, những nguyên tắc không đánh thuế đối với quỹ đầu tư
ở các nước hay ưu đãi thuế đối với quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ của
Malaysia là những bài học rất bổ ích cần nghiên cứu áp dụng tại Việt
Nam.
- Nhân lực có kỹ năng và trình độ chuyên nghiệp cao trong hoạt
động đầu tư cũng là yếu tố quan trọng để phát triển các loại hình này.
Trong giai đoạn phát triển ban đầu, song song với việc đào tạo nguồn
nhân lực trong nước, các nước đều khuyến khích việc tham gia của các tổ
chức quản lý đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài nhằm thu hút và sử dụng
kỹ năng quản lý đầu tư chuyên nghiệp của nước ngoài mà trong nước chưa
có được. Điều này cần được lưu ý ở Việt Nam do số lượng cũng như chất
lượng cán bộ quản lý, phân tích và đánh giá đầu tư còn rất thấp chưa đáp
ứng được yêu cầu của thị trường vốn. Vì vậy, việc cho phép các tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài tham gia vào quản lý đầu tư trong nước
là cần thiết.
- Ngoài ra, để đảm bảo tính chuyên nghiệp và chất lượng của việc
quản lý quỹ đầu tư ( tiền của khách hàng), các nước trong khu vực cũng
như các nước phát triển yêu cầu các nhân viên hành nghề quản lý quỹ
phải được cấp phép hành nghề ( đạt các tiêu chuẩn hành nghề tối thiểu và
thi sát hạch chuyên môn).
Bên cạnh đó ta còn rút kinh nghiệm chiến lược đầu tư như sau:
Kinh nghiệm chiến lược thụ động (Buy and Hold
Strategy)
Theo chiến lược này, nhà đầu tư sau khi đã phân tích và lựa chọn
một cách cẩn trọng họ sẽ mua và nắm giữ các chứng trong thời gian dài,
họ chỉ quan tâm đến sự tăng trưởng dài hạn của công ty mà không quan
tâm đến những biến động ngắn hạn trên thị trường. Chiến lược này thường
được sử dụng bởi các nhà đầu tư lớn, họ nắm giữ tỷ lệ cổ phần tương đối
lớn trong các công ty mà họ đầu tư. Họ cũng có những ảnh hưởng nhất
định trong quá trình hoạch định chiến lược và điều hành doanh nghiệp.
Nhà đầu tư dài hạn tiêu biểu chính là Warren Buffett, chiến lược nổi bật
của ông là nắm giữ chứng khoán lâu dài. Để xem xét xem các khoản đầu
tư của Berkshire, ông thường xem xét kết quả hoạt động thực sự của các
công ty, chứ không quan tâm nhiều đến bảng yết giá ngắn hạn của nó trên
52
thị trường. Buffet nói rằng “ tôi hoàn toàn hài lòng nắm giữ vô hạn bất kỳ
loại chứng khoán nào, chừng nào triển vọng từ lợi suất vốn vẫn còn thỏa
đáng, ban giám đốc vẫn còn năng lực và lương thiện, và thị trường vẫn
chưa định giá cao doanh nghiệp ấy.” ( Chiến lược đầu tư vào thị trường
chứng khoán của Warrant Buffet – Minh Đức – NXB Thống Kê) Ưu điểm
nổi bật của chiến lược này là sự ổn định và triển vọng lâu dài,chi phí giao
dịch và chi phí quản lý thấp nhưng nhược điểm của nó là sự thiếu linh
hoạt, chậm thích ứng với những biến động của thị trường.
Kinh nghiệm chiến lược chủ động hoàn toàn :
Ngược lại với chiến lược mua và nắm giữ, nhà đầu tư theo chiến
lược này thường không gắn bó với loại cổ phiếu nào một cách lâu dài. Họ
thường dùng các phương pháp phân tích cơ bản phân và đặc biệt là phân
tích kỹ thuật tích kỹ thuật để định giá chứng khoán và để dự báo các xu
hướng ngắn hạn và dài hạn của thị trường. Nhà đầu tư chủ động mua bán
chứng khoán liên tục, thay đổi danh mục đầu tư liên tục, tận dụng những
khoảng thay đổi nhỏ nhất của thị trường để thu lợi nhuận. Chiến lược này
thích hợp với những quỹ nhỏ, ưu điểm của nó là tính linh hoạt phản ứng
nhanh trước những thay đổi của thị trường, thông thường nó mang lại khả
năng sinh lời cao hơn và giảm thiểu được rủi ro kỳ hạn. Tuy nhiên do phải
thường xuyên điều chỉnh DMĐT nên chi phí quản lý và chi phí giao dịch
cũng sẽ cao hơn.
