Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc

Lời nói đầu 3

Chương 1: Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong các doanh nghiệp 5

1. Khái niệm và kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp 5

1.1. Tổng quan về doanh nghiệp 5

1.2. Khái niệm TSLĐ và sự cần thiết phải quản lý TSLĐ 6

1.3. Kết cấu TSLĐ 8

1.4. Vai trò của TSLĐ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh 8

1.5. Nguồn tài trợ TSLĐ của doanh nghiệp 9

2. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ 10

2.1. Hiệu quả sử dụng TSLĐ 10

2.2. Phương pháp đánh giá 11

2.2.1. Phương pháp so sánh 11

2.2.2. Phương pháp tỷ số 13

2.3. Nội dung quản lý TSLĐ 17

2.3.1. Quản lý dự trữ tồn kho 17

2.3.2. Quản lý ngân quỹ và các chứng khoán thanh khoản cao 20

2.3.3. Quản lý các khoản phải thu 25

3. Các nhân tố ảnh hưởng và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu

quả sử dụng TSLĐ 29

3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ 29

3.2. Các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ 32

Chương 2: Thực trạng sử dụng TSLĐ tại xí nghiệp kinh doanh các

 sản phẩm khí miền bắc 33

1. Giới thiệu chung về xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền

 

doc84 trang | Chia sẻ: Huong.duong | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ quan: a/ Trình độ quản lý: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều chúng ta quan tâm nhất ở đây là công tác quản lý TSLĐ tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có một ban lãnh đạo có trình độ quản lý tốt từ trên xuống sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động với hiệu quả cao và ngược lại trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ, làm giảm tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. b/ Trình độ nguồn nhân lực: nếu một doanh nghiệp chỉ có cán bộ lãnh đạo tốt thì chưa đủ, mà quan trọng hơn là doanh nghiệp phải có một đội ngũ người lao động tốt, đủ sức thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Sở dĩ như vậy là vì chính người lao động mới là những người thực hiện các kế hoạch đề ra, là người quyết định vào sự thành công hay thất bại của kế hoạch đó. Nếu người lao động có trình độ tay nghề cao, có ý thức kỷ luật, gắn bó và hết mình vào sự phát triển của doanh nghiệp thì chắc chắn hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất cao và thực hiện thắng lợi các mục tiêu doanh nghiệp đã đề ra. c/ Trình độ công nghệ: nếu doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại thì sẽ giảm được định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho sản xuất, giảm chi phí sản xuất dở dang, rút ngắn chu kỳ sản xuất. 3.2. Các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ: Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp có thể quan tâm đến một số biện pháp sau: Thứ nhất, xác định một cách chính xác nhu cầu về TSLĐ tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động các nguồn tài trợ thích hợp, cũng như các kế hoạch mua sắm hay dự trữ TSLĐ trong kỳ sản xuất. Thứ hai, tổ chức tốt quá trình sản xuất và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cần phải phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, tiết kiệm được nguyên vật liệu, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, tăng cường các hoạt động marketing,để nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm, hạn chế đến mức thấp nhất sản phẩm tồn kho, tăng nhanh vòng quay TSLĐ. Thứ ba, làm tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần chủ động trong thanh toán công nợ, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn. Đồng thời vốn bị chiếm dụng còn chứa đựng rủi ro không thu hồi được, gây thất thoát nguồn vốn của doanh nghiệp. Để phòng ngừa rủi ro, doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm hoặc lập các quỹ dự phòng. Trên đây là những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Trong thực tế các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải sử dụng kết hợp các biện pháp này một cách linh hoạt, đồng thời thực hiện một số biện pháp cụ thể khác phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Chương 2 Thực trạng sử dụng tài sản lưu động tại xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc ********* Giới thiệu chung về xí nghiệp kinh doanh sản phẩm khí miền Bắc: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của xí nghiệp kinh doanh sản phẩm khí miền Bắc: Tên gọi: Xí nghiệp kinh doanh sản phẩm khí Miền Bắc (sau đây gọi tắt là xí nghiệp II). Trụ sở chính: số 29F Hai Bà Trưng - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội . Tel: 9.348344 Fax: 9.348353/9.348354. Do xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc (xí nghiệp II) là một đơn vị trực thuộc của công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí (sau đây gọi là công ty) nên phần này sẽ giới thiệu những nét tổng quát về công ty và giới thiệu chi tiết hơn về đơn vị thực tập là xí nghiệp kinh doanh các sản phẩm khí miền bắc. Những nét chính về công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí: a/ Quá trình hình thành và phát triển công ty: Công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí (viết tắt là PVGAS- Petro Vietnam Gas Company) là một đơn vị trực thuộc tổng công ty dầu khí Việt Nam, được thành lập từ 9/1990, có trụ sở tại 101 Lê Lợi, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu với tổng số vốn ban đầu là gần 70 tỷ VNĐ. Đây là đơn vị duy nhất của tổng công ty dầu khí Việt Nam làm công việc chế biến, phân phối và kinh doanh các sản phẩm khí. Tháng 5/1995, công ty đã khánh thành hệ thống ống dẫn khí ở mỏ Bạch Hổ để nhận gas từ ngoài khơi vào bờ. Hệ thống ống dẫn được xây dựng để phân phối gas từ mỏ Bạch Hổ và các mỏ khác vào bờ rồi phân phối cho các kho, trạm. Việc khai thác gas từ mỏ Bạch Hổ đã tăng từ 2 triệu m3/ngày trước năm 1997 và tăng lên 4 triệu m3/ngày vào cuối năm 1998. Đến tháng 4/1999, dự án gas Dinh Cố được đi vào hoạt động. Tháng 5/1999, công ty đã thực hiện kế hoạch sản xuất gas đầu tiên bắt đầu là 250000 tấn khí lỏng/năm. Từ đó công ty thoả mãn phần lớn các nhu cầu về gas trong nội địa và xuất khẩu ra các nước. Ngoài hai dự án ở mỏ Bạch Hổ và Dinh Cố, công ty còn tiến hành xây dựng và thực hiện các dự án Nam Côn Sơn với trữ lượng 58 tỷ m3 gas, được xây dựng hệ thống ống dẫn dài 400 km để đưa gas từ ngoài khơi vào mỏ Lan Tây để công ty phân phối gas đến các trạm ở Phú Mỹ; dự án xây dựng hệ thống ống dẫn Phú Mỹ- thành phố Hồ Chí Minh để dẫn gas đến các trạm và nhà máy công nghiệp dọc bờ biển từ Phú Mỹ vào thành phố Hồ Chí Minh. Khí tự nhiên được sử dụng ở nhiều nước với nhiều lợi ích như làm trong sạch môi trường, giảm chi phí sản xuất và thuận tiện trong sử dụng. Gas