Kinh nghiệm chiến lược hỗn hợp vệ tinh hạt nhân :
Các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư lớn thường không theo đuổi
chiến lược mua và nắm giữ thuần túy hay chiến lược chủ động thuần túy.
Họ theo đuổi chiến lược kết hợp nhằm tận dụng ưu thế của cả hai chiến
lược này
Ta có sơ đồ minh hoạ chiến lược này như sau :
53
Theo chiến lược này chúng ta sẽ xây dựng danh mục đầu tư gồm 2
phần : phần hạt nhân và phần vệ tinh.
Phần hạt nhân : thường chiếm tỷ trọng lớn nhất, đây là phần mà
nhà đầu tư theo đuổi chiến lược thụ động. Đây là danh mục gồm các
chứng khoán được các nhà đầu tư phân tích và thẩm định kỹ càng
về triển vọng phát triển lâu dài. Nhà đầu tư có thể nắm giữ tỷ lệ cổ
phần tương đối lớn trong công ty và họ có khả năng chi phối ở mức
độ tương đối quá trình quản trị và điều hành công ty.
Phần vệ tinh: chiếm tỷ trọng nhỏ hơn và được chia thành nhiều
danh mục nhỏ. Phần vệ tinh này sẽ theo đuổi chiến lược chủ động
hoàn toàn. Các Portfolio manager được giao quản lý những danh
mục này sẽ tiến hành mua bán chứng khoán một cách chủ động
nhằm tạo ra lợi nhuận cao nhất.
Trên đây là một số vấn đề mang tính học thuật cũng như kinh
nghiệm thực tiễn về chiến lược quản lý đầu tư của các nhà đầu tư tại các
quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Trong một môi trường đầy biến
động như thị trường chứng khoán, chắc chắn không có công thức thành
công nào được áp dụng chung cho tất cả mọi lúc, mọi nơi. Nhất là những
kinh nghiệm cũng như những lý thuyết về chiến lược quản lý đầu tư trong
bài viết này được đúc rút từ những thị trường chứng khoán đã phát triển
PHẦN HẠT
NHÂN
( 60% )
VỆ
TINH
(10%)
VỆ
TINH
10%
VỆ
TINH
( 10%)
VỆ
TINH
10%
54
hàng trăm năm, có những điều kiện và hoàn cảnh khác biệt rất nhiều so
với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt Nam. Nhưng như người
xưa vẫn thường nói “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy những nguyên lý,
những điều cơ bản, những nguyên tắc không thay đổi để ứng phó với
muôn vạn cái thay đổi. Việc đi tìm hiểu những chiến lược quản lý đầu tư
của chúng ta chính là quá trình đi tìm cái “ bất biến” ấy. Dù không phải
tất cả những kinh nghiệm trên đều hữu ích và có thể áp dụng được trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, nhưng hy vọng rằng phần nghiên cứu trên
sẽ giúp chúng ta phần nào đó có được những kinh nghiệm cần thiết và đặc
biệt là định hướng trong tư duy để ứng phó thành công trước những cái “
vạn biến ” của thị trường chứng khoán.
55
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỔ
PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM
2.1.1 Diễn biến hoạt động của các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Thị trường Chứng khoán Việt Nam đã ra đời và chính thức đi vào
hoạt động hơn 5 năm qua. Mặc dù sự ra đời của thị trường chứng khoán đã
mở ra một giai đoạn phát triển mới cho hệ thống tài chính Việt Nam
nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm để thúc đẩy sự phát triển
của thị trường này cho đúng với tiềm năng của nó.
Từ khi thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam không
ngừng phát triển, từ chỗ chỉ có vài trăm nhà đầu tư trong những ngày đầu
mới thành lập, đến nay tổng số tài khoản giao dịch chứng khoán đã tăng
lên mức hơn 55.0001 tài khoản, tăng gần gấp đôi so với cuối năm 2005,
ngoài ra còn có một lực lượng hàng chục ngàn, thậm chí háng trăm ngàn
nhà đầu tư tiềm năng hiện đang tham gia giao dịch chứng khoán chưa
niêm yết. Tuy nhiên số lượng nhà đầu tư tham gia mở tài khoản và đầu tư
trên thị trường vẫn còn rất ít so với các nước khác trong khu vực và chủ
yếu là các nhà đầu tư cá nhân, ít vốn và chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố
tâm lý, nhất là khi thị trường thăng trầm. Lực lượng nhà đầu tư có tổ chức
còn quá ít là một trong những nguyên nhân làm cho thị trường chứng
khoán Việt Nam dễ bị tổn thương trước những cú sốc.