hiện nay được sử dụng rộng rãi như một loại nhiên liệu được lựa chọn để tạo ra năng lượng nói chung và năng lượng phục vụ cho công nghiệp nói riêng. Gas ở Việt Nam được sử dụng chủ yếu cho việc sản xuất điện, làm nhiên liệu phục vụ cho hoạt động công nghiệp và đời sống của dân cư. Từ khí đồng hành khai thác ở các mỏ, công ty đã xây dựng hệ thống ống dẫn đưa về các kho, trạm và thực hiện quá trình tách, lọc để tạo ra hai sản phẩm chính là khí hoá lỏng (viết tắt là LPG với thành phần bao gồm 50% propan và 50% butan ± 10(mol)) và condensate. Từ đây công ty có thể thoả mãn nhu cầu về LPG của Việt Nam và xuất khẩu một phần LPG ngay khi thị trường LPG chưa phát triển mạnh. Để đáp ứng được nhu cầu về gas, giảm chi phí vận chuyển và chi phí hoạt động, công ty đã xây dựng các trung tâm phân phối ở khắp cả nước. Công ty đã thành lập hai xí nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để quản lý mạng lưới phân phối gas ở miền Bắc và miền Nam. Như vậy sau hơn 10 năm hoạt động, công ty từ chỗ có hơn 100 nhân viên thì đến nay số lượng nhân viên là hơn 700 với mạng lưới phân phối rộng khắp cả nước, góp phần trong sự phát triển chung của đất nước. b/ Các hoạt động của công ty: Vận chuyển, tồn trữ và phân phối các sản phẩm khí. Kinh doanh khí và các sản phẩm khí. Xây dựng, tổ chức và duy trì các dự án gas. Kinh doanh nguyên liệu, công cụ và hoá chất phục vụ cho quá trình sản xuất gas. Hợp tác với các đối tác trong nước và quốc tế trong việc kinh doanh, sản xuất và phân phối các sản phẩm gas. Giới thiệu chung về xí nghiệp II: Xí nghiệp kinh doanh sản phẩm khí miền Bắc là một đơn vị trực thuộc của công ty chế biến và kinh doanh sản phẩm khí, được thành lập tại quyết định số 2062/QĐ-HĐQT ngày 29/11/2000 của hội đồng quản trị tổng công ty dầu khí Việt Nam. Xí nghiệp có trụ sở chính tại 29F Hai Bà Trưng-Hoàn Kiếm-Hà Nội. Tuy nhiên trước khi chính thức được thành lập thì xí nghiệp vẫn hoạt động với tư cách là chi nhánh của công ty và đại diện cho công ty ở miền bắc. Xí nghiệp chịu trách nhiệm quản lý và điều hành mạng lưới phân phối sản phẩm khí trong phạm vi từ Đà Nẵng lên toàn bộ các tỉnh phía bắc. Gas sẽ được chuyển từ Vũng Tàu đến kho đầu mối Hải Phòng bằng đường thuỷ. Sau đó gas sẽ được đưa từ Hải Phòng đến trạm nạp ở Yên Viên, Yên Bái, Hà Tĩnh,bằng hệ thống xe bồn. Tại các trạm nạp, gas sẽ được nạp vào các bình gas và được phân phối đến các tỉnh từ Đà Nẵng trở lên các tỉnh phía Bắc để phục vụ cho công nghiệp và dân dụng. Bình gas mà xí nghiệp kinh doanh có hai loại: 12 kg và 45 kg, sản xuất cả ở trong và ngoài nước, được chế biến với áp suất thiết kế 17 kg/cm2, áp suất thử 34 kg/cm2 , được cơ quan có thẩm quyền thẩm định, cấp chứng nhận đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn DOT-4BA-240 và DOT-4BW-240, giấy phép sử dụng thiết bị chịu áp lực. Loại bình 45 kg được sử dụng để phục vụ cho các hộ công nghiệp nhỏ, các nhà hàng, khách sạn, còn loại bình 12 kg được sử dụng để phục vụ sinh hoạt của dân cư. Thành phần của LPG trong các bình là 50% propan +50% butan ±10 (mol). Bình có hai loại van là van ngang (pol) và van chụp (compact). Với một mạng lưới phân phối rộng như vậy, xí nghiệp đã tiến hành thuê một số trạm để thuận tiện cho việc vận chuyển, lưu trữ và làm giảm chi phí hoạt động. Xí nghiệp có hệ thống đại lý phân phối rộng khắp và cho đến nay, xí nghiệp đã có trên 100 đại lý (hệ thống cửa hàng cấp 1, cấp 2) và rất nhiều các cửa hàng phân phối khác (hệ thống cửa hàng cấp 3, cấp 4,). Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán phụ thuộc, được tự chủ trong sản xuất kinh doanh theo sự phân cấp của công ty và chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với công ty trong phạm vi số vốn do công ty giao cho xí nghiệp quản lý sử dụng. Cụ thể là trong hoạt động sản xuất kinh doanh, xí nghiệp có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ do xí nghiệp thực hiện. Việc tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ của xí nghiệp phải tuân thủ theo kế hoạch đã được giám đốc công ty phê duyệt. Kế hoạch sản xuất kinh doanh và dịch vụ của xí nghiệp được xây dựng hàng quý, năm, phù hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực do xí nghiệp quản lý. Trong hoạt động tài chính và hạch toán kế toán, xí nghiệp là đơn vị hạch toán phụ thuộc và thực hiện việc hạch toán theo Quy chế tài chính xí nghiệp, phù hợp với Quy chế tài chính công ty. Về tình hình nhân sự của xí nghiệp thì từ khi mới thành lập xí nghiệp chỉ có hơn 30 nhân viên. Cho đến nay thì xí nghiệp đã có trên 140 nhân viên, thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và các kỹ năng làm việc khác. Trong khuôn khổ biên chế được công ty phê duyệt, xí nghiệp được quyền sắp xếp, bố trí sử dụng, khen thưởng và kỷ luật đối với người lao động làm việc trong xí nghiệp. Việc tuyển dụng do công ty quyết định. Giám đốc xí nghiệp do tổng giám đốc công ty quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của giám đốc công ty. Phó giám đốc xí nghiệp, phụ trách kế toán xí nghiệp và các bộ phận trực thuộc xí nghiệp do giám đốc công ty quyết định theo đề nghị của giám đốc xí nghiệp. Xí nghiệp có trách nhiệm chăm lo nguồn nhân lực để đảm bảo chiến lược phát triển và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, chăm lo, cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện sống của người lao động theo Bộ luật lao động và Luật công đoàn. . Chức năng và nhiệm vụ của xí nghiệp II: Xí nghiệp có chức năng thực hiện việc vận chuyển, kinh doanh, điều hành và quản lý mạng lưới phân phối các sản phẩm khí (LPG,) ở khu vực phía Bắc (từ Đà Nẵng trở ra). Nó có các nhiệm vụ cụ thể sau: Tổ chức vận chuyển, đóng bình, kinh doanh, tiêu thụ các sản phẩm khí bao gồm khí hoá lỏng (LPG), condensate. Tổ chức mạng lưới kinh doanh tiêu thụ các sản phẩm khí. Thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác có liên quan như cung cấp và lắp đặt các loại thiết bị chuyên dụng, vật tư, hoá chất,trong lĩnh vực kinh doanh các sản phẩm khí. Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được công ty ủy quyền. Ngoài ra, xí nghiệp còn có một số nhiệm vụ khác bổ trợ cho việc kinh doanh các sản phẩm khí như giao nhận LPG bằng tàu, xây dựng hệ thống kho cảng. Bộ máy tổ chức xí nghiệp: Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc xí nghiệp do Tổng giám đốc Tổng công ty quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Giám đốc công ty. Giám đốc xí nghiệp là đại diện của xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và Pháp luật về điều hành hoạt động của xí nghiệp. Sơ đồ tổ chức xí nghiệp kinh doanh sản phẩm khí miền bắc Giám đốc xí nghiệp Pgđ kỹ thuật Pgđ kinh doanh Phòng kế toán Phòng hành chính Phòng kinh doanh Trạm nạp