Hẳn nhiều nhà đầu tư chưa quên sự kiện thị trường chứng khoán
Việt Nam tăng nóng với mức tăng VN Index từ 100 điểm lên 571,04 điểm
(ngày 6/7/2001) và rồi sau đó thị trường sụp đổ, VN Index “rơi tự do” từ
đỉnh cao 571,04 xuống gần 130 điểm làm cho nhiều nhà đầu tư đang trong
tình trạng lãi lớn đã nhanh chóng trở thành con nợ lớn.
Sự kiện tương tự xảy ra vào năm 2006, VN Index đã đạt đến mức
632,69 điểm tại phiên giao dịch ngày 25/4, vượt xa kỷ lục cũ là 571,04
1 www.mof.gov.vn, 21/04/2006, “Sôi động thị trường chứng khoán ”
56
điểm, nhưng đến tuần thứ 2 của tháng 5/2006 thị trường chứng khoán Việt
Nam “rơi tự do”, đưa chỉ số VN Index quay trở về mức mở đầu tháng
3/2006 dưới ngưỡng 400 điểm. Chỉ trong vòng hai tháng thị trường biến
động nhanh đến nỗi nhà đầu tư không kịp “trở tay”. So sánh hai trường
hợp trên, có thể thấy rằng mặc dù kịch bản cũng diễn ra tương tự, nhưng
bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 khác so với năm
2001. Số lượng cổ phiếu năm 2006 tăng lên 35 loại, hơn nhièu lần so với
năm 2001, khối lượng và giá trị khớp lệnh cũng ở một mức khác hẳn. Khối
lượng khớp lệnh trung bình từ đầu năm 2006 đến nay đạt 1.837.094 cổ
phiếu/phiên, trong khi khối lượng khớp lệnh trung bình giai đoạn 2000 –
2001 chỉ ở mức 83.580 cổ phiếu/phiên. Có thể nói, trong “cơn sốt” cổ
phiếu năm 2001, số lượng chứng khoán niêm yết còn thấp khi trào lưu
mua cổ phiếu tăng mạnh đã khiến giá chứng khoán tăng vọt mà không có
ai bán, cán cân cung cầu vô cùng căng thẳng và lệch lạc. Còn trong “cơn
sốt 2006” giá chứng khoán vẫn tăng nhanh do những nhận định đánh giá
hết sức lạc quan của cộng đồng quốc tế về thị trường chứng khoán Việt
Nam vào thời điểm đó và sự nới lỏng “room” cho nhà đầu tư nước ngoài
từ 30% lên 49% đã tạo ra một sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán
Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài và kéo theo sự hưng phấn đầu tư
cho các nhà đầu tư trong nước, đầu tháng 4/2006 trung bình mỗi ngày thị
trường tiếp nhận thêm từ 3.000 đến 4.000 nhà đầu tư. Cầu tăng mạnh
nhưng lượng cung muốn bán ra thu lợi cũng rất nhiều; cán cân cung cầu
tuy căng thẳng nhưng nhìn chung vẫn ở mức có thể chấp nhận. Tuy nhiên
có một điểm tương đồng trong cả hai trường hợp trên là: sự trường chuyển
từ cực nóng sang cực lạnh, nguyên nhân phần lớn là do tâm lý đầu tư
không được ổn định của các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là các nhà đầu
tư cá nhân vốn nhỏ, ít kiến thức, thời gian và thông tin về thị trườmg thực
hiện chiến lược mua bán theo những biến động giá ngắn hạn.
Sự không ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam trong hai sự
kiện trên là hệ quả tất yếu của một thị trường mang nặng yếu tố tâm lý.
Hiện tượng tham gia thị rường chứng khoán theo kiểu phong trào, đôi khi
mang tính chụp giật vừa qua đã phá vỡ diễn tiến thực chất của thị trường.
Hàng ngày, một lực lượng lớn các nhà đầu tư mới hăm hở lao vào thị
trường chứng khoán mà chưa kịp trang bị cho mình lượng kiến thức tối
thiểu về chứng khoán, bỏ qua thông tin, bỏ qua những cảnh báo…, đã dẫn
tới hiện tượng tranh mua, tranh bán (mua thì mua thật nhanh, bán cũng
bán thật nhanh) khiến thị trường cũng chẳng kịp điều chỉnh.
57
Hơn nữa một nghịch lý của kịch bản năm 2006 là trong khi quy mô
thị trường ngày càng được mở rộng đồng nghĩa với việc tăng tính thanh
khoản cho các loại cổ phiếu trên thị trường thì vòng xoáy giảm giá vẫn
tiếp tục diễn ra. Trong bối cảnh đồng loạt hàng triệu cổ phiếu của các
công ty niêm yết mới và phát hành thêm nối đuôi nhau lên sàn, thì có một
làn sống rời khỏi thị trường. Một số nhà đầu tư thì án binh bất động, số
khác chỉ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nang cao hieu qua dau tu Chung khoan.pdf