yên viên Kho hải phòng Phòng kỹ thuật - Tổ xe bồn - Tổ xe bình Hệ thống cửa hàng Tổ thị trường Tổ bán hàng - T.bảo dưỡng, sửa chữa - T.thi công - T.kỹ thuật, an toàn. - T.hành chính - T.vận hành - T. bốc xếp - T.bảo vệ và PCCC. - T.hành chính - T.vận hành - T. bốc xếp - T.bảo vệ và PCCC. ệ - T.gas dân dụng. - T.gas công nghiệp. - T.xăng dầu. -T.gas dân dụng. - T.gas công nghiệp. - T.giao nhận tàu - Cửa hàng 1 - Cửa hàng 2. - Cửa hàng Phó giám đốc xí nghiệp (bao gồm Phó giám đốc kinh doanh và Phó giám đốc kỹ thuật) là người giúp việc cho Giám đốc xí nghiệp điều hành một hoặc một số lĩnh vực công việc theo phân công hoặc uỷ quyền của Giám đốc xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước Giám đốc xí nghiệp về nhiệm vụ được Giám đốc xí nghiệp phân công và uỷ quyền. Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ thuộc xí nghiệp có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc xí nghiệp trong quản lý và triển khai thực hiện nhiệm vụ của xí nghiệp. - Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ : + Tuyển dụng và bố trí cán bộ công nhân viên chức. + Giải quyết các vấn đề thuộc về nhân sự trong xí nghiệp như thi đua khen thưởng, tính lương, thưởng cho cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp. - Phòng kỹ thuật có nhiệm vụ: + Thực hiện các chức năng của bộ phận kỹ thuật. + Lập các hồ sơ dự án và quyết toán các công trình của công ty. + Xây dựng và thực hiện các hồ sơ dự thầu. - Phòng kinh doanh có nhiệm vụ: + Quản lý tổng đại lý, đại lý bán lẻ LPG và bán buôn. + Nghiên cứu, khảo sát và tổng hợp chính sách giá bán lẻ, giá bán cho các hộ công nghiệp và các chính sách của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh tiêu thụ sản phẩm khí và xăng dầu. +Đề xuất chính sách giá, chính sách khuyến mãi, chiết khấu, tiếp thị, quảng cáo, biện pháp tăng khả năng cạnh tranh... - Phòng kế toán theo quy định của nhà nước có nhiệm vụ giúp giám đốc trong công tác hạch toán kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời có nhiệm vụ tổ chức toàn bộ công tác hạch toán kế toán tại xí nghiệp, phản ánh toàn bộ tài sản hiện có cũng như các hoạt động kinh tế phát sinh, cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính của xí nghiệp cho giám đốc, giúp giám đốc điều hành và ra các quyết định đạt hiệu quả cao. - Trạm nạp Yên Viên - Kho Hải Phòng Như vậy, với bộ máy tổ chức này, xí nghiệp đảm bảo được tính tập trung và chuyên môn hoá cao; các bộ phận, các cá nhân phát huy được khả năng của mình, góp phần vào sự phát triển chung của toàn xí nghiệp. Thực trạng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp 2000 - 2002: Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam và môi trường kinh doanh của xí nghiệp II trong những năm qua: Trong những năm qua, tình hình kinh tế Việt Nam cũng có nhiều biến động do những biến động của kinh tế thế giới. Cụ thể năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 6,8% do kinh tế thế giới sụt giảm nghiêm trọng và sự tụt giá của các loại nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê và hạt tiêu. Tuy nhiên đến năm 2002, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp, thị trường biến động với giá nhiều loại mặt hàng xuống thấp, cạnh tranh gay gắt, thiên tai gây nhiều tổn thất. Tăng trưởng GDP của năm 2002 là 7,04%, đạt mức cao thứ hai trong khu vực (chỉ sau Trung Quốc); tích luỹ tăng 13,2%; xuất khẩu tăng 8%; sản lượng công nghiệp tăng 14%; tạo thêm 14 triệu việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị. Kinh tế vĩ mô ổn định, chỉ số giá cả tăng 4% cho thấy nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn trầm lắng. Tình hình xuất khẩu được mở rộng sang hai thị trường Trung Quốc và Mỹ, trong đó xuất khẩu sang Mỹ tăng cao 45% bao gồm dầu thô, hải sản, giày dép, Về môi trường pháp lý, chính phủ cũng thường xuyên ban hành các văn bản điều chỉnh sự hoạt động của các doanh nghiệp như sự thay đổi về hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp, Riêng đối với lĩnh vực dầu khí, các doanh nghiệp dịch vụ của Petro Vietnam mới chỉ chiếm khoảng 30% thị phần của thị trường dịch vụ dầu khí. Phần còn lại đều do các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chi phối. Năm 2002, nhu cầu tiêu thụ ở thị trường này đạt mức 1,8 tỷ USD, tăng gần 670 triệu so với năm 2001. Theo dự báo của Petro Vietnam, trong ba năm tới, con số này vào khoảng trên dưới 2 tỷ USD/năm; trong khi đó khả năng tăng thêm thị phần từ phía Việt Nam không cao, hy vọng chỉ được 45% vào năm 2005. Chính phủ đã đánh giá cao những thành công của ngành dầu khí trong những năm qua, góp phần đáng kể vào mức tăng GDP của cả nước. Tuy nhiên ngành dầu khí còn có những hạn chế về cơ chế tổ chức, tiến độ thực hiện các công trình dầu khí trọng điểm có mức đầu tư lớn. Chính phủ sẵn sàng cùng tổng công ty dầu khí tháo gỡ những khó khăn về cơ chế, tạo điều kiện cho tổng công ty huy động thêm vốn tham gia đấu thầu các gói thầu quốc tế. Theo kế hoạch đề ra trong thời gian tới đây, tổng công ty dầu khí sẽ tiến hành cổ phần hoá và đa dạng hoá hình thức sở hữu của 6 trong tổng số 17 doanh nghiệp nhà nước trực thuộc trong đó PVGAS theo dự định sẽ tiến hành cổ phần hoá một số phân xưởng. Một thuận lợi cho xí nghiệp II hoạt động là trong những năm qua, các hoạt động khai thác và thăm dò các mỏ dầu khí được thực hiện rất tốt. Nhiều dự án được tiến hành thực hiện với mức đầu tư rất lớn, đặc biệt là dự án Nam Côn Sơn được đi vào hoạt động trong năm 2002 đã cung cấp nguồn hàng tương đối ổn định. Trong những năm qua tình hình giá gas có những biến động lớn. Đầu năm 2001, do nhận thấy việc tiếp tục kinh doanh mặt hàng khí đốt có nguy cơ thua lỗ do giá thấp, các cửa hàng đại lý đồng loạt găm hàng nhằm đợi giá lên cao. Sau khi chính phủ cho phép bán sản phẩm theo mức giá nhập khẩu, tình trạng khan hiếm hàng mua không còn và đầu tháng 3/2001, giá gas ổn định ở mức 9000 đồng/ kg tức là tăng từ 20000 đến 25000 đồng/ bình 12 kg so với thời điểm trước đó. Đến đầu tháng 4/2001, giá gas tại TP HCM có xu hướng giảm từ 500 đến 700 đồng/ kg, giá bán lẻ là dưới 100000 đồng/bình 12 kg trong khi tại Hà Nội, giá bán gas tuy có giảm nhẹ song vẫn ở mức trên 100000 đồng/ bình 12 kg (cụ thể là 112000 đồng). Tháng 9/2001, giá gas lại tăng từ 200 đến 800 đồng/ kg do nguồn gas nội địa Dinh Cố cắt giảm sản lượng 25% trong nửa sau tháng 9 để sửa chữa khiến cho các công ty phải tăng nguồn nhập khẩu. Sau khi Dinh Cố sửa chữa xong, giá gas giảm và ổn định trở lại. Trong năm 2002, thị trường gas không có biến động lớn, giá gas tương đối ổn định. Những biến động về giá gas trên thị trường làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán gas của xí nghiệp và từ đó làm ảnh hưởng đến doanh thu của xí nghiệp. Những biến động này chủ yếu là do sự thay đổi về cung cầu trên thị trường và một phần là do chính sách của chính phủ. Ngoài ra xí nghiệp còn chịu tác động trực tiếp từ các chính sách của công ty. Sự thay đổi về quy chế tài chính, về cơ chế giá vốn hàng hoá hay về tình hình nhân sự đã dẫn tới sự thay đổi trong hoạt động của xí nghiệp. Hoạt động quản lý tài chính xí nghiệp: Xí nghiệp II là một đơn vị hạch toán phụ thuộc, có bảng cân đối kế toán, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước, có bộ phận kế toán thống kê. Trong hoạt động tài chính, xí nghiệp tuân theo các quy định hiện hành của nhà nước về quản lý tài chính, quy chế tài chính của công ty và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, của tổng công ty dầu khí Việt Nam và công ty. Xí nghiệp được giao vốn và tài sản để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Xí nghiệp có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý, bảo quản, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, bảo toàn phát triển vốn và tài sản do công ty giao, tổ chức theo dõi hạch toán, mua bảo hiểm và thực hiện đúng các quy định của nhà nước về chế độ quản lý và sử dụng vốn. Cụ thể là hàng năm công ty sẽ cấp cho xí nghiệp nguồn tài chính, Giám đốc cùng phó giám đốc sẽ giao cho phòng kế toán tài vụ. Phòng kế toán tài vụ sẽ tham mưu cho Giám đốc về lĩnh vực quản lý tài chính, đảm bảo cân đối tài chính phục vụ cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. Đồng thời phòng kế toán tài vụ cũng tổ chức công tác ghi chép, phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác về số lượng, giá trị tài sản, vật tư, tiền vốn cũng như chi phí, tạo điều kiện trong việc đề ra những biện pháp sử dụng đồng vốn có hiệu quả nhất. Hàng năm, dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, xí nghiệp sẽ tự lập kế hoạch trình công ty phê duyệt, bao gồm: kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu nộp ngân sách, lao động tiền lương và kế hoạch khác nếu có. Trong năm thực hiện, xí nghiệp sẽ căn cứ vào tình hình tài chính đó để thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc theo quy chế tài chính của xí nghiệp phù hợp với quy chế tài chính của công ty. Các quy định phân cấp cụ thể về tài chính cho xí nghiệp sẽ được công ty phê duyệt tuỳ theo tình hình phát triển của xí nghiệp. Trong trường hợp xí nghiệp muốn đầu tư xây dựng, mua sắm mới, cho thuê, nhượng bán, thanh lý tài sản thì do công ty quyết định trên cơ sở đề nghị của giám đốc xí nghiệp và phải tuân thủ theo chế độ hiện hành. Công ty có thể cấp cho xí nghiệp dưới hai hình thức: hoặc là công ty dùng tiền mua tài sản rồi cấp cho xí nghiệp hoặc xí nghiệp dùng tiền trong kỳ kinh doanh mua tài sản rồi ghi giảm số tiền phải nộp cho công ty. Trong quá trình sử dụng vốn cấp của công ty, xí nghiệp phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ sau: Nộp thuế cho nhà nước theo quy định hiện hành. Nộp 100% khấu hao tài sản cố định về công ty. Nộp công ty giá sản phẩm theo hoá đơn công ty xuất cho xí nghiệp. Nộp lợi nhuận sau thuế trừ phần để lại trích lập hai quỹ phúc lợi, khen thưởng. Nộp công ty 5% quỹ khen thưởng, phúc lợi để hình thành quỹ tập trung của công ty, 95% còn lại xí nghiệp được sử dụng trên cơ sở kế hoạch. Xí nghiệp chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất kinh doanh và thanh toán đầy đủ chi phí theo đúng các nguyên tắc cân đối, tiết kiệm và có lãi. Hình thức kế toán áp dụng ở xí nghiệp là hình thức chứng từ ghi sổ, hình thức tổ chức kế toán là hình thức tập trung tức là các bộ phận kho, trạm, cửa hàng của xí nghiệp không tiến hành hạch toán kế toán mà chỉ thống kê các chứng từ thanh toán, phiếu nhập, xuất kho, các biên bản giao nhận hàng hoá với khách hàng rồi chuyển về xí nghiệp để hạch toán. Bộ phận kế toán xí nghiệp sẽ tiến hành thu nhận và hạch toán kế toán với 7 bộ phận: kế toán tổng hợp, kế toán thanh toán, kế toán bán gas công nghiệp, kế toán bán gas dân dụng, kế toán thuế, kế toán tài sản cố định, vật tư, công cụ và thủ quỹ. Tình hình hoạt động kinh doanh ở xí nghiệp II: Theo như bảng 1 thì doanh thu thuần của xí nghiệp qua 3 năm đều tăng. Cụ thể là năm 2001 tăng 131,5% (tương ứng với hơn 80 tỷ đồng) so với năm 2000; năm 2002 tăng 43,8% (tương ứng với 61,8 tỷ đồng) so với năm 2001. Như vậy tốc độ tăng doanh thu thuần của năm 2002 chậm hơn so với năm 2001. Điều này là do năm 2000 xí nghiệp còn đang là chi nhánh của công ty, chưa chính thức hình thành xí nghiệp, mới đi vào hoạt động nên khối lượng sản phẩm giao dịch không lớn. Đến cuối năm 2000, xí nghiệp mới chính thức được thành lập và trên cơ sở các mối quan hệ trước đây nên năm 2001, xí nghiệp đã có sự tăng cao về doanh thu. Tuy nhiên phần lợi nhuận sau thuế (LNST) của xí nghiệp chỉ có năm 2001 tăng. Cụ thể là phần LNST của xí nghiệp năm 2001 là trên 14 tỷ đồng tăng 115,2% (tương ứng với trên 13 tỷ đồng) so với năm 2000, trong khi đó năm 2002 LNST giảm đáng kể, chỉ trên 1,5 tỷ đồng, giảm 89% (tương ứng với trên 12,5 tỷ đồng) so với năm 2001. Điều này không có nghĩa là tình hình hoạt động kinh doanh của xí nghiệp năm 2002 không tốt. Sở dĩ phần LNST của xí nghiệp 2002 giảm nhiều như vậy là do sự thay đổi về cơ chế giao giá vốn của công ty cho xí nghiệp. Thay vì giao hàng cho xí nghiệp bằng giá thành trong năm 2001 thì năm 2002 công ty lại giao hàng cho xí nghiệp theo giá bán buôn cho khách hàng, từ đó làm cho giá vốn hàng bán của xí nghiệp năm 2002 tăng quá cao. Mặc dù các chi phí khác của xí nghiệp cũng tăng nhưng nguyên nhân chính làm LNST của xí nghiệp năm 2002 giảm là do giá vốn hàng bán. Vì vậy để có thể so sánh được LNST của xí nghiệp một cách chính xác thì phải tiến hành quy đổi giá vốn năm 2002 theo giá thành. Theo đó thì giá vốn hàng bán của năm 2002 sẽ là 139.589.447.149 đồng và LNST của xí nghiệp năm 2002 là 25.394.895.589 đồng. Như vậy thì thực tế xí nghiệp có LNST năm 2002 tăng 78,3% (tương ứng hơn 11 tỷ đồng) so với năm 2001. Về tình hình thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, xí nghiệp luôn thực hiện đúng các quy định của nhà nước. Trên thực tế thì xí nghiệp chỉ nộp phần thuế giá trị gia tăng vì theo quy định thuế giá trị gia tăng được tính và nộp ngay trong tháng phát sinh doanh thu, chi phí. Còn phần thuế thu nhập doanh nghiệp thì xí nghiệp chỉ tính toán và sau đó nộp lên cho công ty phần lợi nhuận trước thuế của xí nghiệp trong năm. Từ đó công ty sẽ tiến hành phân bổ các chi phí khác và tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước. Như vậy thì như phân tích ở trên, sự thay đổi chính sách về giá vốn hàng bán năm 2002 chỉ làm thay đổi số liệu tại xí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5607.doc
Tài liệu liên quan